3.4.NÔNG NGHIỆP, LÂM NGHIỆP, THỦY SẢN Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp:
Trong đó đất nông nghiệp năm 2010 là 188.364,71 ha chiếm 56,58% diện tích tự nhiên, đất lâm nghiệp có rừng là 24.256,9 ha, chiếm 7,3% tổng diện tích tự nhiên.
- Trong giai đoạn 2001-2010 diện tích đất nông nghiệp giảm 9.114ha, bình quân mỗi năm giảm trên 900ha. Nguyên nhân chính của việc giảm diện tích đất sản xuất nông nghiệp là chuyển sang đất phi nông nghiệp, chủ yếu là đất ở, đất khu công nghiệp và đất giao thông.
Diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt năm 2010 đạt 229.700 ha trong đó: lúa cả năm 204.700 ha, sản lượng xấp xỉ 1,125 triệu tấn, diện tích ngô cả năm là 25.000 ha, sản lượng hơn 112 nghìn tấn, diện tích các loại cây công nghiệp hàng năm năm 2010 là 42.600 ha, sản lượng 69.300 tấn, diện tích rau 28.500 ha, sản lượng hơn 526 nghìn tấn. Diện tích trồng hoa cây cảnh năm 2010 là 2.009 ha (QHNN, 2012).
-
Trong những năm gần đây, bắt đầu tự phát hình thành một số vùng trồng hoa cây cảnh tập trung như chuyên hoa đào và quất ở Thư Phú, Vân Tảo, Hồng Vân (Thường Tín); Dương Nội, Yên Sở (Hoài Đức); cây cảnh ở Hồng Vân (Thường Tín); Hoa hỗn hợp và cây cảnh ở Tích Giang, Hiệp Thuận (Phúc Thọ); xã Tân Lập, Tân Hội (Đan Phượng); xã Mê Linh, Tráng Việt, Tiền Phong (huyện Mê Linh).
-
Đi đôi với quá trình chuyển đổi tích cực cơ cấu cây trồng, sản xuất cây hàng năm của Hà Nội cũng đã thể hiện rõ nét kết quả đầu tư phát triển theo hướng thâm canh. Nhiều loại giống mới cơ ưu thế về năng suất, chất lượng, nhiều tiến bộ kỹ thuật canh tác được ứng dụng trên diện rộng. Nhờ vậy, năng suất nhiều cây trồng chính đã không ngừng được nâng cao.
-
Một số mô hình nông nghiệp công nghệ cao đã và đang được hình thành tại Đông Anh, Mê Linh, Gia Lâm…
Chăn nuôi
Chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm được chú trọng phát triển với nhiều loại hình: chăn nuôi gia đình, trang trại với hình thức công nghiệp, bán công nghiệp và thủ công. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng dần qua các năm chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong giá trị sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản. Năm 2000 tỷ trọng chăn nuôi là 32,0% tăng lên 46,5% năm 2010. Các giống vật nuôi có năng suất chất lượng cao đang được đưa vào sản xuất: các giống lợn ngoại, bò lai, bò sữa, các loại gia cầm. Nhìn chung ngành chăn nuôi đang phát triển nhanh, sản phẩm ngày một tăng. Tổng đàn trâu năm 2010 là 26,9 nghìn con, đàn bò thịt 184,6 nghìn con, lợn 1,625 nghìn con và gia cầm 17,26 triệu con. Trong những năm gần đây, số lượng bò sữa tăng trưởng nhanh, tổng đàn bò sữa năm 2010 là 7,8 nghìn con, tập trung chủ yếu ở Ba Vì, Quốc Oai và Gia Lâm.
Lâm Nghiệp
Diện tích rừng của Hà Nội không nhiều, nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ trồng rừng trên đồi núi trọc, trồng cây phân tán trong nhân dân, thay thế vườn tạp bằng cây ăn quả, bảo vệ rừng nguyên sinh, rừng đặc dụng, rừng đầu nguồn như: rừng Quốc gia Ba Vì, khu vực Hương Sơn- Mỹ Đức, Sóc Sơn. Rừng góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, phục vụ phát triển du lịch. Tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp là 24.258 ha, trong đó rừng sản xuất là 8.550 ha, rừng phòng hộ là 5.413ha và rừng đặc dụng là 10.295ha.
Thủy sản
Hiện diện tích nuôi trồng thuỷ sản được phân bố ở hầu hết các quận, huyện của thành phố. Diện tích ao hồ nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn toàn Thành phố là 20.554 ha (trong đó diện tích chuyên nuôi thủy sản là 10.710ha). Sản lượng thủy sản năm 2010 là 59.387 tấn, chủ yếu là các loài cá.
3.5. CÔNG NGHIỆP, XÂY DỰNG Công nghiệp
Trong những năm vừa qua tốc độ tăng trưởng công nghiệp trên địa bàn thành phố ở mức cao, bình quân 14,1%/năm giai đoạn 2001-2005 và 12,1% giai đoạn 2006-2010. Ngành công nghiệp chế biến chiếm gần 90% giá trị ngành công nghiệp. Về thành phần kinh tế thì nhà nước chiếm 40%, công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 23% và đầu tư nước ngoài chiếm 36%.
Khu công nghiệp đã góp phần thể hiện vai trò của Hà Nội là một trong các trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Các khu công nghiệp Hà Nội đã chiếm khoảng 10% các chỉ tiêu đạt được của các khu công nghiệp của cả nước và đang dẫn đầu các tỉnh, thành phố phía Bắc.
Đầu tư xây dựng và phát triển các khu, cụm công nghiệp tập trung có ý nghĩa hết sức quan trọng, đã tạo ra môi trường đầu tư, địa điểm, cơ sở hạ tầng... thuận lợi để thu hút đầu tư.
Hiện tại Thành phố Hà Nội có 8 KCN đang hoạt động bao gồm: Bắc Thăng Long, Nội Bài, Sài Đồng, Hà Nội – Đài Tư, Nam Thăng Long, Thạch Thất – Quốc Oai, Phú Nghĩa và Quang Minh 1, với tổng diện tích là 1.236 ha. Có 8 KCN đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hiện đã và đang triển khai gồm: Bắc Thường Tín, Phụng Hiệp, Quang Minh 2, Sóc Sơn, Nam Phú Cát, Công Viên CNTT, Công nghệ cao sinh học Hà Nội, KCN Đông Anh và KCN Kim Hoa với tổng diện tích là 3.158ha.
* Tồn tại hiện nay:
- Việc đầu tư, phát triển các KCN của Thành phố vừa qua còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng của Thành phố. Hạ tầng kỹ thuật của các KCN hiện có vẫn chưa đồng bộ.
- Nhiều khu chưa hoàn thành đường nối với đường giao thông chính như vào các KCN Nam Thăng Long, Hà Nội- Đài Tư, Bắc Thường Tín, Phụng Hiệp, Quang Minh 2, Sóc Sơn…
- Ngoài Bắc Thăng Long, các KCN khác chưa có nơi ở tập trung và các dịch vụ văn hoá, xã hội cho cán bộ, công nhân.
- Mới chỉ 3 KCN có xử lý nước thải tập trung đi vào hoạt động là KCN Bắc Thăng Long, Nội Bài và Quang Minh 1.
- Một số KCN được nâng cấp, mở rộng từ cụm công nghiệp (Quang Minh 1, Quang Minh 2, Phú Nghĩa…) còn đang trong giai đoạn bàn giao và khớp nối các công trình hạ tầng kỹ thuật. Trong các khu này còn nhiều diện tích chưa giải phóng được mặt bằng.
* Các cụm công nghiệp, làng nghề
Hà Nội hiện có 53 cụm công nghiệp triển khai xây dựng với tổng diện tích 3635ha.
Tổng số 274 làng nghề được UBND Thành phố cấp bằng công nhận danh hiệu làng nghề, trong đó 198 làng nghề truyền thống được công nhận.
Năng lượng
Hiện tại Thủ đô Hà Nội được cung cấp nguồn điện từ hệ thống điện miền Bắc. Nguồn cung cấp điện cho Thành phố gồm chủ yếu từ nhà máy thủy điện Hoà Bình với công suất 1920MW và nhà máy nhiệt điện Phả Lại với công suất 440MW.
- Có 5 trạm biến áp 220KV cấp điện cho 33 trạm biến áp 110KV. Tổng điện năng tiêu thụ năm 2010 là 9 tỷ Kwh, mức tiêu thụ bình quân đầu người là 1347Kwh.
Xây dựng, đô thị
Tình trạng nhập cư tăng cao làm cho quá trình đô thị hóa tăng nhanh. Do tác động mạnh mẽ của quá trình đô thị hoá mà tỷ lệ dân số thành thị Hà Nội hiện nay là 42,6%. Diện tích đất đô thị hiện tại ở mức 32.116ha.
Nhiều khu vực của Hà Nội đang có tốc độ đô thị hoá nhanh đặc biệt là các khu vực phía Tây thành phố như Từ Liêm, Hoài Đức, Đan Phượng, Hà Đông, Thanh Trì.
Do sự dịch chuyển dân số từ khu vực ngoại thành vào nội thành với tốc cao, dẫn đến tốc độ đô thị hóa tại khu vực nội thành cũng diễn ra rất nhanh. Mặc dù tốc độ đô thị hóa nhanh nhưng vẫn chưa theo kịp tốc độ tăng dân số dẫn đến nhiều vấn đề bất cập:
-
Quản lý đầu tư xây dựng kém hiệu quả, dẫn đến phát triển đô thị tự phát không theo định hướng quy hoạch.
-
Nguồn vốn cho đầu tư xây dựng hạn chế, phát triển đô thị manh mún chắp vá không liên tục.
-
Nhà ở không đáp ứng nhu cầu về diện tích và chất lượng.
-
Hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật thiếu thốn.
-
Trật tự xã hội chưa đảm bảo, sự khác biệt về văn hóa của bộ phận dân nhập cư khu vực ngoại thành vào nội thành.
-
Bản sắc văn hóa, kiến trúc đặc trưng của Hà Nội bị mai một dần.
-
Chưa tạo được bộ mặt kiến trúc đô thị như mong muốn.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |