Tawhid Muyassir " Giáo Lý Độc Thần"



tải về 1.63 Mb.
trang2/5
Chuyển đổi dữ liệu25.03.2018
Kích1.63 Mb.
#36618
1   2   3   4   5

Lời Mở Đầu

اَلْحَمْدُ لِلهِ رَبِّ العَالَمِيْنَ والصَّلاَةُ وَالسَّلاَمُ عَلىَ خَاتَمِ الأَنْبِيَاءِ وَالمُرْسَلِيْنَ نَبِيِّنَا مُحَمْدٍ وَعَلىَ آلِهِ وَأَصْحَابِهِ أَجْمَعِيْنَ، وَبَعْدُ:

Mọi lời ca ngợi và tán dương kính dâng Allah, Đấng Chủ Tể của toàn vũ trụ. Cầu xin bằng an và phúc lành cho vị Nabi, vị Thiên Sứ cuối cùng, Nabi của chúng ta Muhammad và cho dòng dõi của Người và tất cả những vị Sahabah của Người...

Đây là một sự tóm tắt hữu ích, tổng hợp mọi vấn đề bổ ích và cần thiết trong chủ đề “Tawhid” (Giáo lý độc thần), cái mà không có nó thì Allah sẽ không chấp nhận mọi hành động thờ phượng của người bề tôi và cũng sẽ không hài lòng đối với y trừ phi nó phải được khẳng định một cách kiên định trong lòng y.

Và quả thật, bài viết tóm tắt ngắn gọn này gồm các nguyên tắc cơ bản cùng với sự phân loại giúp người đọc phân biệt, tập trung và dễ dàng tiếp thu vào trí nhớ của mình.

Và bất kỳ một điều gì khi muốn tiếp thu được nó thì phải nắm rõ hai điều thiết yếu của nó:

1- Bản chất của nó.

2- Làm rõ điều ngược lại với bản chất của nó.

Tôi tập trung vào việc giải thích và làm rõ bản chất của “Tawhid”; tôi phân tích, lý giải các giáo lý nền tảng của nó và các dạng thức của nó. Sau đó, tôi đề cập và xác định những gì đi ngược lại với Tawhid và đó là “Shirk” (Sự gán ghép cùng với Allah một đối tác ngang hàng). Tôi đã định nghĩa, giải thích và làm rõ toàn diện bức tranh của Tawhid, các dạng của nó cũng như các giáo luật về nó.

Đối lập để lộ ra vẻ đẹp của điều ngược lại;

Và với nó các sự việc sẽ được bộc lộ rõ ràng.

Và chắc chắn vẻ đẹp của Tawhid và ân phúc của nó sẽ không được bộc lộ rõ nét nếu như chưa nhận biết được cái xấu xa của Shirk và sự nguy hiểm của nó.

Ngoài ra, bài viết tóm tắt ngắn gọn này còn chứa đựng các luận điểm quan trọng khác liên quan đến Tawhid, không có chúng thì sự nhận thức Tawhid cũng chưa thể trọn vẹn.

Và quả thật, tôi đã cố gắng trình bày, sắp xếp, bố trí cũng như phân loại các vấn đề của Tawhid theo một cách rất đơn giản và dễ hiểu, đồng thời, trích dẫn các bằng chứng để làm cơ sở cho người đọc có thể dễ dàng tiếp thu và hiểu được trọn vẹn.

Tôi đã cố tránh những gì rườm rà mà chỉ diễn đạt và nói một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ ý nghĩa. Và tôi đã đặt tên cho bức thông điệp này với tựa đề đúng theo những gì tôi trình bày “Al-Tawhid Al-Muyassir” “Giáo lý Tawhid – Đơn giản và dễ hiểu”.

Và những gì tôi nói đúng thì nó quả thật đến từ Allah, một mình Ngài, còn những gì sai sót và nhầm lẫn là do sự yếu kém và sơ suất của bản thân tôi và Shaytan.

Và quả thật, tôi đã tập hợp và tóm tắt bức thông điệp ngắn gọn này từ những sách và tài liệu của các Ulama (học giả) có tư tưởng và quan điểm đồng nhất, và tôi đã gọi nó là “Al-Tawhid Al-Muyassir”. Cầu xin Allah, Đấng Phù hộ và Toàn năng ban điều hữu ích cho nó và xin Ngài hãy đặt nó lên đĩa cân của những việc tốt đẹp và công đức vào Ngày gặp lại Ngài.

وَصَلَّى اللهُ وَسَلَّمَ عَلىَ نَبِيِّنَا مُحَمْدٍ وَعَلىَ آلِهِ وَصَحْبِهِ وَسَلَّمَ

Cầu xin Allah ban sự bằng an và phúc lành cho Nabi của chúng ta, Muhammad, và cho dòng dõi của Người, và các vị Sahabah của Người.

Abdullah Bin Ahmad Alhaweel

Al-Riyadh

P.O.Box 345169, post code 11381

Email: Alhaweel@hotmail.com

Mobile: 00966 558850025



Khái Niệm Tawhid

$ Theo nghĩa của từ:

Tawhid توحيد” là danh từ được biến thể từ động từ “وَحَّدَ” “Wahhada” có nghĩa là làm cho cái gì đó, sự việc gì đó thành một thứ duy nhất, một điều duy nhất.

$ Thí dụ:

Khi chúng ta nói: Không một ai được phép rời khỏi nhà ngoại trừ Muhammad. Có nghĩa là chúng ta chỉ cho phép duy nhất một mình Muhammad rời khỏi nhà. Tương tự, khi chúng ta nói: “Không ai được đứng dậy khỏi chỗ ngồi ngoại trừ Khalid mà thôi” thì tức là chúng ta chỉ muốn một mình Khalid đứng dậy khỏi chỗ ngồi.



$ Theo thuật ngữ của giáo luật:

Tawhid có nghĩa là sự độc tôn Allah, Đấng Tối Cao, Chứng nhận Ngài là Đấng Duy Nhất trong:

1- Ar-Rububiyah (Trong việc tạo hóa, điều hành vũ trụ và mọi vạn vật, cung dưỡng cho moi sự sống...)

2- Al-Ulu-hiyah (Đáng được mọi tạo vật phải thờ phượng và kính sợ)

3- Al-Asma’ Was Sifa-t (Có những đại danh và thuộc tính hoàn mỹ và tuyệt đối).



Các Dạng Tawhid

Tawhid được chia thành ba dạng:

1- Tawhid Ar-Rububiyah

2- Tawhid Al-Uluhiyah

3- Tawhid Al-Asma’ Was Sifa-t



Khái niệm và làm rõ từng dạng Tawhid

1- Tawhid Ar-Rububiyah

Khái nim:

- Tawhid Ar-Rububiyah là chứng nhận Allah là Đấng Duy Nhất trong việc Tạo hóa, Chế ngự, và Điều hành vũ trụ và mọi vạn vật.

- Hoặc có thể nói: Tawhid Ar-Rububiyah là chứng nhận Allah là Đấng Duy Nhất vận hành vũ trụ và mọi vạn vật. Tiêu biểu về sự vận hành của Ngài: Tạo hóa, cung dưỡng, làm cho sống, làm cho chết, ban mưa xuống, làm mọc ra cây cối, ...

Dẫn chứng:

ﮋأَلَا لَهُ الْخَلْقُ وَالأمْرُ ﮊ (الأعراف : 54)

Chẳng phải mọi sự Tạo Hóa và Chỉ Huy đều ở nơi Ngài đó sao ! (Chương 7 – Al-Araf, câu 54)

ﮋوَلِلَّهِ مُلْكُ السَّمَاوَاتِ وَالأرْضِ وَاللَّهُ عَلَى كُلِّ شَيْءٍ قَدِيرٌ ﮊ (آل عمران: 189)

Và Allah nắm quyền thống trị các tầng trời và trái đất. Và Allah có quyền chi phối trên tất cả mọi thứ (Chương 3 - Ali-Imran, câu 189)

ﮋقُلْ مَنْ يَرْزُقُكُمْ مِنَ السَّمَاءِ وَالْأَرْضِ أَمْ مَنْ يَمْلِكُ السَّمْعَ وَالْأَبْصَارَ وَمَنْ يُخْرِجُ الْحَيَّ مِنَ الْمَيِّتِ وَيُخْرِجُ الْمَيِّتَ مِنَ الْحَيِّ وَمَنْ يُدَبِّرُ الْأَمْرَ فَسَيَقُولُونَ اللَّهُ فَقُلْ أَفَلَا تَتَّقُونَ ﮊ (يونس : 31)

Hãy hỏi họ: “Ai cấp dưỡng cho các người từ trên trời và dưới dất? Ai nắm quyền kiểm soát thính giác và thị giác của các người? Và ai đưa cái sống ra từ cái chết và đưa cái chết ra khỏi cái sống? Và quản lý điều hành mọi hoạt động của vũ trụ và vạn vật? Họ sẽ trả lời: “Allah”. Vậy hãy bảo họ: Thế các người không sợ Ngài hay sao ? (Chương 10 – Yunus, câu 31).

2- Tawhid Al-Uluhiyah (hay còn gi là Tawhid Al-Iba-dah)

Khái nim:

Tawhid Al-Uluhiyah là chứng nhận Allah là Đấng Duy Nhất đáng được thờ phượng.

Một số hình thức thờ phượng tiêu biểu như dâng lễ nguyện Salah, nhịn chay, đi hành hương Hajj, sự phó thác, sự nguyện thề, sự kính sợ, niềm hy vọng, tình yêu thương, ...

Dẫn chứng:

ﮋوَمَا خَلَقْتُ الْجِنَّ وَالإنْسَ إِلا لِيَعْبُدُونِ ﮊ (الذاريات : 56)

Và TA đã tạo ra loài Jinn và loài người chỉ để chúng thờ phượng TA (Chương 51 – Al-Zhariyat, câu 56)

ﮋوَاعْبُدُوا اللَّهَ وَلا تُشْرِكُوا بِهِ شَيْئًا ﮊ (النساء: 36)

Và hãy thờ phượng Allah và chớ đừng tổ hợp với Ngài một thứ gì (Chương 4 – Annisa’, câu 36).

ﮋوَمَا أَرْسَلْنَا مِنْ قَبْلِكَ مِنْ رَسُولٍ إِلا نُوحِي إِلَيْهِ أَنَّهُ لا إِلَهَ إِلا أَنَا فَاعْبُدُونِ ﮊ (الأنبياء:25)

Và không một Sứ giả nào được TA cử phái đến trước Ngươi (Muhammad) mà không được TA mặc khải ra lệnh cho y nói: “Không có Thượng Đế nào khác mà chỉ có TA duy nhất, bởi thế hãy thờ phượng một mình TA.” (Chương 21 – Al-Anbiya’, câu 25).

3- Tawhid Al-Asma’ Was Sifa-t:

Khái nim:

Tawhid Al-Asma’ Was Sifa-t là chứng nhận tất cả những tên gọi và thuộc tính mà Allah hay Thiên Sứ của Ngài Muhammad  đã miêu tả về Ngài đích thực là những đại danh thiêng liêng và toàn mỹ, những thuộc tính của Ngài là tuyệt đối hoàn hảo, siêu đẳng, tối cao và quyền lực; không được so sánh, suy diễn và tưởng tượng (như thế nào, ra làm sao).



Dẫn chứng:

ﮋلَيْسَ كَمِثْلِهِ شَيْءٌ وَهُوَ السَّمِيعُ الْبَصِيرُﮊ ) الشورى:11(

Không có thứ gì giống Ngài và Ngài là Đấng Hằng Nghe và Hằng Thấy (Chương 42 - Ash-Shura, câu 11).

ﮋوَلِلَّهِ الأسْمَاءُ الْحُسْنَى فَادْعُوهُ بِهَا وَذَرُوا الَّذِينَ يُلْحِدُونَ فِي أَسْمَائِهِ سَيُجْزَوْنَ مَا كَانُوا يَعْمَلُونَﮊ (الأعراف: 180)

Allah có các tên gọi tốt đẹp nhất. Do đó, hãy cầu xin Ngài với các tên gọi đó. Và hãy lánh xa những kẻ bóp méo tên gọi của Ngài. Rồi họ sẽ lãnh đủ sự trừng phạt về tội của họ (Chương 7 – Al-A’raf, câu 180).

Những Điều Hữu Ích Quan Trọng

Thứ nhất: Ba dạng thức của Tawhid luôn phải hiện diện cùng với nhau. Mỗi một dạng thức riêng lẻ không mang lại giá trị cho một tín đồ. Người nào chỉ thừa nhận một hay hai trong ba dạng thức của Tawhid mà bỏ đi dạng thức còn lại thì Tawhid của người đó không có giá trị.

Thứ hai: Quả thật, những kẻ ngoại đạo mà Thiên sứ của Allah e đã chiến đấu với họ, cũng thừa nhận dạng Tawhid Ar-Rububiyah. Họ thừa nhận rằng Allah là Đấng Tạo hóa, Đấng Cung dưỡng, Đấng làm cho sống và làm cho chết, Đấng ban điều lành và gây điều dữ, Đấng Chế ngự và Điều hành mọi sự việc. Tuy nhiên, điều đó không làm họ trở thành những tín đồ của Islam. Bằng chứng cho sự việc đó là lời phán của Allah:

ﮋقُلْ مَنْ يَرْزُقُكُمْ مِنَ السَّمَاءِ وَالْأَرْضِ أَمْ مَنْ يَمْلِكُ السَّمْعَ وَالْأَبْصَارَ وَمَنْ يُخْرِجُ الْحَيَّ مِنَ الْمَيِّتِ وَيُخْرِجُ الْمَيِّتَ مِنَ الْحَيِّ وَمَنْ يُدَبِّرُ الْأَمْرَ فَسَيَقُولُونَ اللَّهُ فَقُلْ أَفَلَا تَتَّقُونَ ﮊ (يونس : 31)

Hãy hỏi họ: Ai cấp dưỡng cho các người từ trên trời và dưới dất? Ai nắm quyền kiểm soát thính giác và thị giác của các người? Và ai đưa cái sống ra từ cái chết và đưa cái chết ra khỏi cái sống? Và quản lý điều hành mọi hoạt động của vũ trụ và vạn vật? Họ sẽ trả lời: Allah. Vậy hãy bảo họ: Thế các người không sợ Ngài hay sao ? (Chương 10 – Yunus, câu 31).

Thứ ba: Dạng Tawhid Al-Uluhiyah là mục đích truyền giáo của các vị Thiên Sứ. Bởi quả thật, nó là nền tảng thiết yếu cho tất cả mọi việc làm và mọi hành vi. Không có nó, tức nếu như nó không được khẳng định và xác nhận thì tất cả mọi hành vi cũng như mọi việc làm đều trở nên vô ích. Và nếu như nó thực sự không được xác nhận thì điều ngược lại với nó chắc chắn xảy ra và đó là Shirk (sự thờ đa thần tức gán ghép với Allah một đối tác ngang hàng để thờ phượng), và sự tranh luận giữa các vị Thiên Sứ với các cộng động của họ sẽ làm thay đổi giáo lý Tawhid này. Do đó, bắt buộc phải luôn gìn giữ nó, đồng thời học hỏi những vấn đề của nó và phải hiểu nền tảng của nó.

$ $ $


Tầm Quan Trọng Của Tawhid & Ân Phúc của nó

1- Tawhid là trụ cột vĩ đại nhất trong các trụ cột của Islam. Nó là xương chống đỡ cho toàn cơ thể của Islam. Một người không thể gia nhập Islam nếu như không chứng nhận lời tuyên thệ của Tawhid, tức phải xác nhận rằng Đấng đáng được thờ phượng chỉ có Allah duy nhất và phủ nhận tất cả những thần linh khác ngoài Ngài.

Nabi Muhammad e nói: “Islam được dựng trên năm trụ cột:

- Lời chứng nhận không có Đấng thần linh nào khác ngoài Allah và Muhammad là vị Sứ giả của Allah,

- Dâng lễ nguyện Salah,

- Đóng Zakah,

- Nhịn chay Ramadan,

- Hành hương ngôi đền Ka’bah”. (Hadith được thống về tính xác thực của nó)

2- Tawhid là điều quan trọng nhất trong các điều quan trọng và là một điều bắt buộc đầu tiên. Nó phải đi đầu trước mỗi một hành động, mỗi một việc làm, cũng như nó luôn là cái quan trọng đứng đầu trong các điều quan trọng, bởi sự thiêng liêng và vĩ đại của nó.

Tawhid là điều đầu tiên được Nabi e ra lệnh cho Mu-a-zh  phải kêu gọi mọi người đến với nó khi Người cử phải ông đến xứ Yemen, Người e nói:

« إِنَّكَ تَأْتِى قَوْمًا مِنْ أَهْلِ الْكِتَابِ. فَادْعُهُمْ إِلَى شَهَادَةِ أَنْ لاَ إِلَهَ إِلاَّ اللهُ » وفي رواية «إِلىَ أَنْ يُوَحِّدُوا اللهَ» (متفق عليه)

Ngươi hãy đến cộng đồng của người dân kinh sách. Hãy kêu gọi họ đến với sự chứng nhận rằng không có thần linh nào khác ngoài Allah” và có lời ghi khác “đến với việc độc thần hóa Allah.” (Hadith được thống nhất về tính xác thực của nó).



3- Các hình thức thờ phượng sẽ không được thừa nhận nếu không có Tawhid. Bởi Tawhid là điều kiện mang lại giá trị cho thờ phượng, là cở sở để thờ phượng được chấp nhận, và thờ phượng sẽ không được gọi là thờ phượng nếu nó không đi cùng với Tawhid, giống như lễ nguyện Salah sẽ không được gọi là lễ nguyện Salah nếu như nó không đi cùng với Taha-rah (việc tẩy rửa làm sạch thân thể khi muốn dâng lễ nguyện Salah). Do đó, khi nào Shirk bước vào thì thờ phượng sẽ bị hư không còn giá trị nữa, giống như khi nào Hadath (đại tiện, tiểu tiện) bước vào Taha-rah. Và việc thờ phượng mà không có Tawhid sẽ trở thành Shirk (thờ đa thần), nó hủy hoại và làm rơi mất hết giá trị của mọi việc làm, và nó khiến chủ nhân của nó sẽ phải bị đày trong Hỏa Ngục đời đời, kiếp kiếp.

4- Tawhid mang lại sự an bình, thanh tịnh và được hướng dẫn đúng với chân lý trên trần gian và cõi đời sau. Bằng chứng cho điều này là lời phán dạy của Allah, Đấng Tối Cao:

ﮋٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ وَلَمۡ يَلۡبِسُوٓاْ إِيمَٰنَهُم بِظُلۡمٍ أُوْلَٰٓئِكَ لَهُمُ ٱلۡأَمۡنُ وَهُم مُّهۡتَدُونَ ﮊ (الأنعام : 82)

{Những ai có đức tin mà không trộn lẫn đức tin thuần túy của họ với điều sai trái, họ là những người sẽ được an toàn nhất bởi vì họ được hướng dẫn đúng theo Chính đạo.} (Chương 6. Al-An’am, câu 82).

Và điều sai trái ở đây có nghĩa là Shirk (Việc tôn thờ đa thần) như đã được Nabi e giải thích.(1)

Học giả Ibnu Kathir  nói: “Có nghĩa là những ai thành tâm thờ phượng chỉ duy nhất một mình Allah không tổ hợp cùng với Ngài một đối tác ngang hàng và cũng không gán ghép với Ngài một điều gì thì những người đó sẽ là những người được an toàn vào Ngày Phán Xét, họ sẽ được hướng dẫn đúng theo đúng Chính đạo ở trần gian này và cõi đời sau. Bởi vậy, vào Ngày sau, người nào trở về với đức tin của Tawhid trọn vẹn thì người đó sẽ thanh thản, bình an và được hướng dẫn một cách trọn vẹn, y sẽ được vào Thiên Đàng và không bị trừng phạt”.

Và Shirk là một điều bất công nhất trong các điều bất công, còn Tawhid là một điều công bằng nhất trong các điều công bằng.



5- Tawhid là nguyên nhân được vào Thiên Đàng và thoát khỏi hình phạt của Hỏa Ngục.

Nabi Muhammad  nói:

« مَنْ شَهِدَ أَنْ لاَ إِلَهَ إِلاَّ اللَّهُ وَحْدَهُ لاَ شَرِيكَ لَهُ وَأَنَّ مُحَمَّدًا عَبْدُهُ وَرَسُولُهُ، وَأَنَّ عِيسَى عَبْدُ اللَّهِ وَرَسُولُهُ، وَكَلِمَتُهُ أَلْقَاهَا إِلَى مَرْيَمَ وَرُوحٌ مِنْهُ، وَالْجَنَّةُ حَقٌّ وَالنَّارُ حَقٌّ، أَدْخَلَهُ اللَّهُ الْجَنَّةَ عَلَى مَا كَانَ مِنَ الْعَمَلِ » (متفق عليه)

Ai chứng nhận không có Thượng Đế nào khác ngoài Allah duy nhất, Đấng không có đối tác cùng Ngài, và Muhammad là bề tôi và Sứ giả của Ngài, Ysa là bề tôi và Sứ giả của Ngài, Ngài cho Ngôn từ của Ngài truyền đến Mar-yam và linh hồn là từ nơi Ngài, Thiên Đàng là sự thật, Hỏa Ngục là sự thật, thì người đó sẽ được Allah thu nhận vào Thiên Đàng theo những việc làm mà y đã làm.” (Hadith được thống nhất về tính xác thực của nó).

« فَإِنَّ اللَّهَ حَرَّمَ عَلَى النَّارِ مَنْ قَالَ لاَ إِلَهَ إِلاَّ اللَّهُ. يَبْتَغِى بِذَلِكَ وَجْهَ اللَّهِ » (متفق عليه)

Quả thật, Allah đã nghiêm cấm Hỏa Ngục đụng đến ai nói "لاَ إِلَهَ إِلاَّ اللهُ" “không có Thượng Đế nào khác ngoài Allah với lòng thành tâm vì Allah.” (Hadith được thống nhất về tính xác thực của nó).



6- Tawhid sẽ giúp chiến thắng những điều họa trên trần gian và ở đời sau.

Học giả Ibnu Al-Qayyim  nói: “Tawhid sẽ cứu rỗi kẻ thù của nó và những người bạn của nó”.

- Đối với kẻ thù của nó: Nó đã cứu họ thoát khỏi những tai họa và rủi ro trên trần gian này, Allah, Đấng Tối cao phán:

ﮋفَإِذَا رَكِبُواْ فِي ٱلۡفُلۡكِ دَعَوُاْ ٱللَّهَ مُخۡلِصِينَ لَهُ ٱلدِّينَ فَلَمَّا نَجَّىٰهُمۡ إِلَى ٱلۡبَرِّ إِذَا هُمۡ يُشۡرِكُونَ ﮊ (العنكبوت :65)

{Bởi thế, khi chúng lên tàu (ra khơi), chúng cầu nguyện Allah, dâng trọn cả đức tin nơi Ngài. Nhưng khi Ngài cứu chúng lên bờ an toàn thì chúng lại thờ những thần linh khác cùng với Ngài} (Chương 29. Al-Ankabut, câu 65).

- Đối với những người bạn của nó: Nó sẽ cứu rỗi họ thoát khỏi tai họa ở trần gian và cả đời sau và đây là con đường mà Allah đã dành riêng cho những bề tôi của Ngài, không có một thứ chi có thể ngăn chặn những tai họa của trần gian giống như Tawhid, bởi lẽ đó mà sự cầu nguyện nên bằng Tawhid, và sự cầu nguyện của vị Nabi gặp nạn trong bụng của con cá voi cũng được Allah giải thoát bằng Tawhid.

Và không một đại nạn kiếp nào xảy đến mà không phải do Shirk, và không có gì có thể cứu rỗi thoát khỏi nạn kiếp ngoại trừ Tawhid. Do đó, Tawhid sẽ che chở, phù hộ và ban phúc cho mọi chúng sinh.

7- Tawhid là mục đích cho việc táo hóa ra loài người và loài Jinn.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋوَمَا خَلَقۡتُ ٱلۡجِنَّ وَٱلۡإِنسَ إِلَّا لِيَعۡبُدُونِ ﮊ (الذرايات : 56)

{Và TA đã tạo ra loài Jinn và loài người chỉ để thờ phượng một mình TA} (Chương 51. Azh-Zhariyat, câu 56).

Và không một vị Thiên Sứ nào được cử phái đến, không một kinh sách nào được ban xuống, không một giáo luật nào được sắc lênh, cũng như không một tạo vật nào được tạo ra mà không với mục đích để tôn thờ một mình Allah, Đấng Duy nhất.

$ $ $


لاَ إِلَهَ إِلاَّ اللَّهُ

La ila-ha illallah
((Không Có Thượng Đế Đích Thực Nào Khác Ngoài Allah))

# Dẫn chứng:

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋشَهِدَ ٱللَّهُ أَنَّهُۥ لَآ إِلَٰهَ إِلَّا هُوَ وَٱلۡمَلَٰٓئِكَةُ وَأُوْلُواْ ٱلۡعِلۡمِ قَآئِمَۢا بِٱلۡقِسۡطِۚ لَآ إِلَٰهَ إِلَّا هُوَ ٱلۡعَزِيزُ ٱلۡحَكِيمُ ﮊ (آل عمران : 18)

{Allah tự xác nhận Ngài, các thiên thần và những người hiểu biết đều làm chứng rằng không có Thượng Đế nào khác mà duy nhất chỉ có Allah. Không có Thượng Đế nào khác mà chỉ có Ngài, Đấng Toàn năng, Đấng Chí minh.} (Chương 3. Ali-Imran, câu 18).

ﮋفَٱعۡلَمۡ أَنَّهُۥ لَآ إِلَٰهَ إِلَّا ٱللَّهُ ﮊ (محمد : 19)

{Hãy biết rằng không có Thượng Đế nào khác ngoài Allah cả.} (Chương 47. Muhammad, câu 19).

#Ý nghĩa của câu "لاَ إِلَهَ إِلاَّ ٱللَّهُ "

Không có Đấng thờ phượng đích thực nào mà chỉ duy nhất một mình Allah.

# Các ý nghĩa lệch lạc khác về " لاَ إِلَهَ إِلاَّ ٱللَّهُ ":

1- Không có Đấng thờ phượng nào khác ngoài Allah. Câu nói này không đúng vì nó được hiểu là: Allah là Đấng thờ phượng nhưng bao hàm dụng ý rằng có thể Ngài là Đấng thờ phượng đích thực và cũng có thể là Đấng thờ phượng hư tạo.

2- Không có Đấng Tạo Hóa ngoài Allah. Câu này chỉ mang một phần ý nghĩa nhưng không phải là ý nghĩa thực sự của nó, bởi vì, nếu mà câu này là ý nghĩa của " لاَ إِلَهَ إِلاَّ ٱللَّهُ " thì quả thật đã không xảy ra sự tranh cãi giữa Nabi  và người dân của Người bởi lẽ họ cũng chứng nhận điều này.



3- Không có Đấng quyền lực nào khác ngoài Allah. Câu này cũng chỉ mang một phần ý nghĩa không phải là ý nghĩa thực sự của nó, bởi vì, nếu chỉ độc tôn Allah về quyền lực mà thờ phượng những gì khác ngoài Ngài thì như vậy cũng đã thành Tawhid, còn gì đáng nói.

# Hai thành phần chính của câu " لاَ إِلَهَ إِلاَّ ٱللَّهُ" được coi như hai trụ cột thiết yếu.

1- Sự phủ định: (لاَ إِلَه) (Không có Thượng Đế nào), tức phủ định tất cả mọi thần linh được thờ phượng khác ngoài Allah.

2- Sự khẳng định: (إِلاَّ ٱللَّهُ) (mà chỉ có Allah), tức khẳng định Allah mới là Thượng Đế đích thực đáng được thờ phượng, không có đối tác cùng Ngài.

Bằng chứng cho hai trụ cột thiết yếu trên là lời phán của Allah, Đấng Tối Cao:

ﮋفَمَن يَكۡفُرۡ بِٱلطَّٰغُوتِ وَيُؤۡمِنۢ بِٱللَّهِ فَقَدِ ٱسۡتَمۡسَكَ بِٱلۡعُرۡوَةِ ٱلۡوُثۡقَىٰ ﮊ (بقرة : 256)

{Ai phủ nhận Tà thần và tin tưởng nơi Allah thì chắc chắn sẽ nắm vững chiếc cán (của sợi dây cứu rỗi)} (Chương 2. Al-Baqarah, câu 256). {Ai phủ nhận Tà thần} là sự phủ định, trụ cột thứ nhất, {và tin tưởng nơi Allah} là sự khẳng định, trụ cột thứ hai.

Và Allah cũng phán ở câu kinh khác:

ﮋوَإِذۡ قَالَ إِبۡرَٰهِيمُ لِأَبِيهِ وَقَوۡمِهِۦٓ إِنَّنِي بَرَآءٞ مِّمَّا تَعۡبُدُونَ ٢٦ إِلَّا ٱلَّذِي فَطَرَنِي فَإِنَّهُۥ سَيَهۡدِينِ ﮊ (الزخرف :26 -27 )

{Và khi Ibrahim thưa vơi phụ thân và người dân của y: Quả thật, tôi vô can về những gì mà các vị tôn thờ, ngoại trừ Đấng đã sáng tạo ra tôi, và quả thật, Ngài sẽ hướng dẫn tôi.”} (Chương 43 Az-Zukhruf, câu 26 – 27). {Quả thật, tôi vô can về những gì mà các vị tôn thờ} là sự phủ định, {ngoại trừ Đấng đã sáng tạo ra tôi} là sự khẳng định.

# Khi nào câu nói " لاَ إِلَهَ إِلاَّ ٱللَّهُ " của một người mang lại giá trị hữu ích cho y?

1- Khi y biết và hiểu rõ nội dung ý nghĩa của nó.

2- Và hành động theo những gì nó yêu cầu (đó là từ bỏ việc thờ phượng những gì khác Allah mà chỉ thờ phượng Allah, một mình Ngài duy nhất).

# # #
Các Điều Kiện Cần Cho Câu



((لاَ إِلَهَ إِلاَّ ٱللَّهُ))

((La ila-ha illallah))
# Sau đây là toàn bộ các điều kiện cần của nó:

Câu ((لاَ إِلَهَ إِلاَّ ٱللَّهُ)) sẽ không mang lại ý nghĩa gì cho người nói nếu như các điều kiện cần của nó không được y xác nhận. Và các điều kiện cần này gồm cả thảy tám điều:

1- Sự hiểu biết, phủ định sự ngu dốt.

2- Sự kiên định, phủ định sự ngờ vực.

3- Ikhla-s (Trung thành tôn thờ một Đấng duy nhất), phủ định Shirk (Tôn thờ đa thần).

4- Sự trung thực, phủ định sự dối trá.

5- Tình yêu thương, phủ định sự ghét bỏ.

6- Sự noi theo, phủ định sự ngoảnh mặt làm ngơ.

7- Chấp nhận, phủ định sự phản kháng.

8- Phủ nhận tất cả những gì tôn thờ khác Allah.

# Bài thơ để ghi nhớ về tám điều trên:

Hiểu, kiên, trung thành và chân thật.

Tình yêu, vâng mệnh, và chấp thuận.

Thêm vào cho đủ tám điều chẵn:

Phủ nhận thần linh khác ngoài Ngài.

# Giải thích chi tiết các điều kiện trên:


  1. Hiểu biết, phủ định sự ngu dốt:

Ý nghĩa là phải hiểu biết rõ ràng nội dung ý nghĩa của ((لاَ إِلَهَ إِلاَّ ٱللَّهُ)) rằng nó là sự phủ định và khẳng định. Bằng chứng cho điều kiện này là lời phán của Allah:

ﮋفَٱعۡلَمۡ أَنَّهُۥ لَآ إِلَٰهَ إِلَّا ٱللَّهُ ﮊ (محمد : 19)

{Hãy biết rằng quả thật không có Thượng Đế nào khác ngoài Allah cả.} (Chương 47. Muhammad, câu 19).

2- Kiên định, phủ định sự ngờ vực.

Người nói ((لاَ إِلَهَ إِلاَّ ٱللَّهُ)) phải hoàn toàn kiên định rằng Allah là Đấng thờ phượng đích thực, không có bất kỳ sự nghi ngờ nào. Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋإِنَّمَا ٱلۡمُؤۡمِنُونَ ٱلَّذِينَ ءَامَنُواْ بِٱللَّهِ وَرَسُولِهِۦ ثُمَّ لَمۡ يَرۡتَابُواْ وَجَٰهَدُواْ بِأَمۡوَٰلِهِمۡ وَأَنفُسِهِمۡ فِي سَبِيلِ ٱللَّهِۚ أُوْلَٰٓئِكَ هُمُ ٱلصَّٰدِقُونَ ﮊ (الحجرات : 15)

{Chỉ những ai tin tưởng nơi Allah và Sứ giả của Ngài, rồi không nghi ngờ điều gì và họ sẽ chiến đấu bằng cả tài sản lẫn sinh mạng của họ cho con đường Chính đạo của Allah mới là những người có đức tin. Họ mới là những người chân thật.} (Chương 49. Al-Hujurat, câu 15).



3- Ikhla-s (Trung thành tôn thờ một Đấng duy nhất), phủ định Shirk (Tôn thờ đa thần):

Tuyệt đối trung thành và chân tâm hướng về một mình Allah duy nhất trong việc thờ phượng, không được chuyển hướng đến một thứ gì khác ngoài Ngài. Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋوَمَآ أُمِرُوٓاْ إِلَّا لِيَعۡبُدُواْ ٱللَّهَ مُخۡلِصِينَ لَهُ ٱلدِّينَ حُنَفَآءَﮊ (البينة : 5)

{Và họ được lệnh chỉ phải thờ phượng riêng Allah, triệt để thần phục Ngài một cách chính trực.} (Chương 98. Albayyinah, câu 5).



4- Trung thực, phủ định sự dối trá:

Một người khi nói ((لاَ إِلَهَ إِلاَّ ٱللَّهُ)) thì tâm của y phải chân thật với lời nói của y. Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋالٓمٓ ١ أَحَسِبَ ٱلنَّاسُ أَن يُتۡرَكُوٓاْ أَن يَقُولُوٓاْ ءَامَنَّا وَهُمۡ لَا يُفۡتَنُونَ ٢ وَلَقَدۡ فَتَنَّا ٱلَّذِينَ مِن قَبۡلِهِمۡۖ فَلَيَعۡلَمَنَّ ٱللَّهُ ٱلَّذِينَ صَدَقُواْ وَلَيَعۡلَمَنَّ ٱلۡكَٰذِبِينَ ﮊ (العنكبوت: 1 – 3 )

{Alif. La-m. Mi-m. Phải chăng con người nghỉ rằng họ sẽ được yên thân khi nói: Chúng tôi tin tưởng và sẽ không bị thử thách hay sao? Và quả thật, TA đã thử thách những người trước họ. Allah muốn thấy rõ ai là người chân thật và ai là kẻ gian dối.} (Chương 29. Al-‘Ankabut, câu 1 – 3).

5- Tình yêu thương, phủ định sự ghét bỏ:

Người nói ((لاَ إِلَهَ إِلاَّ ٱللَّهُ)) phải nói bằng tấm lòng yêu thương Allah và Sứ giả của Ngài , và y phải yêu quý lời tuyên thệ này cũng như yêu quý những gì trong nội dung và ý nghĩa của nó. Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋوَمِنَ ٱلنَّاسِ مَن يَتَّخِذُ مِن دُونِ ٱللَّهِ أَندَادٗا يُحِبُّونَهُمۡ كَحُبِّ ٱللَّهِۖ وَٱلَّذِينَ ءَامَنُوٓاْ أَشَدُّ حُبّٗا لِّلَّهِۗ ﮊ (البقرة : 165)

{Nhưng trong nhân loại, có những kẻ đã dựng những đối tác ngang hàng cùng với Allah. Họ yêu thương chúng giống với tình yêu họ dành cho Allah. Ngược lại, những ai có đức tin thì yêu thương Allah mạnh hơn.} (Chương 2. Al-Baqarah, câu 165).



6- Sự noi theo, phủ định sự ngoảnh mặt làm ngơ:

Phải thờ phượng Allah duy nhất theo đúng đường lối giáo luật mà Ngài đã quy định, phải tin tưởng nơi giáo luật đó và phải luôn khẳng định trong lòng rằng nó là chân lý. Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋوَأَنِيبُوٓاْ إِلَىٰ رَبِّكُمۡ وَأَسۡلِمُواْ لَهُۥ ﮊ (زمر : 54)

{Hãy quay về sám hối với Thượng Đế của các ngươi và hãy thần phục Ngài (quy thuận Islam)} (Chương 39. Az-Zumar, câu 54).



7- Chấp nhận, phủ định sự phản kháng:

Phải chấp nhận lời tuyên thệ này và chấp nhận những gì mà câu tuyên thệ hàm chứa trong đó, từ việc toàn tầm thờ phượng Allah duy nhất cho đến việc từ bỏ thờ phượng mọi thần linh khác ngoài Ngài. Allah, Đấng Tối cao phán:

ﮋإِنَّهُمۡ كَانُوٓاْ إِذَا قِيلَ لَهُمۡ لَآ إِلَٰهَ إِلَّا ٱللَّهُ يَسۡتَكۡبِرُونَ ٣٥ وَيَقُولُونَ أَئِنَّا لَتَارِكُوٓاْ ءَالِهَتِنَا لِشَاعِرٖ مَّجۡنُونِۢ ٣٦ ﮊ (الصافات : 35 -36)

{Quả thật, chúng là những kẻ, khi được nhắc: “Không có Thượng Đế nào khác ngoài Allah” thì chúng tỏ ra ngạo mạn; và chúng bảo:”Chẳng lẽ chúng tôi phải bỏ các thần linh của chúng tôi chỉ vì một tên thi sĩ điên khùng (Muhammad) hay sao ?} (Chương 37. As-Saffat, câu 35 -36)



8- Phủ nhận tất cả những gì tôn thờ khác Allah.

Tuyệt đối không can hệ và dính líu đến việc thờ phượng các thần linh khác ngoài Allah và phải khẳng định rằng tất cả những gì được thờ phượng ngoài Allah là hư ảo không thực. Allah, Đấng Tôi cao phán:

ﮋفَمَن يَكۡفُرۡ بِٱلطَّٰغُوتِ وَيُؤۡمِنۢ بِٱللَّهِ فَقَدِ ٱسۡتَمۡسَكَ بِٱلۡعُرۡوَةِ ٱلۡوُثۡقَىٰ ﮊ (بقرة : 256)

{Ai phủ nhận Tà thần và tin tưởng nơi Allah thì chắc chắn sẽ nắm vững chiếc cán (của sợi dây cứu rỗi).} (Chương 2. Al-Baqarah, câu 256).

$ $ $


Lời Tuyên Thệ

((أَنَّ مُحَمَّداً رَسُوْلُ اللهِ))

((Muhammad Là Sứ Giả Của Allah))
# Dẫn chứng:

Allah, Đấng Tối cao phán:

ﮋلَقَدۡ جَآءَكُمۡ رَسُولٞ مِّنۡ أَنفُسِكُمۡ عَزِيزٌ عَلَيۡهِ مَا عَنِتُّمۡ حَرِيصٌ عَلَيۡكُم بِٱلۡمُؤۡمِنِينَ رَءُوفٞ رَّحِيمٞ ﮊ (التوبة : 128)

{Quả thật, một Sứ giả xuất thần từ các ngươi đến gặp các ngươi. Y đã buồn rầu khi thấy các ngươi đau khổ, và hết sức lo lắng cho các ngươi. Y đại lượng và khoan dung đối với những người tin tưởng.} (Chương 9. At-Tawbah, câu 128).

ﮋوَٱللَّهُ يَعۡلَمُ إِنَّكَ لَرَسُولُهُۥ ﮊ (المنافقون : 1)

{... trong lúc Allah biết Ngươi (Muhammad) thực sự là Sứ giả của Ngài.} (Chương 63. Al-Muna-fiqu-n, câu 1).



# Ý nghĩa của lời tuyên thệ: Sự tin tưởng tuyệt đối trong lòng và phải thể hiện bằng lời nói rằng Muhammad là người bề tôi của Allah, là vị Sứ giả của Ngài, được cử phái đến cho hai loài: Con người và Jinn.

# Hai trụ cột chính của lời tuyên thệ:

1- Thừa nhận sứ mạng của Nabi Muhammad . Bằng chứng cho điều này là lời phán của Allah:

ﮋمُّحَمَّدٞ رَّسُولُ ٱللَّهِۚ ﮊ (الفتح : 29)

{Muhammad là Sứ giả của Allah} (Chương 48. Al-Fath, câu 29).

2- Xác nhận rằng Nabi Muhammad  là người bề tôi của Allah. Bằng chứng là Allah đã khẳng định thân phận của Người rằng Người chỉ là một người bề tôi cao quý và đức hạnh bởi sứ mạng truyền bá của Người, Allah phán:

ﮋوَأَنَّهُۥ لَمَّا قَامَ عَبۡدُ ٱللَّهِ يَدۡعُوهُ كَادُواْ يَكُونُونَ عَلَيۡهِ لِبَدٗاﮊ (الجن: 19)

{Và quả thật, khi người bề tôi của Allah (Muhammad) đứng cầu nguyện Ngài thì chúng (những kẻ không tin) xúm nhau đến bao quanh Y đông đảo} (Chương 72. Al-Jinn, câu 19).

Do đó, Nabi Muhammad đích thực là một vị Sứ giả không dối trá, đồng thời là một bề tôi chứ không phải là Đấng thờ phượng.



# Các điều kiện cần của lời tuyên thệ và các yêu cầu của nó:

1- Tuyệt đối tin tưởng những gì Người e thông tin và mách bảo.

2- Vâng lời theo những gì mà Người e ra lệnh và chỉ bảo.

3- Tránh xa những gì mà Người e nghiêm cấm và ngăn cản.

4- Chỉ thờ phượng Allah theo những gì Người e chỉ dạy và hướng dẫn.
$ $ $


Shirk, Khái Niệm & Phân Loại
# Định Nghĩa Shirk:

Theo nghĩa của từ, Shirk là sự hợp tác và so sánh.

Theo thuật ngữ giáo luật, Shirk là gán ghép một đối tác ngang hàng cùng với Allah trong những điều mà nó chỉ thuộc về Allah duy nhất.

# Các loại Shirk:

1- Đại Shirk: là tất cả mọi Shirk được giáo luật quy ra và nó khiến một người bị trục xuất khỏi đạo.

2-Tiểu Shirk: là tất cả mọi lời nói và hành động được giáo luật xác định và quy cho tội danh Shirk hay
“Đại nghịch bất đạo” nhưng không bị trục xuất khỏi đạo.

# Sự khác biệt giữa đại Shirk và tiểu Shirk.

Sự khác biệt giữa đại Shirk và tiểu Shirk sẽ được làm rõ trong bảng phân biệt sau:




Đại Shirk

Tiểu Shirk

Người vi phạm phải gánh chịu:

Bị trục xuất khỏi đạo

Không bị trục xuất khỏi đạo

Bị đày trong Hỏa Ngục đời đời kiếp kiếp

Không đời đời kiếp kiếp nếu bị đày trong Hỏa Ngục

Tất cả mọi việc làm đều không còn giá trị

Chỉ mất giá trị đối với việc làm nào có Riya’ (sự phân tâm vì ai khác ngoài Allah)

Tính mạng và tài sản có thể bị xâm phạm.

Không bị xâm phạm

$ $ $


Các Dạng Đại Shirk
# Đại Shirk có bốn dạng:

Thứ nhất: Shirk trong cầu nguyện.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋفَإِذَا رَكِبُواْ فِي ٱلۡفُلۡكِ دَعَوُاْ ٱللَّهَ مُخۡلِصِينَ لَهُ ٱلدِّينَ فَلَمَّا نَجَّىٰهُمۡ إِلَى ٱلۡبَرِّ إِذَا هُمۡ يُشۡرِكُونَ ﮊ (العنكبوت :65)

{Bởi thể, khi chúng lên tàu (ra khơi), chúng cầu nguyện Allah, dâng trọn cả đức tin nơi Ngài. Nhưng khi Ngài cứu chúng lên bờ an toàn thì chúng lại thờ những thần linh khác cùng với Ngài} (Chương 29. Al-Ankabut, câu 65).



Thứ hai: Shirk trong tâm niệm.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋمَن كَانَ يُرِيدُ ٱلۡحَيَوٰةَ ٱلدُّنۡيَا وَزِينَتَهَا نُوَفِّ إِلَيۡهِمۡ أَعۡمَٰلَهُمۡ فِيهَا وَهُمۡ فِيهَا لَا يُبۡخَسُونَ ١٥ أُوْلَٰٓئِكَ ٱلَّذِينَ لَيۡسَ لَهُمۡ فِي ٱلۡأٓخِرَةِ إِلَّا ٱلنَّارُۖ وَحَبِطَ مَا صَنَعُواْ فِيهَا وَبَٰطِلٞ مَّا كَانُواْ يَعۡمَلُونَ ١٦ ﮊ (هود :15 – 16)

{Ai muốn đời sống trần tục này với vẻ hào nhoáng của nó thì TA sẽ trả đầy đủ phần công lao của họ nơi đó và họ sẽ không bị cắt giảm một tí nào nơi đó. Họ là những kẻ không hưởng được gì ở Đời Sau Ngoài Hỏa Ngục. (Lúc đó họ sẽ nhận thấy rằng) công trình của họ nơi trần gian sẽ tiêu tan, và những việc làm mà họ đã từng làm sẽ trở thành vô nghĩa} (Chương 11. Hud, câu 15 – 16).



Thứ ba: Shirk trong việc vâng lệnh.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋٱتَّخَذُوٓاْ أَحۡبَارَهُمۡ وَرُهۡبَٰنَهُمۡ أَرۡبَابٗا مِّن دُونِ ٱللَّهِ وَٱلۡمَسِيحَ ٱبۡنَ مَرۡيَمَ وَمَآ أُمِرُوٓاْ إِلَّا لِيَعۡبُدُوٓاْ إِلَٰهٗا وَٰحِدٗاۖ لَّآ إِلَٰهَ إِلَّا هُوَۚ سُبۡحَٰنَهُۥ عَمَّا يُشۡرِكُونَ ٣١ ﮊ (التوبة : 31)

{Họ đã lấy các thầy tu Do thái và thầy tu Công giáo làm thượng Đế của họ thay vì Allah, và lấy cả Masih (Ysa) con trai của Maryam (làm Thượng Đế của họ) trong lúc tất cả bọn họ được lệnh chỉ thờ phượng một Thượng Đế duy nhất, không có Thượng Đế nào khác ngoài Ngài. Ngài quang vinh và trong sạch về những điều (kẻ) mà họ đã tổ hợp cùng với Allah} (Chương 9. At-Tawbah, 31).

Và Tafseer (giải thích) về ý nghĩa câu kinh này thì không có gì phải bàn cãi đó là sự vâng lời các vị U’lama (các vị học giả) và các vị tu hành làm điều tội lỗi và nghịch đạo chứ không phải là cầu nguyện và khấn vái đến họ, giống như Nabi  đã giải thích cho Udai bin Hatim  khi ông hỏi Người e: Chúng tôi đâu có thờ phượng họ. Người bảo rằng thờ phượng họ nghĩa là vâng lời họ làm những điều trái đạo và tội lồi(2).

Thứ tư: Shirk trong tình yêu thương.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋوَمِنَ ٱلنَّاسِ مَن يَتَّخِذُ مِن دُونِ ٱللَّهِ أَندَادٗا يُحِبُّونَهُمۡ كَحُبِّ ٱللَّهِۖۗﮊ (البقرة : 165)

{Nhưng trong nhân loại, có những kẻ đã dựng những đối tác ngang hàng cùng với Allah. Họ yêu thương chúng giống với tình yêu họ dành cho Allah.} (Chương 2. Al-Baqarah, câu 165).

$ $ $
Một Số Hình Ảnh Tiêu Biểu Của Đại Shirk & Tiểu Shirk
# Một số hình ảnh tiêu biểu của đại Shirk:

- Đại Shirk rõ ràng và công khai: Như giết súc vật tế những gì (vật, kẻ) khác ngoài Allah, nguyện thề với những gì khác ngoài Allah, cầu xin phúc lành và may mắn với những gì khác ngoài Allah.

- Đại Shirk thầm kín và không dễ nhận biết: như là sự Shirk của những người đạo đức giả, nỗi sợ hãi điều xấu và rủi ro và nó là nỗi sợ những gì khác ngoài Allah về những điều không thể xảy ra ngoài quyền năng của Allah.

# Một số hình ảnh tiêu biểu của tiểu Shirk:

- Tiểu Shirk rõ ràng và công khai: như là thề thốt với những gì khác ngoài Allah tiểu biểu như lời nói “Đây quả là điều Allah và anh đã muốn”, hoặc “Nếu như không được Allah và anh ...”

- Tiểu Shirk thầm kín và khó nhận biết: như là tiểu Riya’ (một hành động gì đó không phải toàn tâm vì Allah mà còn vì một điều gì khác ngoài Ngài, như khi dâng lễ nguyện Salah trước mặt một ai đó thì lại tỏ vẻ kính cẩn và nghiêm trang hơn, hoặc khi bố thí tiền cho người nghèo thì muốn khoe cho thiên hạ biết mình rộng lượng,...); và sự tin tưởng vào những gì được cho là điềm báo hoặc tin tưởng vào những điều tiên đoán của một kẻ nào đó (Mê tín).

# Lời cầu nguyện hữu ích ngăn chặn bị phạm vào Shirk:

Abu Musa Al-Ash-ary  thuật lại, vào một ngày nọ, Thiên Sứ của Allah  giảng đạo cho chúng tôi nghe, Người nói:

« أَيُّهَا النَّاسُ اتَّقُوا هَذَا الشِّرْكَ فَإِنَّهُ أَخْفَى مِنْ دَبِيبِ النَّمْلِ ». فَقَالَ لَهُ مَنْ شَاءَ اللَّهُ أَنْ يَقُولَ وَكَيْفَ نَتَّقِيهِ وَهُوَ أَخْفَى مِنْ دَبِيبِ النَّمْلِ يَا رَسُولَ اللَّهِ قَالَ « قُولُوا اللَّهُمَّ إِنَّا نَعُوذُ بِكَ مِنْ أَنْ نُشْرِكَ بِكَ شَيْئاً نَعْلَمُهُ وَنَسْتَغْفِرُكَ لِمَا لاَ نَعْلَمُ » (رواه أحمد و حسنه الألباني – رحمهما الله)

Này hỡi người dân! Hãy coi chừng điều Shirk này đây, bởi quả thật, nó là điều khó nhận biết hơn cả dấu chân của loài kiến. Thế là, đã có người, mà Allah muốn cho y nói, hỏi: Thưa Thiên Sứ của Allah, vậy làm thế nào chúng ta có thể tránh xa nó nếu như nó là điều khó nhận biết hơn cả dấu chân của loài kiến? Người bảo: Các người hãy cầu nguyện, nói: ((Ollo-humma inna na-u’zhu bika min an nushrika bika shay-an na’lamuhu, wa nastaghfiruka lima la na’lam)) với ý nghĩa: ((Lạy Thượng Đế, quả thật chúng con xin Ngài phù hộ cho chúng con tránh làm Shirk bất kỳ một điều gì với Ngài mà chúng con biết rõ, và xin Ngài hãy tha thứ cho chúng con về những gì mà chúng có không hay biết)).” (Hadith do Imam Ahmad ghi lại và được học giả Al-Alba-ni xác nhận là tốt).

$ $ $

Lịch Sử Về Shirk
# Tawhid là gốc nguồn đã có trong bản chất của con cháu Adam, còn Shirk chỉ là điều xâm nhập từ bên ngoài, xảy ra do một sự bất chợt nào đó.

Điều này đã được Ibnu Abbass  nói: “Khoảng thời gian giữa Adam và Nuh là mười thế kỷ, tất cả họ đều trong đức tin Tawhid.



# Điều Shirk đầu tiên xảy ra trên trái đất:

Bắt đầu là ở vào thời kỳ của Nabi Nuh  khi cộng đồng của Người quá ngưỡng mộ và yêu quý những người hiền nhân ngoan đạo, đến nỗi sùng kính họ. Họ đã vẽ chân dung và nắn tạc các bức tượng của những vị hiền nhân ngoan đạo kia để tưởng nhớ. Sau đó, thế hệ con cháu sau này của họ lại thờ phượng và cúng vái đến các bức tượng đó và xem họ như những thần lình phù hộ, ban phước lành, và giúp tránh điều rủi ro. Họ quên mất Allah và không còn thờ phượng và cúng vái Ngài nữa. Thế là, Allah mới cử phái Nuh  đến kêu gọi họ trở về với Tawhid.



