Đánh giá chung về chính sách thu hút nguồn nhân lực của thành phố Đà Nẵng hiện nay
Với việc thu hút được 812 đối tượng sau 13 năm triển khai thực hiện và qua phân tích kết quả khảo sát, có thể nhận định chính sách thu hút nguồn nhân lực của Thành phố là một chính sách đúng đắn và phát huy tác dụng tích cực trên thực tế. Kết quả thực hiện chính sách này đã góp phần trẻ hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Thành phố và hỗ trợ tích cực cho các cơ quan, đơn vị tiếp nhận, sử dụng. Hầu hết đối tượng thu hút phát huy tốt trình độ, năng lực bản thân, hoàn thành tốt công việc được giao và được lãnh đạo đơn vị đánh giá cao thể hiện ở kết quả khảo sát và việc phần lớn công chức, viên chức tiêu biểu được bình bầu hằng năm là thuộc đối tượng thu hút. Có thể nói đây là nguồn nhân lực khá tốt, vừa được đào tạo bài bản vừa trẻ tuổi, nhiệt tình, xông xáo, đáp ứng yêu cầu dự nguồn cán bộ cho Thành phố trong thời gian đến. Về phía đối tượng thu hút, có thể nói đây là một chính sách tạo cơ hội việc làm công bằng, khách quan, bình đẳng cho lực lượng lao động trẻ; phần lớn đối tượng thu hút được bố trí làm việc đúng chuyên môn, có cơ hội học tập, đào tạo nâng cao trình độ bản thân và đặc biệt ngày càng trưởng thành hơn và có cơ hội thăng tiến.
Tuy nhiên, qua kết quả khảo sát và ghi nhận các ý kiến đóng góp của các cơ quan, đơn vị, đối tượng có liên quan, chúng tôi nhận thấy việc thực hiện chính sách này vẫn còn một số vấn đề cần quan tâm như:
Thứ nhất, công tác quảng bá chính sách thu hút chưa được thực hiện mạnh mẽ. Như kết quả khảo sát cho thấy, thông tin về chính sách thu hút nguồn nhân lực của Thành phố chưa được quảng bá thường xuyên và “đến tận tay” đối tượng cần thu hút. Việc thông báo tuyển dụng còn chung chung, chưa cụ thể cơ quan nào đang cần tuyển dụng và công việc cụ thể là gì; phương pháp quảng bá chủ yếu là thông qua website của Sở Nội vụ hoặc thông tin báo chí về kết quả thực hiện chính sách sau một thời gian thực hiện (5 hoặc 10 năm).
Thứ hai, thu nhập của đối tượng thu hút còn thấp, chưa đáp ứng được các nhu cầu vật chất chính đáng của bản thân và gia đình; khả năng đáp ứng nhu cầu hỗ trợ nhà ở của Thành phố còn hạn chế; một số trường hợp bố trí công việc chưa khai thác hết năng lực của đối tượng thu hút.
Thứ ba, có hiện tượng một số ngành nghề thu hút được đối tượng nhưng không thể bố trí công việc phù hợp hoặc một số vị trí có nhu cầu nhân lực có trình độ cao nhưng chưa thuộc diện thu hút. Còn một số cơ quan, đơn vị không nhiệt tình đón nhận đối tượng thu hút.
Thứ tư, vẫn có một số đối tượng thu hút chưa đáp ứng yêu cầu công việc. Và Thành phố cũng chưa có biện pháp nào giải quyết hiện trạng này. Tâm lý làm việc cho khu vực công sẽ ổn định suốt đời vẫn còn phổ biến. Từ đó tạo ra sự trì trệ, thiếu cố gắng phấn đấu trong một số đối tượng thu hút.
Thứ năm, khả năng thu hút các chuyên gia đầu ngành còn hạn chế. Hơn mười năm qua, Thành phố chỉ mới thu hút được khoảng 08 phó giáo sư/tiến sĩ, nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ - kỹ thuật đang thiếu chuyên gia đầu ngành nhưng Thành phố vẫn chưa thu hút được.
NHU CẦU NHÂN LỰC TRÌNH ĐỘ CAO CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN TỚI Nhu cầu nhân lực trình độ cao của thành phố Đà Nẵng trong năm 2010
Bảng 13: Nhu cầu tiến sĩ năm 2010
Những ngành cần tiến sĩ
|
Số lượng
|
Bác sĩ
|
20
|
Chẩn đoán hình ảnh
|
1
|
Công nghệ sinh học
|
2
|
Công nghệ thông tin
|
1
|
Kinh tế
|
3
|
Thống kê Kinh tế
|
1
|
Hành chính
|
1
|
Chính sách công
|
1
|
Quản lý đô thị
|
1
|
Quản lý môi trường
|
1
|
Báo chí
|
1
|
Tổng
|
33
| Theo số liệu tổng hợp từ Sở Nội vụ, trong năm 2010, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cần 33 tiến sĩ trong các ngành như: Bác sĩ, Chẩn đoán hình ảnh, Công nghệ sinh học, Công nghệ thông tin, Kinh tế, Thống kê Kinh tế, Hành chính, Chính sách công, Quản lý đô thị, Quản lý môi trường, Báo chí. Các cơ quan, đơn vị có nhu cầu tuyển dụng đối tượng này là Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, Sở Khoa học - Công nghệ, Sở Xây dựng, Sở Thông tin - Truyền thông và Sở Y tế (các bệnh viện).
Ngoài ra, Thành phố còn có nhu cầu sử dụng 127 đối tượng có trình độ thạc sĩ trong các nhóm ngành Y tế, Kỹ thuật, Kinh tế - Du lịch, Văn hóa – Nhân văn, Luật – Hành chính – Tư pháp, Quản lý và một số ngành khác. Đối với đối tượng tốt nghiệp đại học, Thành phố cần 425 người (chưa tính nhu cầu của phường, xã), trong đó, nhóm ngành có nhu cầu cao nhất là Y tế (khoảng hơn 120 người), Công nghệ thông tin (hơn 70 người), Luật – Hành chính (hơn 40 người), Xây dựng - Kiến trúc (khoảng 16 người),...
Bảng 14: Nhu cầu thạc sĩ năm 2010
Những ngành cần thạc sĩ
|
Số lượng
|
Những ngành cần thạc sĩ
|
Số lượng
|
Y tế
|
74
|
Văn hóa - Nhân văn
|
2
|
Bác sĩ
|
69
|
Báo chí
|
1
|
Điều dưỡng
|
1
|
Văn hóa dân gian
|
1
|
Chẩn đoán hình ảnh
|
4
|
|
|
|
|
|
|
Kỹ thuật
|
20
|
Luật - Hành chính - Tư pháp
|
5
|
Kỹ thuật Hạ tầng Đô thị
|
1
|
Luật Tư pháp
|
1
|
Xây dựng DD & CN
|
3
|
Hành chính
|
1
|
Xây dựng cầu đường
|
1
|
Luật hành chính
|
1
|
Kiến trúc
|
2
|
Chính sách công
|
1
|
Công nghệ thông tin
|
4
|
Chính trị
|
1
|
Lâm sinh
|
1
|
|
|
Cơ khí
|
6
|
Quản lý
|
5
|
Điện- Điện tử
|
2
|
Quản lý hành chính
|
1
|
|
|
Quản lý đô thị
|
1
|
Kinh tế - Du lịch
|
17
|
Quy hoạch Đô thị
|
2
|
Du lịch
|
3
|
Quản lý môi trường
|
1
|
Tài chính
|
4
|
|
|
Kế toán
|
3
|
Sư phạm - Khác
|
4
|
Kinh tế ngoại thương
|
1
|
Tiếng Anh
|
2
|
Kinh tế phát triển
|
1
|
Thể dục -Thể thao
|
1
|
Kinh tế công
|
1
|
Sư phạm Toán
|
1
|
Kinh tế
|
3
|
|
|
Thống kê Kinh tế
|
1
|
Tổng cộng
|
127
|
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |