TÀi liệu bồi dưỠng kiến thức cải cách hành chính nhà NƯỚc ban hành kèm theo Quyết định số 1296/QĐ-ubnd ngày
Văn phòng Thủ tướng và Nội các đóng vai trò quan trọng và tích cực trong thực thi kế hoạch cải cách. Một số tổ chức đã được thiết lập để chỉ đạo, hỗ trợ cải cách: - Văn phòng Thủ tướng và Nội các đã thành lập Mạng lưới chính sách chiến lược (MLCSCL), bao gồm các nhà thực tiễn về chính sách chiến lược, kể cả những vấn đề về phương pháp luận thực tiễn tốt hơn. Mạng lưới do Văn phòng Thủ tướng và Nội các lãnh đạo, đang phát triển nguồn lực chính sách chiến lược trực tuyến để các cơ quan có thể vào mạng tiếp cận các công cụ phát triển chính sách thực tiễn. - Ban Thứ trưởng đã được thành lập như là một diễn đàn lãnh đạo then chốt nhằm thảo luận các vấn đề tác động tới toàn bộ nền công vụ. Ban này bao gồm Thứ trưởng của các bộ cũng như các ủy viên Ban Công vụ Australia. Ban do Thứ trưởng Văn phòng Thủ tướng và Nội các lãnh đạo. Ban được hỗ trợ bởi nhóm lãnh đạo cao cấp, gọi là Công vụ Australia 200. Công vụ Australia 200 bao gồm Thứ trưởng và công chức tương đương Phó Thứ trưởng của các bộ, cơ quan. Công vụ Australia 200 thảo luận các dự án quan trọng liên quan tới toàn bộ nền công vụ, tập trung vào các thách thức liên quan tới nhiều bộ, ngành. 1.2. Malaixia Malaixia đã trải qua nhiều cuộc cải cách hành chính trong thời gian qua: - Cải cách cho đến đầu những năm 70 của thế kỷ trước với mục tiêu xây dựng tổ chức và tăng cường năng lực hành chính nhằm hỗ trợ sự phát triển kinh tế - xã hội do nhà nước lãnh đạo. - Cải cách từ gần những năm 80: đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức, đó là coi trọng vai trò của thị trường và do đó Chính phủ phải thay đổi trong chính sách – Chính phủ chuyển từ vài trò can thiệp trực tiếp sang gián tiếp và hỗ trợ. Các trọng tâm cải cách hướng tới: + Nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng + Tăng cường phát triển nguồn nhân lực qua đánh giá kết quả hoạt động + Thay đổi hệ thống ngân sách + Thực thi chính sách nhìn về phương đông và tư nhân hóa + Chính phủ điện tử và đổi mới.
Có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong cải cách hành chính của các nước như sau: - Thứ nhất, quy mô cải cách, tức là nội dung cải cách nếu so với Việt Nam thì ở mức độ khiêm tốn. Điều đó được lý giải từ chính bản thân hệ thống hành chính các nước đã tương đối hợp lý, trong quá trình phát triển chỉ phát sinh một số vấn đề cần thay đổi, cải cách và do đó được tập trung nghiên cứu để thực hiện cải cách. - Thứ hai, một khi đã lựa chọn, xác định rõ nội dung, nhiệm vụ cải cách, thì đều có chương trình được Chính phủ thông qua để triển khai. Như vậy, cải cách được xác định ở tầm Chính phủ. Chính phủ cam kết cải cách thông qua các nghị quyết, chương trình của Chính phủ. - Thứ ba, trong mười năm trở lại đây, cải cách hành chính của các nước đều thể hiện 2 đặc trưng sau: + Nghiên cứu, áp dụng những vấn đề quản lý, giá trị tiên tiến từ khu vực tư vào khu vực công. + Cải cách đặt trọng tâm vào con người. Người dân được xác định là khách hàng của cơ quan hành chính. Đây là sự chuyển biến to lớn về nhận thức, về thái độ của công chức đối với người dân trong giải quyết công việc của dân theo quy định của pháp luật. - Thứ tư, các nước đều chú trọng việc lập ra các cơ quan, tổ chức để giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo triển khai cải cách. 2. Bài học thực tiễn từ việc thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai 2001-2010 của Chính phủ2.1. Những kết quả chủ yếu đạt được Mười năm qua, cải cách hành chính đã được triển khai đồng bộ trên tất cả các nội dung, thực hiện được nhiều công việc, từng bước đi vào chiều sâu, đã tạo ra những chuyển biến đáng ghi nhận của nền hành chính. Cải cách hành chính đã được xác định là một trong 3 giải pháp quan trọng để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội (2001-2010). Chương trình tổng thể với mục tiêu và giải pháp thực hiện cải cách hành chính là đúng đắn, có cơ sở, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của nước ta. Đã tạo ra sự thay đổi căn bản trong nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong toàn bộ hệ thống cơ quan hành chính các cấp từ Trung ương đến địa phương là: Phải tự thay đổi, tự cải cách để theo kịp, phục vụ sự phát triển và hội nhập của đất nước. Kết quả cải cách hành chính đã thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế; dân chủ hoá đời sống xã hội; hội nhập quốc tế; củng cố và duy trì ổn định chính trị; phòng chống tiêu cực, tiết kiệm, chống lãng phí. Những kết quả chủ yếu trong cải cách hành chính 10 năm được tập trung trên các mặt: Thể chế của nền hành chính được cải cách và hoàn thiện một bước cơ bản phù hợp với yêu cầu phát huy dân chủ với thiết lập chế độ công khai, minh bạch và cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phần lớn các chủ trương quan trọng của Đảng về các vấn đề cơ bản trong quá trình đổi mới, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được thể chế hóa và tổ chức triển khai. Thủ tục hành chính, nhất là thủ tục trong giải quyết công việc giữa cơ quan hành chính nhà nước với người dân và doanh nghiệp có bước chuyển biến rõ rệt, theo hướng công khai, minh bạch tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Một loạt các biện pháp, như: thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, cải cách thủ tục hành chính thuế, hải quan, cấp hộ chiếu, chứng minh nhân dân, công chứng, chứng thực… đã tạo đà cho những chuyển động sâu sắc trong cả hệ thống công vụ. Bộ máy hành chính hoạt động hiệu quả hơn so với 10 năm trước đây: bớt trùng lắp, chồng chéo về chức năng nhiệm vụ; đầu mối các cơ quan Chính phủ được thu gọn hơn; cơ cấu bên trong có sự phân định rõ hơn giữa cơ quan quản lý nhà nước và đơn vị sự nghiệp. Hiệu lực và hiệu quả quản lý hành chính nhà nước của hệ thống hành chính được nâng cao, tính thống nhất, công khai, minh bạch của nền hành chính đã được cải thiện và bước đầu phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước có bước điều chỉnh cho phù hợp, bảo đảm quản lý nhà nước và phục vụ xã hội. Phân công, phân cấp giữa cơ quan Trung ương với địa phương và giữa các cấp ở địa phương với nhau đã có tiến bộ rõ rệt, nhất là phân cấp về quản lý tài chính, ngân sách, quản lý cán bộ... Quan niệm và nhận thức về vai trò, chức năng quản lý vĩ mô của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường ngày càng rõ nét và phù hợp hơn. Công tác xây dựng, quản lý đội ngũ cán bộ, công chức có bước tiến mới. Đã từng bước rà soát, điều chỉnh và ban hành đồng bộ hệ thống tiêu chuẩn, chức danh công chức; tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức, viên chức. Đổi mới chế độ tuyển dụng, thi nâng ngạch cán bộ, công chức để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ. Cải cách tài chính công đã đạt được kết quả bước đầu; công tác quản lý tài chính, ngân sách có chuyển biến rõ nét. Việc giám sát chi tiêu bằng quy chế chi tiêu nội bộ đã có chuyển biến tích cực. Trụ sở làm việc từng bước được đầu tư khang trang hơn, nhất là Bộ phận một cửa cấp huyện. Việc áp dụng tiêu chuẩn ISO, ứng dụng công nghệ thông tin và các giải pháp quản lý khoa học trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ngày càng được mở rộng và có kết quả rõ nét (Phụ lục 9).
Nhiều cấp, nhiều ngành chưa đặt đúng cải cách hành chính là một trong 3 giải pháp cơ bản thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010. Tốc độ cải cách còn chậm, chưa nhất quán, hiệu quả còn thấp so với mục tiêu đặt ra là “đến năm 2010 xây dựng được một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại”. Nhìn một cách tổng thể, những kết quả đạt được trong 10 năm qua còn chưa tương xứng với yêu cầu, quy mô đổi mới toàn diện theo tinh thần Nghị quyết của Đảng và mục tiêu chung mà chương trình tổng thể đề ra; kết quả đạt được chưa bền vững. Hệ thống thể chế còn thiếu đồng bộ, thống nhất, còn chồng chéo, nhiều về số lượng nhưng chất lượng còn hạn chế. Có sự giảm đầu mối trực thuộc Chính phủ, nhưng bộ máy bên trong các bộ còn chưa giảm. Công tác kiểm tra sau phân cấp còn buông lỏng. Chưa xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính và chưa thực hiện tốt việc đào tạo trước khi bổ nhiệm; cơ chế quy định trách nhiệm của người đứng đầu chưa rõ ràng và chưa đánh giá được chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức sau đào tạo; công tác cải cách tiền lương triển khai còn chậm, tiền lương chưa thực sự là động lực thúc đẩy cán bộ, công chức thực thi công vụ. Cải cách tài chính công thực hiện mới chỉ là bước đầu, kết quả đạt được còn hạn chế. Các thể chế về cải cách tài chính công chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời cho phù hợp với thực tế. Áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001-2000 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước theo Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg ngày 20 tháng 6 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ kết quả đạt được còn hạn chế. Việc hiện đại hoá công sở chưa đồng bộ, dẫn tới manh mún, phân tán. Kết quả đầu tư xây dựng trụ sở xã vẫn chưa thực hiện được như Chương trình tổng thể đề ra. Ứng dụng công nghệ thông tin không đạt mục tiêu của Chương trình tổng thể. Có những đề án, dự án, biện pháp, chương trình hành động nhằm thực hiện cải cách hành chính trên 5 nội dung Chương trình tổng thể về hình thức và bản chất thì rất có ý nghĩa nhưng vấn đề triển khai trong thực tế chưa mang lại nhiều kết quả như mong muốn, việc triển khai còn mang nặng tính hình thức, chưa chú ý sâu về chất lượng thực tế, chất lượng thực thi. Sự tham gia, đóng góp ý kiến của người dân, tổ chức, doanh nghiệp và công chúng vào quá trình cải cách hành chính còn ít, hạn chế. 2.3. Nguyên nhân Cải cách hành chính là công việc khó khăn, phức tạp, nhiều lực cản. Tuy được xác định là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên nhưng khâu tổ chức triển khai thực hiện từ Trung ương đến địa phương chưa ngang tầm nhiệm vụ. Tình trạng phó thác công việc cho cơ quan chức năng còn khá phổ biến ở nhiều bộ, ngành, địa phương. Chưa có nhiều giải pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả và chưa có sự chỉ đạo tập trung quyết liệt. Công tác truyền thông về Chương trình tổng thể làm chưa tốt, nên chưa tạo ra sự thống nhất cao về nhận thức trong toàn bộ hệ thống chính trị và sự đồng thuận trong nhân dân. Cải cách hành chính có mối quan hệ hữu cơ với cải cách lập pháp và cải cách tư pháp, nhưng do đặc điểm cấu trúc hệ thống chính trị nước ta nên thực chất, đó là ba bộ phận cấu thành cải cách nhà nước không tách rời nhau. Vì vậy, hiện tại vẫn thiếu một giải pháp cần thiết đủ tầm về mặt chỉ đạo để bảo đảm sự kết nối có hiệu quả. Một số mục tiêu xây dựng còn định tính nên rất khó đánh giá đúng hiệu quả, khó làm rõ trách nhiệm của cơ quan, tập thể, cá nhân có liên quan trong tổ chức thực hiện. Nhiều vấn đề quan trọng, cốt lõi nhưng chưa được làm rõ về mặt cơ sở lý luận nên khi triển khai còn lúng túng, khó tạo ra sự thống nhất cao trong chủ trương, nhận thức và cách làm. Nhiệm vụ đề ra nhiều nhưng chưa gắn với biện pháp bảo đảm cần thiết nên làm không đến nơi, đến chốn. Nguồn lực và những điều kiện bảo đảm cần thiết cho cải cách hành chính chưa ngang tầm, kể cả nguồn lực con người và tài chính. Tính chuyên nghiệp và chuyên sâu, kỹ năng hành chính của cán bộ, công chức còn thấp. Trình độ hiểu biết và kỹ năng của cán bộ, công chức để xử lý các vấn đề quản lý tầm vĩ mô và vi mô đạt thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính hiện đại. Nền hành chính còn lạc hậu so với mặt bằng trong khu vực và thế giới. Tệ cửa quyền, quan liêu, tham nhũng vẫn còn, một bộ phận cán bộ, công chức suy giảm lý tưởng, lối sống và vi phạm đạo đức công vụ, gây bất bình trong nhân dân. 2.4. Những bài học kinh nghiệm Quá trình triển khai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính 10 năm qua, từ những thành công cũng như những hạn chế, yếu kém đã cho phép rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây: Một là, nhận thức của các cấp, các ngành về mục tiêu, ý nghĩa, tầm quan trọng của cải cách hành chính đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước có ý nghĩa, tác dụng quyết định chi phối tới hành động cụ thể, trực tiếp trong cải cách hành chính. Do đó, phải coi trọng công tác tuyên truyền, quán triệt sâu rộng các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về cải cách hành chính đối với các cấp chính quyền và toàn thể nhân dân. Hai là, bảo đảm sự nhất quán, kiên trì, liên tục trong triển khai cải cách hành chính từ xây dựng chương trình, kế hoạch cải cách hành chính hàng năm của các bộ, ngành, địa phương và thường xuyên kiểm tra việc thực hiện. Nâng cao vai trò của cơ quan chủ trì tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong công tác điều phối chung, tổng hợp, đôn đốc và theo dõi việc thực hiện các chương trình. Điều kiện quan trọng đảm bảo sự thành công của cải cách hành chính là quyết tâm chính trị và trách nhiệm của người đứng đầu và Huy động được sự tham gia rộng rãi của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Ba là, để đảm bảo tính khả thi, cần xác định các mục tiêu, nhiệm vụ với mức độ phù hợp, thực hiện được trong 10 năm, coi trọng công tác thí điểm, làm thử trong triển khai cải cách hành chính. Quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường và nền hành chính phục vụ đã đặt ra nhiều vấn đề mới, chưa kết luận được ngay, nhưng thực tiễn vẫn phải thực hiện. Thông qua thí điểm mới có điều kiện đánh giá, sơ kết, tổng kết, rút ra những vấn đề cần xử lý tiếp và nhân rộng nếu thấy đúng. Các cơ chế cải cách như một cửa, khoán,… đã được hình thành qua phương thức thí điểm. Bốn là, hình thành bộ phận chuyên trách từ Trung ương đến địa phương để tổ chức thực hiện cải cách hành chính, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và gắn với đơn vị chức năng trực tiếp giúp việc cho thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước. Bố trí đủ nguồn lực cả về con người cũng như tài chính; có cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích và thu hút cán bộ, công chức có chuyên môn, nghiệp vụ cao tham gia tương xứng với tầm quan trọng của nhiệm vụ. 2.5. Những đặc trưng của cải cách hành chính Việt Nam Ngoài những điểm giống cải cách hành chính ở các nước, cải cách hành chính ở Việt Nam có những đặc trưng riêng sau: - Cải cách được tiến hành trong khuôn khổ hệ thống chính trị một đảng duy nhất cầm quyền. Mặt thuận lợi từ đặc trưng này chính là ở chỗ dễ tạo sự đồng thuận trong hoạch định chính sách, biện pháp, thể chế cho cải cách. - Cải cách hành chính diễn ra cùng một lúc với khá nhiều cuộc cải cách khác, ví dụ như cải cách kinh tế, cải cách lập pháp, cải cách tư pháp, cải cách giáo dục,... Đặc trưng này đòi hỏi phải có sự chỉ đạo thống nhất, tập trung nhằm bảo đảm mục tiêu chung của phát triển. - Cải cách hành chính được triển khai trên diện rộng, ở tất cả các cấp hành chính. 6 lĩnh vực cải cách, mỗi lĩnh vực lại bao gồm một loạt các lĩnh vực thành phần cho thấy tính phức tạp, độ rộng của cải cách hành chính ở Việt Nam. Từ những đặc trưng này rút ra những vấn đề sau: - Cải cách hành chính không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng Đặc trưng tiêu biểu của hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống một đảng duy nhất cầm quyền. Đặc trưng này chi phối nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề cải cách hành chính. Cải cách hành chính muốn tiến hành được, muốn duy trì và đẩy mạnh, trước hết phải là một chủ trương trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng không thể có cải cách, càng không thể có những kết quả tích cực. Từ năm 1995 cho đến nay, chủ trương cải cách hành chính đã được xác định trong một loạt các nghị quyết của Đảng tại các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương và trong các văn kiện Đại hội VII cho đến Đại hội XI. Năm 2007 đánh dấu một mốc thời gian quan trọng, chính là vì lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương Đảng có một Nghị quyết riêng về cải cách hành chính, đó là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X. Cải cách hành chính không tách rời sự lãnh đạo của Đảng vừa là bài học kinh nghiệm, vừa là đặc trưng cải cách của Việt Nam. Mặt thuận lợi của vấn đề này chính là ở chỗ sự hiện diện của các tổ chức Đảng, của các đảng viên đang giữ các chức vụ lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức của nhà nước từ trung ương tới cơ sở. Các thành viên này có trách nhiệm triển khai nghị quyết Đảng về cải cách hành chính thông qua các hình thức thích hợp, trong đó có hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. - Sự chỉ đạo nhất quán của Chính phủ là một yếu tố bảo đảm cải cách hành chính đạt kết quả. Với vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong chỉ đạo triển khai cải cách hành chính của đất nước. Từ chủ trương của Đảng, Chính phủ có trách nhiệm cụ thể hoá thành các chương trình, kế hoạch cải cách hành chính, trên cơ sở đó các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa phương các cấp xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch cải cách hành chính của mình nhằm bảo đảm mục tiêu chung của cải cách là xây dựng được một nền hành chính mạnh, hiệu lực, hiệu quả, vì dân phục vụ. Trước đây, Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và mới đây đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020. Công tác chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đối với công cuộc cải cách hành chính có ý nghĩa trên các phương diện: - Bảo đảm rõ định hướng, mục tiêu cải cách hành chính. - Xác định rõ các nhiệm vụ cải cách. - Xác định các trọng tâm, ưu tiên cải cách theo từng thời kỳ. - Xác định trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan hành chính, trước hết là Bộ trưởng và Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong triển khai cải cách hành chính. - Tổng kết từ thực tiễn cải cách để hoạch định thể chế, cơ chế mới, có tính chất áp dụng chung trong cả nước. - Cải cách hành chính triển khai với nhiều nội dung, vì vậy hết sức khó khăn và phải làm lâu dài. So với nhiều nước có tiến hành cải cách hành chính thì cải cách hành chính ở Việt Nam được triển khai trên nhiều lĩnh vực từ thể chế, tổ chức bộ máy, thủ tục tới con người, các cơ chế hoạt động, ứng dụng công nghệ thông tin vào hành chính,... Có thể nói gần như các yếu tố cấu thành cơ bản của nền hành chính quốc gia đều đòi hỏi phải cải cách, thay đổi. Chính vì vậy, việc triển khai không đơn giản và cũng không thể sớm đạt kết quả. Vấn đề này chi phối trước hết công tác xây dựng kế hoạch cải cách hành chính của các bộ, ngành và địa phương. Kế hoạch phải bao quát đủ các lĩnh vực cải cách, cụ thể hóa vào phạm vi trách nhiệm của từng cơ quan. Kể đến là công tác triển khai, kiểm tra việc thực hiện trong thực tiễn. - Bảo đảm tính đồng bộ của cải cách hành chính với các cuộc cải cách khác trong hệ thống chính trị Việt Nam cùng một lúc tiến hành một loạt các cải cách: cải cách lập pháp, cải cách tư pháp, cải cách kinh tế, cải cách giáo dục,... Mỗi cuộc cải cách theo đuổi các mục tiêu, kết quả riêng, tuy nhiên có rất nhiều vấn đề đan xen giữa các cuộc cải cách, thậm chí có vấn đề không thể nói chỉ thuộc một cuộc cải cách riêng biệt. Chính vì vậy, tính đồng bộ giữa các cuộc cải cách này có ý nghĩa quan trọng, nó tạo ra sự thống nhất ở tầm vĩ mô như hoạch định thể chế, chính sách, pháp luật để bảo đảm các cuộc cải cách có thể tốt hơn, không gặp trở ngại. Tuy nhiên, thực tiễn có lúc không diễn ra như vậy. Từ góc độ cục bộ của ngành, lĩnh vực, đã có lúc các bộ chuẩn bị các dự án luật trình Quốc hội thông qua và khi ban hành mới thấy rõ sự cản trở về cải cách hành chính đang được triển khai, làm cho thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý của các bộ phức tạp hơn; người dân, tổ chức phải vất vả hơn trong giải quyết công việc của mình. - Cải cách hành chính đòi hỏi phải có những thí điểm Trong quá trình cải cách, nhiều vấn đề trì trệ của nền hành chính được phát hiện và các giải pháp được đề xuất để thay đổi. Thông thường, các giải pháp đó về bản chất khác hẳn giải pháp hiện hành, lại chưa được kiểm nghiệm tính đúng đắn và chưa được thể chế hóa. Do vậy, hết sức cần thiết có sự thí điểm để qua thực tiễn xem xét tính phù hợp của các giải pháp. Một loạt các cơ chế có tính cải cách đang được triển khai trong quá trình cải cách đã ra đời theo cách như vậy. 3. Kết quả thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai 2001-2010 của tỉnh Ninh Thuận.3.1. Những kết quả chủ yếu đạt được Công tác cải cách hành chính của tỉnh đã được triển khai toàn diện trên các lĩnh vực: cải cách thể chế; tổ chức bộ máy hành chính; đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công; hiện đại hóa nền hành chính nhà nước đúng, đủ các nội dung, các bước theo lộ trình chung của Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010. Cùng với những tác động của cải cách kinh tế, cải cách tư pháp; cải cách hành chính đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương, củng cố lòng tin của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị-xã hội. Thể chế của nền hành chính được cải cách một bước cơ bản phù hợp với yêu cầu cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với đặc điểm phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương như các văn bản được tiếp tục đổi mới chất lượng về nội dung và thể thức, tính hiệu quả và tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật được nâng lên, công tác rà soát các văn bản được đẩy mạnh ở các cấp và đã dần đi vào nề nếp; Cải cách thủ tục hành chính, nhất là thực hiện quy trình, thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông được đẩy mạnh và nhân rộng ở các xã, huyện trong toàn tỉnh; tiến độ và chất lượng thống kê rà soát bộ thủ tục hành chính theo Đề án 30 của Chính phủ được bảo đảm. Tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính các cấp từ tỉnh đến cơ sở được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn, đa ngành, đa lĩnh vực; hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước của hệ thống hành chính được nâng lên đáng kể; phân cấp quản lý đã triển khai trên một số lĩnh vực kinh tế, xã hội góp phần tăng thẩm quyền cho cấp dưới giải quyết công việc nhanh hơn, sâu sát thực tế và hiệu quả. Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có chuyển biến tiến bộ; đội ngũ cán bộ, công chức từng bước đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới; công tác quy hoạch rà soát và bổ sung quy hoạch được triển khai đồng bộ ở các cấp, các ngành; về phân cấp quản lý cán bộ công chức có chuyển biến, tiến bộ; các chính sách về công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức được đầu tư. Thực hiện đầy đủ, đúng quy định về chính sách quản lý tài chính công theo cơ chế khoán biên chế và kinh phí quản lý cho các đơn vị hành chính và đơn vị sự nghiệp, góp phần thay đổi phương thức quản lý thực hành tiết kiệm, chống lãng phí nhất là đối với các đơn vị sự nghiệp công lập; Về hiện đại hóa nền hành chính nhà nước bước đầu được quan tâm đầu tư xây dựng trụ sở, trang bị phương tiện làm việc ứng dụng công nghệ thông tin và hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 và ISO 9001:2008 tại các cơ quan, đơn vị hành chính; lề lối và phương thức làm việc của các cơ quan đơn vị tiếp tục được chấn chỉnh, cải tiến theo hướng tập trung thống nhất có hiệu quả, hướng vào các mục tiêu quản lý vì lợi ích của người dân và doanh nghiệp. 3.2. Những tồn tại, hạn chế Công tác cải cách hành chính của tỉnh so với yêu cầu của công cuộc đổi mới, của sự phát triển kinh tế-xã hội còn chậm, hiệu quả chưa cao, nhận thức về cải cách hành chính ở một số cơ quan, đơn vị, ngành và cấp cơ sở chưa nhất quán; việc triển khai thực hiện chưa quyết liệt, đồng bộ ở các ngành, các cấp. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước một số bộ phận, từng cán bộ, công chức ở một số cơ quan chưa xác định rõ ràng, lành mạch, chưa đảm bảo nguyên tắc tất cả công việc đều phải có người phụ trách, không chồng lấn, không bỏ sót và thống nhất, thông suốt từ Trung ương đến cơ sở. Thủ tục hành chính trên một số lĩnh vực, bộ phận còn rườm rà, không sát với thực tiễn. Thực hiện cơ chế “một cửa”, cơ chế “một cửa liên thông” ở một số sở, ngành, huyện, thành phố, xã, phường, thị trấn còn hình thức, lúng túng; bố trí một số cán bộ, công chức ở bộ phận “một cửa” không tương xứng và chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Sự phối hợp giữa công chức, giữa các bộ phận, giữa các cơ quan giữa các cấp trong thực hiện thủ tục hành chính chưa nhịp nhàng, đồng bộ. Một bộ phận cán bộ, công chức còn thiếu tinh thần trách nhiệm; năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính yếu; chậm đổi mới phong cách, tác phong làm việc; tình trạng quan liêu, nhũng nhiễu, sách nhiễu nhân dân vẫn còn diễn ra. Kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính chưa nghiêm. Hiện đại hóa công sở, ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả chưa cao. 3.3. Nguyên nhân: - Chủ quan: Lãnh đạo một số sở, ngành và địa phương nhận thức chưa đầy đủ, chưa quan tâm đúng mức về công tác cải cách hành chính; công tác chỉ đạo chưa kiên quyết, thiếu chủ động trong việc đề ra chương trình, kế hoạch cải cách sát, đúng, tích cực. Triển khai các nhiệm vụ về cải cách hành chính của các ngành, các cấp chưa đồng bộ, sự phối hợp giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chưa chặt chẽ nên chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Đầu tư nhân lực, nguồn lực cho cải cách hành chính chưa thỏa đáng, thiếu chuyên viên chuyên trách, cán bộ am hiểu chuyên sâu về hành chính nhà nước. - Khách quan: Hệ thống thể chế (do Chính phủ và các Bộ ban hành) chưa đồng bộ, thiếu nhất quán trên một số lĩnh vực, nhất là thể chế về thủ tục hành chính, quản lý trên một số lĩnh vực đất đai, đầu tư, doanh nghiệp, xây dựng cơ bản, …đặc biệt là chế độ tiền lương vẫn chưa được cải cách đã tác động không nhỏ đến việc xây dựng, nâng cao chất lượng, năng lực đội ngũ cán bộ công chức. Nguồn kinh phí ngân sách chưa đáp ứng mong muốn xây dựng nền hành chính chính quy, hiện đại.
- Cải cách hành chính là lĩnh vực khó, do đó phải có sự chỉ đạo, triển khai thực hiện đồng bộ của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, phải có quyết tâm cao mới đạt được kết quả mong muốn, đặc biệt là nhận thức và sự chỉ đạo của người đứng đầu, vì thực sự đây là một cuộc đấu tranh quyết liệt trong đổi mới tư duy từ sự bảo thủ, trì trệ của nền hành chính quan liêu bao cấp sang nền hành chính, phục vụ, dân chủ, trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại. - Gắn công tác cải cách hành chính với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở với thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị và công tác đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng trong cán bộ, công chức, nhất là người đứng đầu của các cơ quan đơn vị. - Bằng nhiều hình thức sinh động, tuyên truyền thường xuyên, liên tục, rộng khắp để tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động. Cần coi trọng công tác thí điểm, làm thử, thông qua đó để đánh giá, rút kinh nghiệm và nhân rộng. - Cần có một tổ chức thường trực, chuyên trách để giúp việc cho chính quyền các cấp trong việc hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nội dung, chương trình cải cách hành chính của địa phương, đơn vị. - Cải cách hành chính cần có đủ nhân lực, điều kiện về cơ sở vật chất và kinh phí. Каталог: chinhquyen -> sonv -> Lists -> VanBanPhapQuy -> Attachments sonv -> Ủy ban nhân dân tỉnh ninh thuậN sonv -> Ủy ban nhân dân tỉnh ninh thuận cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam sonv -> SỞ NỘi vụ Số: 1219/bc-snv cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam sonv -> Ủy ban nhân dân cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam tỉnh ninh thuậN Độc lập Tự do Hạnh phúc sonv -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam tỉnh ninh thuậN Độc lập Tự do Hạnh phúc sonv -> Ubnd tỉnh ninh thuận sở NỘi vụ CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam sonv -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam tỉnh ninh thuậN Độc lập Tự do Hạnh phúc sonv -> V/v hướng dẫn xây dựng kế hoạch cchc và báo cáo cchc hàng năm Attachments -> SỞ NỘi vụ CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc tải về 5.53 Mb. Chia sẻ với bạn bè của bạn: |