# Shirk trong cộng động của Nabi Musa :

Nó xảy ra khi họ đã lấy con bò làm thần linh của họ.



# Shirk trong cộng đồng người Thiên Chúa giáo:

Nó xảy ra sau khi Nabi Ysa (Giê-su)  được Allah đưa lên trời. Rồi “Polus” là kẻ đã sáng lập đức tin Iman vào Masih (Giê-su) một cách ranh ma và quỷ quái. Hắn đã đã rót vào trong tôn giáo của Ysa thuyết ba ngôi, thờ phượng cây thánh giá và thờ phượng nhiều bụt tượng khác nhau.



# Shirk trong cộng đồng người Ả rập:

Nó xảy ra dưới tay của Amru bin Luhi Al-khaza-i, người đã thay đổi tôn giáo thuần túy của Ibrahim. Ông ta đã du nhập những cái tượng thờ vào vùng đất Ả rập và ra lệnh cho mọi người phải thờ phượng và cúng vái chúng.



# Shirk trong cộng đồng của Muhammad :

Nó xảy ra dưới tay của những người Shi-ah Fa-timimi-n (thuộc hệ phái Si-ai) bốn trăm năm sau đó. Họ đã xây lên những biểu tượng ở các ngôi mộ, họ đổi mới và cải biên tôn giáo, họ tổ chức nghi lễ sinh nhật trong Islam, họ ngưỡng mộ và yêu quý những người hiền nhân và ngoan đạo quá mức đến nỗi tôn thờ và sùng bái họ.

Và nó cũng đã xảy ra vào thời điểm tôn giáo bị bóp méo, cải biên và mọi người đã ngưỡng mộ quá mức thành tôn thờ các vị học giả , Imam, Sheikh.

$ $ $


Sự Nghiêm Trọng Của Shirk Và Hình Phạt Dành Cho Nó
1- Quả thật, Allah không bao giờ tha thứ cho những ai làm Shirk đến chết mà vẫn không sám hối quay về với Ngài.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋإِنَّ ٱللَّهَ لَا يَغۡفِرُ أَن يُشۡرَكَ بِهِۦ وَيَغۡفِرُ مَا دُونَ ذَٰلِكَ لِمَن يَشَآءُۚ ﮊ (النساء : 48 )

{Quả thật, Allah không tha thứ cho ai làm điều Shirk với Ngài, nhưng Ngài sẽ tha thứ những tội lỗi khác cho ai Ngài muốn.} (Chương 4. Annisa’, câu 48).

2- Người làm Shirk sẽ bị trục xuất khỏi Islam (tức không còn là người Muslim nữa), và tính mạng và tài sản của y được phép xâm phạm.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋفَإِذَا ٱنسَلَخَ ٱلۡأَشۡهُرُ ٱلۡحُرُمُ فَٱقۡتُلُواْ ٱلۡمُشۡرِكِينَ حَيۡثُ وَجَدتُّمُوهُمۡ وَخُذُوهُمۡ وَٱحۡصُرُوهُمۡ ﮊ (التوبة : 5)

{Do đó, khi những tháng cấm đã chấm dứt, hãy đánh và giết những kẻ thờ đa thần ở nơi nào các ngươi tìm thấy chúng; và các ngươi hãy bắt chúng và mai phục chúng} (Chương 9. At-Tawbah, câu 5).

3- Quả thật, Allah, Đấng Tối Cao không chấp nhận bất kỳ việc làm nào có Shirk, và những công đức cùng các việc làm thiện tốt trước kia của chúng sẽ trở thành tro bụi không giá trị.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋوَقَدِمۡنَآ إِلَىٰ مَا عَمِلُواْ مِنۡ عَمَلٖ فَجَعَلۡنَٰهُ هَبَآءٗ مَّنثُورًاﮊ (الفرقان: 23).

{Và TA sẽ xét lại công trình nào mà chúng đã làm ra và sẽ làm cho nó thành tro bay tứ tán.} (Chương 25. Al-Furqan, câu 23).

ﮋوَلَقَدۡ أُوحِيَ إِلَيۡكَ وَإِلَى ٱلَّذِينَ مِن قَبۡلِكَ لَئِنۡ أَشۡرَكۡتَ لَيَحۡبَطَنَّ عَمَلُكَ وَلَتَكُونَنَّ مِنَ ٱلۡخَٰسِرِينَﮊ (الزمر: 65)

{Và quả thật, Ngươi (Muhammad) và những vị (Sứ giả) trước Ngươi đã được mặc khải cho biết: “Nếu ngươi tôn thờ những kẻ đối tác (thần linh do các ngươi gán ghép) cùng với Allah thì việc làm cả Ngươi sẽ trở thành vô nghĩa và chắc chắn Người sẽ trở thành một kẻ thua thiệt.} (Chương 39. Az-Zumar, câu 65)

4- Người làm Shirk bị cấm vào Thiên Đàng và y sẽ phải đời đời kiếp kiếp bị đày trong Hỏa Ngục.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋإِنَّهُۥ مَن يُشۡرِكۡ بِٱللَّهِ فَقَدۡ حَرَّمَ ٱللَّهُ عَلَيۡهِ ٱلۡجَنَّةَ وَمَأۡوَىٰهُ ٱلنَّارُۖ وَمَا لِلظَّٰلِمِينَ مِنۡ أَنصَارٖ ﮊ (المائدة : 72)

{Quả thật, ai làm điều Shirk (gán ghép thần linh ngang hàng) với Allah thì chắc chắn sẽ bị cấm vào Thiên Đàng, và chỗ ở của y sẽ là Hỏa Ngục. Và những kẻ làm điều sai quấy sẽ không được ai giúp đỡ.} (Chương 5. Al-Ma-idah, câu 72).


$ $ $

Những Điều Vô Hiệu Hóa Islam
Những điều vô hiệu hóa Islam có nghĩa là những gì làm mất giá trị Islam và hủy hoại đức tin Iman, tức chúng sẽ khiến một người Muslim không còn là Muslim nữa. Và trong những điều được cho là nghiêm trọng nhất và phổ biến nhất có mười điều tiêu biểu sau đây:

1- Shirk trong việc thờ phượng Allah: Tiêu biểu cho điều này là việc giết tế súc vật vì ai (vật) khác ngoài Allah như việc giết tế để cúng Jinn (ma, quỷ) hay để cúng mộ bia.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋإِنَّ ٱللَّهَ لَا يَغۡفِرُ أَن يُشۡرَكَ بِهِۦ وَيَغۡفِرُ مَا دُونَ ذَٰلِكَ لِمَن يَشَآءُۚﮊ (النساء : 48 )

{Quả thật, Allah không tha thứ cho ai làm điều Shirk với Ngài, nhưng Ngài sẽ tha thứ những tội lỗi khác cho ai Ngài muốn.} (Chương 4. Annisa’, câu 48).

2- Người nào tự tạo ra kẻ (vật) trung gian giữa y và Allah để cầu nguyện và khấn vái đến chúng, phó thác cho chúng để mong được chúng phù hộ và giúp đỡ, là kẻ ngoại đạo, không còn là người theo đạo Islam nữa. Đây là giáo lý được thống nhất bởi toàn thể học giả Islam.

3- Ai không phủ nhận những người đa thần, hoặc ngờ vực về sự không có đức tin của họ, hoặc xác nhận và khẳng định đường lối của họ là đúng đắn và chân lý thì người đó là Kafir (ngoại đạo vô đức tin).

4- Ai cho rằng bất kỳ chỉ đạo nào tốt hơn và hoàn hảo hơn Chỉ đạo của Nabi e, hoặc cho rằng luật của bất kỳ ai khác tốt hơn luật của Người e giống như những người đã yêu thích luật của những kẻ ngoại đạo hơn là luật của Người e, thì người đó là Kafir (vô đức tin).

5- Người nào căm ghét hay có lòng không ưa thích một điều gì đó đến từ mệnh lệnh của Thiên Sứ e, ngay cả khi y có thực hiện nó đi chăng nữa, thì y vẫn là người Kafir.

6- Người nào có thái độ giễu cợt, bất kính với một điều gì đó trong đạo của Thiên Sứ e, hay về sự thưởng phạt của Người thì người đó là Kafir.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋقُلۡ أَبِٱللَّهِ وَءَايَٰتِهِۦ وَرَسُولِهِۦ كُنتُمۡ تَسۡتَهۡزِءُونَ ٦٥ لَا تَعۡتَذِرُواْ قَدۡ كَفَرۡتُم بَعۡدَ إِيمَٰنِكُمۡۚﮊ (التوبة: 65 - 66)

{Hãy bảo chúng (Muhammad!): “Có phải các người đang chế giễu Allah và các Lời mặc khải của Ngài và Sứ giả của Ngài chăng? Chớ tìm cách biện bạch. Quả thật các người đã chối bỏ đức tin của các người sau khi các người tin tưởng.} (Chương 9. At-Tawbah, câu 65 -66).

7- Ma thuật và bùa ngải: Tiêu biểu là dùng đến ma thuật và bùa ngải để gây chia rẽ hay tác hợp đôi lứa, hoặc gây bệnh hoạn và tai hại cho người. Người nào dùng đến nó và hài lòng về nó là kẻ Kafir.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋوَمَا يُعَلِّمَانِ مِنۡ أَحَدٍ حَتَّىٰ يَقُولَآ إِنَّمَا نَحۡنُ فِتۡنَةٞ فَلَا تَكۡفُرۡۖﮊ (البقرة: 102)

{Nhưng (hai thiên thần) này không dạy (pháp thuật) cho một ai mà không báo trước: “Chúng tôi đây chỉ là một sự cám dỗ (để thử thách quí vị); do đó, chớ phủ nhận đức tin.”} (Chương 2. Al-Baqarah, câu 102).

8- Ủng hộ và trợ giúp những người ngoại đạo đàn áp hay nghịch lại những người Muslim.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋوَمَن يَتَوَلَّهُم مِّنكُمۡ فَإِنَّهُۥ مِنۡهُمۡۗ إِنَّ ٱللَّهَ لَا يَهۡدِي ٱلۡقَوۡمَ ٱلظَّٰلِمِينَﮊ (المائدة : 51)

{Và ai trong các ngươi (Muslim) quay về kết thân với họ thì là người của họ. Quả thật, Allah không hướng dẫn đám người làm điều sai quấy.} (Chương 5. Al-Ma-idah, câu 51).

9- Người nào tìm kiếm bất kỳ điều luật nào ngoài giáo luật của Muhammad e thì người đó là Kafir.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋوَمَن يَبۡتَغِ غَيۡرَ ٱلۡإِسۡلَٰمِ دِينٗا فَلَن يُقۡبَلَ مِنۡهُ وَهُوَ فِي ٱلۡأٓخِرَةِ مِنَ ٱلۡخَٰسِرِينَ ٨٥ ﮊ (آل عمران : 85)

{Và ai tìm kiếm bất kỳ đạo nào khác ngoài Islam thì y sẽ không bao giờ được (Allah) chấp nhận, và Ngày Sau y sẽ là một trong những kẻ bị thua thiệt} (Chương 3. Ali-Imran, câu 85).

10- Có sự chống đối với tôn giáo của Allah, không học hỏi và tìm hiểu cũng không chấp hành theo giáo luật của Ngài.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋوَمَنۡ أَظۡلَمُ مِمَّن ذُكِّرَ بِ‍َٔايَٰتِ رَبِّهِۦ ثُمَّ أَعۡرَضَ عَنۡهَآۚ إِنَّا مِنَ ٱلۡمُجۡرِمِينَ مُنتَقِمُونَ ٢٢ﮊ (السجدة : 22)

{Và còn ai đại nghịch bất đạo hơn những kẻ khi được nhắc đến Lời mặc khải của Thượng Đế của họ thì họ lại tỏ thái độ chống đối và không tuân lệnh. Quả thật, TA sẽ trừng trị những kẻ tội lỗi.} (Chương 32. As-Sajdah, câu 22).

# Hai điều cần lưu ý:

Thứ nhất: Tất cả những điều vô hiệu hóa Islam này không có sự phân biệt giữa sự đùa giỡn, thật lòng, hay lo sợ ngoại trừ bị cưỡng bức.

Thứ hai: Tất cả những điều vô hiệu hóa Islam được nói đến trên đây đều là những điều rất mực nghiêm trọng và nguy hại đến tốn giáo của một người Muslim, và chúng cũng là những điều phổ biến mà mỗi người Muslim phải luôn đề cao cảnh giác, và hãy lo sợ cho bản thân của mình.

$ $ $



Sự Phủ Nhận Ta-ghut
# Định nghĩa Ta-ghut:

Theo nghĩa đen của từ: Ta-ghut là danh từ có nguồn gốc từ danh từ “الطغيان” “Attughya-n” có nghĩa là sự vượt quá mức hạn đã định.

Theo thuật ngữ giáo luật: Ta-ghut có nghĩa là những gì mà người bề tôi vượt quá giới hạn khỏi việc thờ phượng, hay tuân lệnh. (tức thờ phượng và tuân lệnh những gì khác ngoài Allah mà họ cho đó là thân lình có quyền năng ngang hàng với Allah)

# Phủ nhận Ta-ghut là điều bắt buộc:

Việc đầu tiên mà Allah sắc lệnh xuống cho con cháu Adam là phải nghịch lại với Ta-ghut và tin tưởng nơi Allah.

Allah, Đấng Tối Cao phán:

ﮋوَلَقَدۡ بَعَثۡنَا فِي كُلِّ أُمَّةٖ رَّسُولًا أَنِ ٱعۡبُدُواْ ٱللَّهَ وَٱجۡتَنِبُواْ ٱلطَّٰغُوتَۖﮊ (النحل : 36)

{Và quả thật, TA đã cử phái một Sứ giả đến cho mỗi cộng đồng (với mệnh lệnh): “Hãy thờ phượng Allah và tránh xa Ta-ghut} (Chương 16. An-Nahl, câu 36).
# Các hình thức phủ nhận Ta-ghut:

1- Phải tuyệt đối tin rằng những gì được thờ phượng khác ngoài Allah là tà thần, không thực. Hãy từ bỏ và tránh xa chúng, và hãy căm ghét chúng.

2- Phải phủ nhận và chống đối lại những ai tôn thờ chúng (Ta-ghut).

# Đầu não của những Ta-ghut:

Có rất nhiều Ta-ghut nhưng những tên đầu não của chúng có năm tên:

1- Iblis (Vua của Shaytan), Allah luôn nguyền rủa chúng.

2- Những kẻ được thờ phượng khác ngoài Allah và chúng hài lòng với điều đó.

3- Những ai kêu gọi thiên hạ thờ phượng bản thân hắn.

4- Những ai tự cho mình hiểu biết một điều gì đó từ cõi vô hình.

5- Những ai phân xử không theo giáo luật mà Allah đã ban xuống.


$ $ $

Ba Nền Tảng Giáo Lý Cơ Bản

1- Người bề tôi phải nhận biết Thượng Đế của y.

2- Người bề tôi phải nhận biết tôn giáo của y.

3- Người bề tôi phải nhận biết Nabi của y, Muhammad e.

Và ba nền tảng giáo lý cơ bản này sẽ là những câu hỏi trong cõi mộ.

Nền tảng thứ nhất: Người bề tôi phải nhận biết Thượng Đế của y.

1- Y phải nhận biết rằng Allah là Thượng Đế của y, Đấng đã trông coi và cai quản y và mọi vạn vật của toàn vũ trụ bằng hồng phúc vĩ đại của Ngài.

2- Y phải nhận biết rằng Allah, Đấng Tối Cao, là Đấng đáng được thờ phượng đích thực, không có Đấng thờ phượng nào khác ngoài Ngài.

3- Y nhận biết Thượng Đế của y bởi những dấu hiệu của Ngài, và những tạo vật vĩ đại của Ngài trong vũ trụ càn khôn.

- Những dấu hiệu tiêu biểu của Ngài: Ban đêm, ban ngày, mặt trời, mặt trăng, và các tinh tú, ...

- Những tạo vật vĩ đại của Ngài: Các tầng trời, các hành tinh và mọi vạn vật trong chúng.



Nền tảng thứ hai: Người bề tôi phải nhận biết tôn giáo của y.

1- Allah sẽ không bao giờ chấp nhận bất kỳ một tôn giáo nào khác ngoài Islam.

2- Islam là sự quy phục Allah bằng Tawhid (tôn thờ duy nhất một mình Ngài), tuyệt đối chấp hành theo mệnh lệnh của Ngài, và tuyết đối không liên can hay dính dấp đến Shirk (sự tổ hợp, gán ghép cùng với Allah một đối tác ngang hàng) và những người đi theo nó.

3- Ba cấp bậc của tôn giáo Islam: Islam, Iman và Ihsan.



Каталог: data
data -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
data -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
data -> Qcvn 81: 2014/bgtvt
data -> Trung taâm tin hoïC Ñhsp ñEÀ thi hoïc phaàn access
data -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
data -> Công ty cổ phần Xây dựng Điện vneco3
data -> Nghiên cứu một số đặc điểm
data -> NHỮng đÓng góp mới của luậN Án tiến sĩ CẤP ĐẠi học huế Họ và tên ncs : Nguyễn Văn Tuấn
data -> Mẫu 01/hc-sn-dn (Ban hành kèm theo Thông tư số 83/2007/tt-btc ngày 16/7/2007 của Bộ Tài chính) TỜ khai hiện trạng sử DỤng nhà, ĐẤt thuộc sở HỮu nhà NƯỚc và ĐỀ xuất phưƠng án xử LÝ

tải về 1.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương