BÀN LUẬN
Trong nhóm nghiên cứu 55,2% bệnh nhân đau hố chậu phải được chẩn đoán viêm ruột thừa cấp đã được phẫu thuật và làm giải phẫu bệnh. Với mục tiêu không bỏ sót viêm ruột thừa cấp trong những trường hợp đau hố chậu phải vào cấp cứu bằng sự kết hợp tốt các xét nghiệm cận lâm sàng và hội chẩn với Bác sĩ ngoại, chúng tôi đã loại trừ được khá nhiều trường hợp đau hố chậu phải không phải viêm ruột thừa cấp mà không phải nhập viện. Tuy nhiên vẫn có 1 trường hợp (0,95%) chẩn đoán sót viêm ruột thừa cấp. Tỉ lệ chẩn đoán viêm ruột thừa cấp trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự nhóm nghiên cứu của tác giả Charles.Trong 302 trường hợp đau hố chậu phải được tác giả này nghiên cứu thì tỉ lệ viêm ruột thừa cấp là 139 chiếm 46% còn lại là các bệnh lý viêm dạ dày ruột, bệnh lý nhiễm khuẩn phần phụ, viêm hạch mạc treo, … Nghiên cứu của A.S.Shirazi năm 2010 trên 110 bệnh nhân đau hố chậu phải nghi ngờ viêm ruột thừa cũng ghi nhận chỉ có 54 bệnh nhân có kết quả viêm ruột thừa còn lại là những bệnh lý khác.
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, phần lớn bệnh nhân có biểu hiện viêm ruột thừa đến muộn khả năng do kiến thức của bệnh nhân về bệnh tật chưa cao.
Sốt là biểu hiện của phản ứng viêm, xảy ra khi tình trạng viêm kéo dài trên 6 giờ. Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi được ghi nhận là 78,7% trong đó phần lớn nhiệt độ từ 37 -380c chiếm 53,2%. Cũng do thời điểm nhập viện khá muộn, trung bình là 12 giờ nên phần lớn bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu có số lượng bạch cầu tăng khá rõ (tỉ lệ > 12,000 / ml chiếm 59,6%) còn tỉ lệ bạch cầu > 10,000 là 89,4%. Số lượng bạch cầu trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự với tác giả Ali.Theo Ali, tỉ lệ bạch cầu > 12.000/ml chiếm 2/3 trường hợp vơí độ nhạy 98% và độ đặc hiệu 95% [5]. Còn theo nghiên cứu của PL Goh thì bạch cầu hơn 12,000 /ml là yếu tố chẩn đoán viêm ruột thừa với độ nhạy là 77,8% và độ đặc hiệu 77,3% [7]. Tuy nhiên theo nghiên cứu của Gulzar S thì 61,2% bệnh nhân có bạch cầu > 10.000/ml thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi (89,4%) có lẽ là do bệnh nhân đến sớm hơn. Phần lớn các tác giả nghiên cứu đều lấy tiêu chí cấu trúc hình ống kích thước lớn hơn hoặc bằng 6 mm ấn không xẹp ở vùng hố chậu phải là tiêu chuẩn chẩn đoán viêm ruột thừa trên siêu âm và gọi là test dương. Những dấu hiệu còn lại như dịch hố chậu phải, thâm nhiễm mỡ, hạch mạc treo là hiệu gợi ý hoặc góp phần vào chẩn đoán và vẫn được xem là test âm. Chúng tôi cũng áp dụng tiêu chí này để kết luận có hình ảnh viêm ruột thừa cấp trên siêu âm hay không. Trong nhóm nghiên cứu kích thước ruột thừa trung bình 8,1mm; tương tự nghiên cứu của Trần Công Hoan và cộng sự [3]. Độ nhạy và độ đặc hiệu của siêu âm trong nghiên cứu của chúng tôi lần lượt là 85,1% và 97,7 %. Giá trị dự báo dương tính và âm tính lần lượt là 97,6% và 85,7% độ chính xác 91,1%. Tương tự nghiên cứu của Võ Duy Long và cộng sự tại BV Nhân Dân Gia Định TPHCM cho thấy độ nhạy và độ đặc hiệu trong chẩn đoán viêm ruột thừa cấp lần lượt là 80,5% và 94,8% [4]. Của tác giả Trần Công Hoan tại Bệnh viện Việt Đức Hà Nội cho thấy độ nhậy 96,7% cao hơn trong nghiên cứu của chúng tôi do tác giả lấy tiêu chuẩn viêm ruột thừa đường kính > 7mm. Các dấu hiệu thâm nhiễm mỡ và dịch quanh ruột thừa là các dấu hiệu gián tiếp rất có ý nghĩa trong chẩn đoán viêm ruột thừa cấp lần lượt chiếm 74,5% và 63,8%. Một số khó khăn trong thăm khám ruột thừa trong nhóm nghiên cứu như bụng trướng hơi, thành bụng dày hoặc ruột thừa nằm ở vị trí bất thường đây cũng là những khó khăn chung cho thăm khám ruột thừa ở các nghiên cứu khác và là hạn chế của phương pháp thăm khám bằng siêu âm.
KẾT LUẬN:
Hình ảnh ruột thừa tăng kích thước - ấn không xẹp và các dấu hiệu kèm theo như thâm nhiễm mỡ quanh ruột thừa chiếm 74,5%, dịch quanh ruột thừa chiếm 63,8% rất có giá trị trong chẩn đoán viêm ruột thừa cấp.
Siêu âm rất có ý nghĩa trong chẩn đoán viêm ruột thừa cấp với độ nhạy 85,1% , độ đặc hiệu 97,7% và độ chính xác 91,1%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Võ Thị Mỹ Ngọc (2009), Các yếu tố chẩn đoán nhầm viêm ruột thừa tại bệnh viện Nhân dân Gia định năm 2008, tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh, 2009, Vol 13, N 6, tr 180-184.
Phạm Minh Hải, Lê Quan Anh Tuấn, Nguyễn Hoàng Bắc (2008), Cắt ruột thừa nội soi, phẫu thuật trong ngày, NXB y học TP Hồ Chí Minh 2008, tập 12, phụ bản số 4, 337-342.
Trần Công Hoan (2013). Siêu âm chẩn đoán viêm ruột thừa cấp tại Bệnh Viện Việt Đức – Tạp trí Y học thực hành
Võ Duy Long, Lưu Hiếu Thảo, Nguyễn Văn Hải (2003). Giá trị của siêu âm trong chẩn đoán viêm ruột thừa cấp – Tạp trí Y học thành phố Hồ Chí Minh; tập 7 số 01.
Ali R, Khan MR, Pishori T et al (2010), Laparoscopic appendectomy for acute appendicitis: Is this a feasible option for developing countries?, The Saudi Jounal Gastroenterology, 2010, Vol 16, Issue 1, p 25-29.
Baradan J (2010), Can ultrasound compete with CT in Diagnosis of acue appendicitis, American journal of Radiology 2010, March, p 25-28.
Goh PL. (2010), A simplified appendicitis score in the diagnosis of acute appendicitis, Hong Kong Journal of emergency medicine 2010, Vol 17(3)
Gaitini D, Razi MB, Yosef DM (2008), Diagnosing acute appendicitis in adult: Accuracy of color Doppler and MDCT compare with surgery and clinical follow up, American journal of radiology 2008, 190-1300-1306.
Harrison S, Mahawar K, Brown D et al, (2009), Acute appendicitis presenting as small bowel obstruction – two cases reports, case journal 2009, 2, 9106.
Himeno S et al. (2003), Ultrasonography for the diagnosis of acute appendicitis,Tokei J exp clin Med V 28 IV N 1 p 39-44.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |