16
mật có chủ yếu là bilirubin. Bilirubin tự do là sản phẩm độc sinh ra do sự
phân huỷ hemoglobin của hồng cầu, theo máu đến gan. Tại đây, nó được este
hoá nhờ men glucuronat transferase của gan để trở thành bilirubin trực tiếp
không độc, xuống ruột, phân huỷ thành urobilinogen và stercobilinogen, một
phần urobilinogen và stercobilinogen sẽ quay lại gan trong chu trình gan –
ruột để tạo
ra bilirubin, phần còn lại được đào thải ra ngoài qua phân và nước
tiểu dưới dạng urobilin và stercobilin [23].
1.2.2. Chức năng chuyển hóa.
- Gan có vai trò điều hoà đuờng huyết. Khi nồng độ glucose trong máu
tăng thì gan giảm sản xuất glucose, tăng tổng hợp glycogen từ glucose. Khi
nồng độ glucose trong máu giảm, gan lại tăng cường phân ly glycogen và các
thành phần không phải là gluxit để tạo glucose, nhờ đó, duy trì nồng độ
đường máu ổn định [23], [26].
- Gan cũng tổng hợp toàn bộ albumin của huyết tương và các
protein tham
gia vào quá trình đông máu như: fibrinogen, prothrombin, yếu tố V, VII, IX.
- SGOT (còn gọi là SAT) và SGPT (còn gọi là ALT) là các men có vai
trò chuyển đổi các nhóm amin của các acid amin trong quá trình chuyển hoá
protid trong cơ thể. SGPT có chủ yếu ở trong bào tương của tế bào gan, còn
SGOT có ở nhiều nguồn: trong bào tương và trong ty lạp thể của tế bào gan;
trong các cơ quan khác như tim, cơ, xương, phổi… Khi tế bào gan bị tổn
thương, các men này sẽ được giải phóng vào máu [25], [77].
1.2.3. Chức năng khử độc.
Gan đóng vai trò chủ yếu trong việc chống chất độc nội sinh. Bình
thường, trong cơ thể, amoniac (NH3) là sản phẩm độc đối với hệ thần kinh,
được sinh ra do quá trình khử các acid amin và do các vi khuẩn lên men thối ở
ruột sinh ra, được tế bào gan chuyển hoá thành urê là sản phẩm không độc để
đào thải qua thận.