1. Quy định về nhập khẩu
Thuế quan
148. Đại diện của Việt Nam cho biết Việt Nam bắt đầu đánh thuế nhập khẩu theo Luật
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch ngày 29/12/1987. Năm 1991 Việt Nam
đã ban hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thay thế cho Luật Thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu hàng mậu dịch năm 1987. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng đã
được sửa đổi, bổ sung năm 1993, 1998 và ngày 14/6/2005, và các mức thuế suất được
Chính phủ quyết định trong phạm vi khung thuế suất do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban
hành (xem đoạn 152 dưới đây). Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam đã được sửa đổi một
số lần kể từ năm 1996 để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Số lượng khung thuế
suất đã giảm bớt, cũng như số dòng thuế có thuế suất 0%.
149. Tính tới ngày 20/4/2005, mức thuế nhập khẩu bình quân gia quyền của Việt Nam là
11% và mức thuế bình quân đơn giản là 17.8%. Mức thuế bình quân đơn giản đối với các
nhóm mặt hàng nhập khẩu chính như hàng nông sản là 21,4%, phương tiện vận tải là
38,4%, dệt may là 37,3%, khoảng sản là 13,5%, máy móc và thiết bị điện là 18,46%, và
kim loại là 8,05%. Các mức thuế suất dao động từ 0-60%, trong đó khoảng 52% số dòng
thuế có thuế suất trong khoảng 0-5%. Trong khoảng thời gian từ năm 2002-2004, số thu
thuế nhập khẩu đạt trị giá 17.826 tỷ đồng, thuế VAT thu với hàng hoá nhập khẩu tại biên
giới đạt 12.266 tỷ đồng và thuế tiêu thụ đặc biệt thu đối với hàng hoá nhập khẩu tại biên
giới đạt 2.017 tỷ. Về nguyên tắc, thuế suất áp dụng đối với hàng nhập khẩu không vượt
quá 60% giá CIF tại địa điểm thông quan hàng hoá. Nhằm tăng cường tính minh bạch
của cơ chế chính sách thương mại và thực thi các cam kết với Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)
và Ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam đã từng bước loại bỏ các biện pháp hạn chế nhập
khẩu phi thuế quan từ năm 2000 và thay thế bằng thuế và phụ thu nhập khẩu (xem thêm
phần về “Các loại thuế nhập khẩu và phụ thu khác”). Tính đến cuối năm 2003, hầu hết
các loại phụ thu nhập khẩu đã được gộp vào thuế nhập khẩu để tăng cường tính minh
bạch. Do vậy biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam có một số mức thuế suất MFN cao hơn
60%. Đại diện của Việt Nam đã cung cấp danh mục các mặt hàng có thuế suất MFN cao
hơn mức 60% cùng với mô tả hàng hóa tại tài liệu WT/ACC/VNM/28/Add.1.
150. Một số Thành viên đề nghị cung cấp thông tin về việc thực hiện danh mục Hệ thống
Hài hòa thuế quan (HS) tại Việt Nam và các công việc cần thực hiện tiếp để hài hòa hóa
67
với Danh mục Hài hòa thuế quan ASEAN (AHTN). Việt Nam cũng được yêu cầu làm rõ
về “Mức trần của khung thuế suất” và mối quan hệ giữa mức trần của khung thuế suất
với mức thuế nhập khẩu áp dụng thực tế. Một số Thành viên nhận xét rằng hệ thống thuế
nhập khẩu hiện tại của Việt Nam còn thiếu minh bạch, và yêu cầu Việt Nam cung cấp
biểu thuế nhập khẩu hiện hành và thống kê thương mại chi tiết nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho đàm phán mở cửa thị trường hàng hóa. Một Thành viên cho biết các nhà xuất
khẩu đã thông báo với các cơ quan chức năng của nước này rằng vào tháng 10/1998,
Việt Nam đã tăng thuế nhập khẩu bột mì từ 10% lên 20%, và Thành viên này muốn biết
liệu Việt Nam có tăng thuế nhập khẩu đối với những mặt hàng nào khác hay không.
Thành viên này cho rằng hành động tăng thuế nhập khẩu này của Việt Nam không phù
hợp vớ__________i quan điểm về giữ nguyên hiện trạng liên quan đến các biện pháp bóp méo
thương mại mới ban hành thêm.
151. Đại diện của Việt Nam trả lời rằng Công ước HS đã có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày
1/1/2000, do đó danh mục Biểu thuế của Việt Nam đã hoàn toàn phù hợp với danh mục
HS 1996 ở cấp độ 6 số. Danh mục Biểu thuế của Việt Nam sau đó cũng đã được hài hòa
hóa với Danh mục AHTN ở cấp độ 8 số và hoàn toàn phù hợp với HS 2002. Danh mục
hàng hoá xuất nhập khẩu mới của Việt Nam đã được ban hành theo Quyết định số
82/2003/QĐ-BTC vào ngày 13/6/2003.
152. Về thuế suất, đại diện của Việt Nam lưu ý rằng Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ấn
định mức trần của khung thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi MFN ở cấp độ HS 4 số
(“Khung thuế suất”), tạo cơ sở pháp lý cho Chính phủ quy định “thuế suất áp dụng thực
tế” ở cấp độ 8 số, hiện được qui định tại Quyết định số 110/2003/QĐ-BTC ngày
25/07/2003. Đại diện của Việt Nam đã cung cấp Biểu khung thuế suất thuế nhập khẩu ưu
đãi trong tài liệu WT/ACC/VNM/28/Add.1. Việc thay đổi thuế suất được quyết định trên
cơ sở tham khảo ý kiến của giới doanh nghiệp và các Bộ, ngành hữu quan. Đại diện của
Việt Nam khẳng định rằng tất cả các văn bản pháp luật, bao gồm các quyết định thay đổi
thuế suất đều được đăng tải trên Công báo trước khi áp dụng, phù hợp với Điều X:2 của
Hiệp định GATT 1994 và có hiệu lực 15 ngày sau khi đăng Công báo. Thuế suất thuế
nhập khẩu ban hành theo Quyết định số 110/2003/QĐ-BTC đã được đăng tải trên Công
báo và được công bố rộng rãi trước khi có hiệu lực. Thuế suất thuế nhập khẩu đối với
quặng sắt, sắt thép và xăng dầu gần đây được điều chỉnh giảm xuống để phù hợp với tính
hình giá thế giới của các sản phẩm này tăng mạnh. Thuế nhập khẩu đối với phôi thép đã
giảm từ 10% xuống còn 5%, thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm thép xây dựng giảm từ
68
40% xuống 10%, và thuế nhập khẩu đánh vào các sản phẩm xăng dầu đã được giảm
xuống 0%. Năm 2004, kim ngạch nhập khẩu xăng dầu đạt 3.547 triệu USD và kim ngạch
nhập khẩu các sản phẩm sắt thép đạt 2.572 triệu USD.
153. Trả lời câu hỏi của một Thành viên về việc liệu Việt Nam có ý định điều chỉnh mức
trần của khung thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi MFN theo luật bằng với mức thuế cam
kết ràng buộc trong Biểu Nhân nhượng và Cam kết Hàng hóa kể từ ngày gia nhập không,
đại diện của Việt Nam cho biết Việt Nam không có ý định điều chỉnh mức trần của
khung thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi bằng với mức thuế suất ràng buộc trong Biểu cam
kết Hàng hoá, và mức khung của Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định sẽ tiếp tục được
áp dụng như cơ sở pháp lý trong nước để xác định thuế suất thuế nhập khẩu. Đại diện
của Việt Nam khẳng định những mức thuế suất này sẽ không trái với cam kết và nghĩa
vụ của Việt Nam trong WTO.
154. Một số Thành viên nhấn mạnh quan điểm mong muốn Việt Nam áp dụng thuế phần
trăm hơn là thuế tuyệt đối đối với hàng hóa nhập khẩu bởi thuế phần trăm sẽ minh bạch
và dễ dự đoán hơn đối với các doanh nghiệp. Các thành viên cũng lo ngại rằng bất kỳ sự
chuyển đổi từ thuế suất phần trăm sang thuế tuyệt đối hoặc thuế suất kết hợp không được
vượt quá mức thuế cam kết ràng buộc Việt Nam. Các thành viên ghi nhận giải thích của
Việt Nam về sự cần thiết phải chuyển đổi đối với một số sản phẩm để đối phó với tình
trạng gian lận hải quan. Các thành viên này cho rằng có các biện pháp khác để đối phó có
trọng tâm hơn với tình trạng gian lận hải quan đồng thời giảm thiểu khả năng Việt Nam
phải áp dụng thuế nhập khẩu cao hơn mức cam kết ràng buộc. Mặc dù các Thành viên
ghi nhận Việt Nam có thể vận dụng thủ tục nêu tại Điều XXVIII của Hiệp định GATT
1994, họ lưu ý rằng Việt Nam sẽ phải đàm phán chi tiết và kéo dài với các Thành viên
đồng thời sẽ phải bồi thường cho các thành viên theo quy định tại Điều XXVIII. Các
Thành viên yêu cầu Việt Nam cung cấp danh mục các sản phẩm và dòng thuế có thể áp
dụng thuế tuyệt đối hoặc thuế kết hợp và cam kết rằng nếu Việt Nam quyết định chuyển
đổi một dòng thuế từ thuế phần trăm sang thuế tuyệt đối hoặc thuế suất kết hợp, thì thuế
suất chuyển đổi không được vượt quá thuế suất cam kết ràng buộc của mặt hàng đó.
155. Đại diện của Việt Nam nhấn mạnh lại rằng Việt Nam muốn bảo lưu quyền áp dụng
thuế tuyệt đối và kết hợp đối với một số mặt hàng nhằm đối phó với gian lận hải quan.
Việt Nam khẳng định sẽ cung cấp danh mục các mặt hàng và dòng thuế nhạy cảm có thể
được chuyển đổi cho Ban công tác nghiên cứu. Đại diện Việt Nam khẳng định thêm rằng
nếu một dòng thuế nhập khẩu được chuyển đổi sang thuế tuyệt đối hoặc hỗn hợp, Việt
69
Nam sẽ đảm bảo rằng mức thuế suất mới này sẽ không vượt quá mức Việt Nam đã cam
kết ràng buộc đối với mặt hàng đó. Cuối cùng, Đại diện Việt Nam tuyên bố rằng Việt
Nam hiểu rẳng việc vận dụng Điều XXVIII có thể bao gồm việc dàn xếp bồi thường liên
quan đến các sản phẩm khác. Do đó, Chính phủ Việt Nam sẽ cố gắng hạn chế tối đa khả
năng phải vận dụng các thủ tục nêu tại Điều XXVIII của Hiệp định GATT 1994. Ban
Công tác ghi nhận cam kết cam kết này.
156. Đại diện của Việt Nam cho biết thêm rằng theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu được sửa đổi, bổ sung năm 1998, các đối tác thương mại của Việt Nam chịu thuế
nhập khẩu theo thuế suất ưu đãi đặc biệt, thuế suất MFN (ưu đãi) hoặc thuế suất “thông
thường” (còn được gọi là thuế suất bình thường hay thuế suất phi MFN). “Thuế suất ưu
đãi đặc biệt” áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước mà Việt Nam và nước
đó đã có thỏa thuận ưu đãi thương mại đặc biệt, nghĩa là hiệp định thương mại tự do và
hiệp định thành lập liên minh thuế quan và các hiệp định tạo thuận lợi biên mậu, ví dụ
Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung thực hiện Khu vực Thương mại tự do
ASEAN. Các nước này bao gồm Brunây, Cam-pu-chia, Inđônêxia, Cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào, Malaysia, Miama, Phi-lip-pin, Xing-ga-po và Thái Lan. Thuế suất MFN
(hay là “thuế suất ưu đãi”) áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước có ký
thỏa thuận đối xử tối huệ quốc với Việt Nam (xem Phụ lục 3 của tài liệu
WT/ACC/VNM/36/Add.1), còn thuế suất thông thường áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu
từ các nước khác. Theo Luật này, thuế suất thông thường không cao hơn 170% thuế suất
ưu đãi MFN. Thuế suất thông thường hiện áp dụng thống nhất ở mức tương đương với
150% thuế suất MFN. Đại diện của Việt Nam cho biết thêm rằng thuế suất thông thường
hiếm khi được áp dụng vì Việt Nam đã ký hiệp định thương mại song phương với hầu
hết tất cả các đối tác thương mại. Các quy định chung cũng cho phép Việt Nam đánh
thuế nhập khẩu bổ sung đối với hàng hoá có xuất xứ từ những nước có sự phân biệt đối
xử về thuế nhập khẩu hoặc có những biện pháp phân biệt đối xử khác đối với hàng hóa
của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam chưa từng vận dụng các quy định chung này, và
cũng không có các quy định cụ thể điều chỉnh các trường hợp như vậy nên không thể chỉ
ra được những tiêu chí mà Việt nam sẽ sử dụng để xác định là có sự phân biệt đối xử.
Đại diện của Việt Nam khẳng định rằng sau khi gia nhập WTO, tất cả các biện pháp mà
Việt Nam áp dụng để đối phó với sự phân biệt đối xử sẽ đều phù hợp với các nguyên tắc
quy định trong hiệp định của WTO. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh
Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia ngày 22/5/2002, trong đó qui định Việt Nam
phải tuân thủ các điều khoản về MFN và đối xử quốc gia trong các điều ước quốc tế.
70
157. Mức thuế nhập khẩu cam kết ràng buộc của Việt Nam được nêu tại Biểu Nhân
nhượng và Cam kết về hàng hoá (tài liệu WT/ACC/VNM/[...]) nằm trong phần phụ lục
của Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam.
158. Đại diện của Việt Nam khẳng định ngay từ khi gia nhập, Việt Nam sẽ áp dụng
thuế nhập khẩu trên cơ sở MFN cho tất cả các nước và lãnh thổ hải quan mà Việt Nam
có quan hệ trong khung khổ WTO và sẽ áp dụng quyền tăng thuế nhập khẩu phù hợp với
các quy định của WTO và các cam kết của Việt Nam trong WTO. Ban công tác ghi nhận
cam kết này.
Các loại thuế nhập khẩu khác và phụ thu nhập khẩu
159. Đại diện của Việt Nam cho biết từ tháng 4/1993, Chính phủ đã thành lập Quỹ Bình
ổn giá. Chênh lệch giữa giá trong nước với giá trên thị trường thế giới đối với một số
hàng hoá được theo dõi và phụ thu nhập khẩu được áp dụng trong trường hợp có sự biến
động lớn. Chính phủ quyết định hoặc uỷ quyền cho Trưởng Ban Vật giá Chính phủ quyết
định diện mặt hàng áp dụng phụ thu và mức phụ thu cụ thể. Mức phụ thu thông thường
được áp dụng từ 30% đến 70% mức chênh lệch giá. Số tiền thu được được dùng để bình
ổn giá cả trong nước và bảo vệ sản xuất và tiêu dùng nội địa. Việt Nam không có danh
mục cố định những hàng hoá và dịch vụ thuộc diện được bình ổn giá, nhưng nhìn chung
thì việc bình ổn giá thường được áp dụng đối với những hàng hóa thiết yếu như lúa gạo,
cà phê, cao su, mía, hạt điều, các sản phẩm liên quan đến xăng dầu, sắt thép và phân bón.
Sau năm 1993, phụ thu được áp dụng đối với các mặt hàng nhập khẩu gồm xăng dầu, sắt
thép xây dựng, phân bón DAP và thép tấm.
160. Một số Thành viên đề nghị loại bỏ tất cả các khoản phụ thu ngoài thuế nhập khẩu
đối với hàng nhập khẩu trừ việc áp dụng thuế nội địa phù hợp với Điều III của GATT
1994, thuế nhập khẩu hoặc các loại phí khác nhằm đảm bảo bù đắp chi phí dịch vụ được
cung ứng hoặc các khoản thu khác mà hiệp định WTO cho phép. Do đó các thành viên
yêu cầu Việt Nam cam kết ràng buộc tất cả “các loại thuế nhập khẩu khác và phụ thu
nhập khẩu” (ODCs) theo định nghĩa tại Điều II: 1 (b) của Hiệp định GATT ở mức “bằng
không” trong Biểu Nhân nhượng và Cam kết về Hàng hoá.
161. Đại diện Việt Nam trả lời rằng Việt Nam đã từng bước loại bỏ các biện pháp phi
thuế quan đối với hàng nhập khẩu từ năm 2000 theo chương trình điều chỉnh cơ cấu mở
rộng. Trong một số trường hợp như với xi măng, clinke, đồ gốm sứ, giấy và thép, các
biện pháp phi thuế tạm thời được thay thế bằng phụ thu nhập khẩu. Tuy nhiên, tất cả phụ
71
thu nhập khẩu đã được xóa bỏ từ tháng 12/2004. Các khoản phụ thu nhập khẩu cuối cùng
đối với nhựa PVC và ống thép hàn đã được loại bỏ theo Quyết định số 81/2004/QĐ-BTC
ngày 15/10/2004 và Quyết định số 102/204/QĐ-BTC ngày 27/12/2004.
162. Đại diện của Việt Nam tuyên bố rằng mọi loại thuế nhập khẩu khácvà phụ thu
nhập khẩu áp dụng đối với hàng nhập khẩu ngoài thuế nhập khẩu thông thường và các
khoản phí và lệ phí thu bù đắp dịch vụ được cung ứng sẽ tuân thủ theo các quy định của
WTO kể từ ngày gia nhập. Đại diện của Việt Nam cũng khẳng định Việt Nam đồng ý
ràng buộc thuế nhập khẩu khác và phụ thu nhập khẩu bằng không trong Biểu Nhân
nhượng và Cam kết về Hàng hoá theo Điều II: 1 (b) của Hiệp định GATT 1994. Ban
Công tác ghi nhận các cam kết này.
Hạn ngạch thuế quan, miễn giảm thuế
Hạn ngạch thuế quan
163. Một số Thành viên lo ngại rằng Việt Nam đang dự kiến áp dụng hạn ngạch thuế
quan đối với một số sản phẩm và cho rằng hạn ngạch thuế quan (TRQs) đã trở nên lỗi
thời và gây bóp méo thương mại. Một số Thành viên lưu ý rằng mặc dù hạn ngạch thuế
quan có thể là biện pháp hữu hiệu để đảm bảo tiếp cận thị trường ổn định, tất cả các
thông tin liên quan cần thiết đối với người nộp đơn và người sử dụng sẽ cần phải được
công bố công khai để đảm bảo sự minh bạch. Do đó, nếu các bên thống nhất về các cam
kết liên quan tới hạn ngạch thuế quan thì Việt Nam sẽ được yêu cầu phải cung cấp đầy
đủ mọi thông tin chi tiết về tất cả các cơ chế hạn ngạch thuế quan có hiệu lực, bao gồm
thông tin về thuế suất trong và ngoài hạn ngạch; khối lượng hạn ngạch dự kiến và mức
tăng hàng năm; các số liệu bổ sung về giá trị sản xuất, tiêu dùng trong nước và giá trị
nhập khẩu đối với mỗi sản phẩm liên quan; và Việt Nam cũng sẽ được yêu cầu phải đảm
bảo rằng mọi Thành viên WTO đều được tiếp cận hạn ngạch thuế quan trên cơ sở không
phân biệt đối xử. Các Thành viên lưu ý Việt Nam rằng hệ thống hạn ngạch thuế quan
phải đơn giản, minh bạch, kịp thời, có thể dự đoán được, thống nhất, không phân biệt đối
xử và không mang tính chất hạn chế thương mại, và phải được điều hành theo cách thức
không gây bóp méo thương mại hoặc không được tạo ra những trở ngại vượt quá mức
cần thiết. Chính vì vậy, các Thành viên yêu cầu Việt Nam đưa ra các cam kết cụ thể liên
quan tới việc phân bổ hạn ngạch thuế quan và các khía cạnh khác của cơ chế quản lý hạn
ngạch thuế quan.
72
164. Đại diện Việt Nam trả lời rằng Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định số
91/2003/QĐ-TTg ngày 9 tháng 5 năm 2003, áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với việc
nhập khẩu bông, thuốc lá nguyên liệu, muối, sản phẩm sữa, trứng và ngô. Cơ chế phân
bổ hạn ngạch thuế quan của Việt Nam được quy định tại Quyết định 91/2003/QD-TTg;
Thông tư số 10/2004/TT-BTM ngày 27/12/2004 của Bộ Thương mại hướng dẫn triển
khai Quyết định 91/2003/QD-TTG, như được sửa đối bới Thông tư 04/2005/TT-BTM
ngày 24/3/2005; và Quyết định số 46/2001/QD-TTg ngày 3/3/2005, sau đó được thay thế
bởi Nghị định số 12/2006/ND-CP ngày 23/2/2006. Đại diện cung cấp thông tin về diện
sản phẩm và cơ chế phân bổ TRQs như trong Thông tư 09/2003/TT-BTM ngày
15/12/2003, Phụ lục 4 của tài liệu WT/ACC/VNM/33. Nhập khẩu lá thuốc lá (2401) chịu
mức thuế 30% (15% đối với dòng thuế 24013010) đối với 29.000 MT, và chịu mức thuế
lên tới 100% đối với lượng vượt quá 29.000 MT (80% đối với dòng thuế 24013010).
Trong giai đoạn 1999-2001, trung bình mỗi năm có 29.374 MT sản phẩm thuốc lá đã
được nhập khẩu. Hạn ngạch thuế quan đối với muối (HS 2501) lên đến 200.000 MT và
mức thuế trong hạn ngạch là 10-30%, mức thuế ngoài hạn ngạch là 50 hoặc 60% theo
các dòng thuế. Trong giai đoạn 1999-2001, trung bình mỗi năm có 146.146 MT muối đã
được nhập khẩu và năm 2004 có 130.000MT được nhập. Đối với trứng, mức thuế 40%
được áp dụng cho 30.000 tá hàng nhập khẩu, và mức thuế 80% được áp dụng cho lượng
kim ngạch vượt quá mức 30.000 đó. Trong giai đoạn 1999-2001, trung bình mỗi năm
Việt Nam nhập khẩu 21.300 USD trứng. Đại diện Việt Nam bổ sung rằng hạn ngạch thuế
quan đối với sản phẩm sữa, bông và ngô đã được bãi bỏ vào ngày 01/04/2005 theo Quyết
định số 46/2005/QĐ-TTg ngày 3/3/2005. Hạn ngạch thuế quan đã đang được áp dụng thí
điểm như là một bước trong quá trình nâng cao tiếp cận thị trường và bãi bỏ các biện
pháp phi thuế như cấm nhập khẩu, giấy phép hay hạn ngạch nhập khẩu đối với các mặt
hàng đó.
165. Một số thành viên yêu cầu Việt Nam cân nhắc bãi bỏ TRQ đối với muối vì không
có các sản phẩm phi nông nghiệp khác bị áp dụng TRQ ở Việt Nam khi gia nhập. Đại
diện của Việt Nam lưu ý rằng sản xuất muối liên quan tới người nông dân và do đó được
coi là sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam. Được yêu cầu giải thích thêm lý do vì sao Việt
Nam áp dụng TRQ đối với muối, đại diện Việt Nam lưu ý muối là nguồn thu nhập chính
đối với hàng trăm hoặc hàng nghìn nông dân nghèo sống ở các vùng duyên hải mà việc
sử dụng đất cho nông nghiệp gần như là không thể. Áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với
muối là nhằm đảm bảo công việc và thu nhập ổn định cho những người nông dân này.
Theo quan điểm của đại diện Việt Nam, so với các biện pháp hạn chế nhập khẩu khác
73
như cấp phép không tự động, thì TRQ là biện pháp hiệu quả nhất thực hiện được mục
tiêu này. Khối lượng hạn ngạch thuế quan hàng năm đối với muối được quyết định bởi
Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Bộ Công nghiệp trên cơ sở
sản lượng, nhu cầu đối với muối để sản xuất và chế biến, công suất sản xuất và chế biến,
và tình hình thực hiện TRQ trong năm trước. Theo Nghị định số 86/2003/ND-CP ngày
18/7/2003, các doanh nghệp sử dụng muối trong sản xuất có thể nộp đơn đăng ký với Bộ
Thương mại để xin được phân bổ TRQ. Việc phân bổ căn cứ trên cơ sở công suất sản
xuất, loại nguyên liệu được sử dụng và kết quả nhập khẩu với phương thức "đến trước
cấp trước". Cuối mỗi Quý, các doanh nghiệp nhập khẩu muối theo hệ thống TRQ phải
báo cáo với Bộ Thương mại kết quả nhập khẩu theo TRQ. Biện pháp này nhằm giám sát
việc sử dụng khối lượng TRQ để cho phép tái phân bổ các giấy phép không được sử
dụng bởi vì các số liệu thống kê do Tổng cục Hải quan cung cấp cho Bộ Thương mại
thường không có tính cập nhật. Đại diện Việt Nam khẳng định rằng Bộ Thương mại
không phân bổ TRQ đối với muối cho các nhà sản xuất muối vì mục đích tiêu dùng.
Muối có thể được nhập khẩu trực tiếp theo mức thuế ngoài hạn ngạch bởi các doanh
nghiệp không sử dụng muối cho sản xuất. Trong phần trả lời câu hỏi, đại diện Việt Nam
bổ sung rằng Tổng Công ty Muối hoạt động trên cơ sở cơ chế thị trường, Tổng Công ty
Muối không có bất kỳ vai trò gì trong việc quyết định khối lượng TRQ hoặc phân bổ
hoặc quản lý TRQ và không được hưởng bất kỳ ưu đãi hoặc đặc quyền nào. Tổng Công
ty Muối có khả năng sản xuất muối làm nguyên liệu cho các ngành khác và do đó có
quyền đăng ký để được phân bổ TRQ để sử dụng trong sản xuất (xem thêm đoạn 70).
166. Lưu ý rằng hạn ngạch thuế quan không được phân bổ cho các nhà sản xuất nếu
mục đích cuối cùng lại là phục vụ cho tiêu dùng, một Thành viên đề nghị rằng cần tách
riêng muối dùng phục vụ cho tiêu dùng ra khỏi cam kết về hạn ngạch thuế quan muối và
chỉ chịu sự điều chỉnh của các cam kết thuế.
167. Liên quan đến mặt hàng đường, đại diện của Việt nam cho biết thêm rằng việc nhập
khẩu đường sẽ chịu sự điều chỉnh của giấy phép tuỳ ý do Bộ Thương mại cấp theo Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ số 46/2001/QD-TTG ngày 4 tháng 4 năm 2001. Đại diện
Việt Nam cho biết mía được trồng ở các khu vực địa bàn khó khăn với điều kiện tự nhiên
bất lợi và việc xen canh với các loại cây trồng khác khó thực hiện. Tuy nhiên, Chính phủ
sẽ cam kết thay thế cấp phép tuỳ ý bằng cơ chế hạn ngạch thuế quan kể từ ngày gia nhập.
Đại diện của Việt nam cũng khẳng định thêm rằng Việt nam sẽ áp dụng và quản lý hạn
74
ngạch thuế quan tuân thủ các luật và quy định hiện hành của WTO, bao gồm các điều
khoản đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia của GATT 1994.
168. Một thành viên nêu lên quan ngại về đề xuất của Việt Nam trong việc sử dụng đấu
thầu như một biện pháp phân bổ hạn ngạch thuế quan. Theo quan điểm của Thành viên
này, đấu thầu hạn ngạch thuế quan là trái với một số điều khoản của WTO bao gồm các
Điều II, X và XI của GATT 1994 và Điều 4 của Hiệp định Nông nghiệp, vì cam kết về
thuế trong hạn ngạch có thể bị vi phạm khi áp dụng thuế bổ sung. Giá đấu thầu là giá tối
thiểu mà người mua hàng nhập khẩu phải trả, các tiêu chuẩn thích hợp về minh bạch hoá
và có thể dự đoán đối với các điều khoản nhập khẩu không được đáp ứng, và bất kỳ giá
khởi điểm nào cũng có thể là giá nhập khẩu tối thiểu. Thành viên này còn tỏ ý lo ngại về
các giấy phép không tự động liên quan đến phân bổ hay các hình thức quản lý khác đối
với hạn ngạch thuế quan có thể tạo ra các hạn chế hay bóp méo thương mại đối với hàng
nhập khẩu ngoài những tác động hạn chế định lương gây ra bởi hạn ngạch thuế quan, trái
với các điều khoản của Hiệp định về Thủ tục giấy phép nhập khẩu. Một thành viên khác
lưu ý rằng các nhà nhập khẩu được Chính phủ chỉ định theo phương pháp phân bổ B.
Thành viên này cho rằng việc phân bổ hạn ngạch thuế quan của Nhà nước là không phù
hợp với tính minh bạch và có thể dự đoán trong quản lý hạn ngạch thuế quan và bên
nhượng bộ thuế quan không thể trở thành bên quyết định không thể quyết định dành cho
ai, với số lượng bao nhiêu hạn ngạch thuế quan được phân bổ. Thành viên này đề nghị
Việt Nam thay thế phương pháp quản lý này bằng một phương pháp khác.
169. Một Thành viên cũng lo ngại về một số yêu cầu của Việt Nam: gắn lượng hạn
ngạch thuế quan được phân bổ theo mức sản xuất trong nước và xuất khẩu của mỗi nhà
nhập khẩu - trái với ngăn cấm của WTO đối với các biện pháp này theo Điều XI của
GATT 1994, Điều 4 của Hiệp định Nông nghiệp và Điều 2 của Hiệp định về các Biện
pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại; phân bổ hạn ngạch thuế quan theo sự phê duyệt
của Chính phủ về kế hoạch nhập khẩu - trái với Điều XI của GATT 1994 và Điều 4 của
Hiệp định Nông nghiệp; phân bổ hạn ngạch thuế quan với điều kiện nhà nhập khẩu chỉ
sử dụng lượng hàng nhập khẩu cho hoạt động sản xuất của họ - trái với Điều III và XI
của GATT 1994 và Điều 4 của Hiệp định Nông nghiệp, và nhà nhập khẩu bị hạn chế việc
bán lại ở trong nước các sản phẩm nhập khẩu theo hạn ngạch - trái với Điều III của
GATT 1994; không cho phép các thương nhân không có đăng ký kinh doanh loại hình cụ
thể nào được quyền là nhà nhập khẩu đứng tên liên quan tới hàng hoá được nhập khẩu
theo hạn ngạch hoặc được nắm giữ hạn ngạch - trái với Điều III và XI của GATT 1994;
75
yêu cầu người nắm giữ hạn ngạch phải gửi thông báo hàng quý về tình hình sử dụng hạn
ngạch lên Bộ Thương mại (trong khi dữ liệu này đã được thông báo lên Chính phủ thông
qua thống kê hải quan) - trái với Điều XI của GATT 1994 và Điều 4 của Hiệp định Nông
nghiệp; và cấm mua, bán, chuyển nhượng hạn ngạch cho người khác - trái với Điều XI
của GATT 1994 và Điều 4 của Hiệp định Nông nghiệp. Thành viên này yêu cầu Việt
Nam phân bổ hạn ngạch thuế quan phù hợp với các quy định của WTO ngay từ khi gia
nhập. Việt Nam cũng được đề nghị làm rõ việc những nguyên liệu được nhập khẩu theo
một hạn ngạch thuế quan và sau đó được xuất khẩu theo chương trình hoàn thuế có tính
vào việc thực hiện hạn ngạch thuế quan hay không.
170. Đáp lại, đại diện của Việt Nam cho biết Việt Nam đã cân nhắc hạn chế phạm vi của
các sản phẩm quản lý bằng hạn ngạch thuế quan và hạn chế việc áp dụng hạn ngạch thuế
quan ở mức tối thiểu. TRQ đối với muối, thuốc lá sợi chưa qua chế biến và trứng được
quản lý theo Thông tư số 04/2006/TM-BTM ngày 6/4/2006 của Bộ Thương mại hướng
dẫn thi hành Nghị định Chính phủ số 12/2006/ND-CP ngày 23/1/2006. Thông tư số
04/2006/TT-BTM quy định ba phương pháp phân bổ TRQ. Phương pháp A theo dự đoán
việc phân bổ hạn ngạch cho người sử dụng cuối cùng. Theo phương pháp phân bổ B, nhà
nhập khẩu được Chính phủ chỉ định. Đại diện của Việt Nam lưu ý rằng phương pháp này
chỉ áp dụng cho thuốc lá nguyên liệu chưa qua chế biến (HS2401). Theo phương pháp C,
hạn ngạch được phân bổ trên cơ sở tình hình thực hiện ký trước. Đại diện Việt Nam lưu
ý rằng pháp luật hiện hành không đề cập tới đấu giá như một phương pháp phân bổ TRQ
và ba phương pháp phân bổ TRQ mà Việt Nam đề xuất đã được các thành viên nhất trí
và đã được nêu rõ trong Biểu cam kết về Hàng hoá (WT/ACC/VNM/[...]) không hề bao
gồm việc đấu giá. Đại diện khẳng định rằng cơ chế cấp phép được sử dụng để phân bổ
TRQ không tuân thủ các nguyên tắc của WTO, bao gồm Hiệp định về các thủ tục cấp
phép nhập khẩu. Phân bổ hạn ngạch cần được thực hiện theo Biểu cam kết về hàng hoá
của Việt Nam (Tài liệu WT/ACC/VNM/[...]).
171. Trong trường hợp thuốc lá nguyên liệu chưa chế biến, theo thực tế hiện nay, việc
nhập khẩu là thuộc thương mại nhà nước: hạn ngạch nhập khẩu được Chính phủ phân bổ
cho các đơn vị hoặc nhóm sản xuất. Theo hệ thống mới có hiệu lực từ ngày gia nhập,
một hạn ngạch thuế quan đã được thiết lập. Chính phủ sử dụng phương pháp B sẽ chỉ
định các nhà sản xuất trong nước hiện hành là nhà nhập khẩu, và việc phân bổ TRQ sẽ
được thực hiện theo tỷ lệ hạn ngạch sản xuất trong nước của mỗi nhà sản xuất đối với
các sản phẩm thuốc lá. Những công ty này được tự do nhập khẩu thuốc lá nguyên liệu bổ
76
sung ở mức thuế ngoài hạn ngạch. Thuốc lá nguyên liệu để sản xuất và xuất khẩu được
áp dụng cơ chế hoàn thuế của Việt Nam và sẽ được miễn thuế nhập khẩu nếu việc xuất
khẩu liên quan được thực hiện trong vòng hai tháng.
172. Đại diện của Việt Nam bổ sung rằng việc phân bổ TRQ cho các doanh nghiệp có
các hoạt động thương mại tuân thủ các chính sách quản lý nhập khẩu hiện hành của Việt
Nam. Đại diện có ý kiến rằng quy định này không vi phạm các nguyên tắc của WTO vì
doanh nghiệp được tự do trong việc đăng ký các hoạt động và lĩnh vực kinh doanh của
mình. đặc biệt, việc chỉ định các nhà sản xuất thuốc lá làm các nhà nhập khẩu độc quyền
nguyên liệu thuốc lá chưa qua chế biến hỗ trợ cho các nỗ lực dài hạn của Việt Nam để
điều tiết tiêu thụ thuốc lá và kìm chế sản xuất các sản phẩm thuốc lá khác ngoài hạn
ngạch sản xuất được cho phép. Đối với quy định đòi hỏi doanh nghiệp gửi báo cáovề
việc thực hiện nhâp khẩu TRQ cho Bộ Thương mại hàng quý, quy định này nhằm
đảmbảo thông tin xác thực và cập nhật để giúp cơ quan quản lý điều chỉnh TRQ khi
doanh nghiệp cần thiết. đại diện bày tỏ quan điểm rằng các quy định của Việt Nam về
phân bổ và quản lý hạn ngạch là phù hợp với các nguyên tắc và quy định của WTO. Đại
diện cũng lưu ý rằng Việt Nam đã cam kết loại bỏ tất cả các hạn chế nhập khẩu định
lượng ngay khi gia nhập và hạn chế số lượng các mặt hàng áp dụng TRQ.
173. Một thành viên cũng yêu cầu Việt Nam giải thích rõ những nguyên liệu được nhập
khẩu theo TRQ và sau đó xuất khẩu theo chương trình hoàn thuế có trừ vào TRQ hay
không. Đại diên của Việt Nam lưu ý rằng các nhà thương mại có thể hoặc xin áp dụng
hạn ngạch thuế quan hoặc nhập khẩu hàng hoá trực tiếp. Các nhà thương mại có thể,
trong cả hai trường hợp hưởng lợi từ việc hoàn thuế (xem thêm đoạn 281). Đại diện bổ
sung rằng hàng hoá được nhập khẩu theo TRQ và sau đó xuất khẩu không tính vào TRQ.
174. Đại diện của Việt Nam xác nhận, kể từ ngày gia nhập, Việt Nam sẽ áp dụng, phân
bổ và quản lý hạn ngạch thuế quan một cách minh bạch, không phân biệt đối xử phù hợp
với các Hiệp định, bao gồm Điều I, II, III, VIII, X, XI và XIII của GATT 1994, Điều 4
của Hiệp định Nông nghiệp, Điều 2 của Hiệp định về các biện pháp Đầu tư liên quan đến
Thương mại, và Hiệp định về các thủ tục cấp phép nhập khẩu. Ban công tác ghi nhận
cam kết này.
Miễn thuế nhập khẩu
175. Đại diện của Việt Nam cho biết theo Luật thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu số
45/2005/QH11 tháng 6/2005, hàng hoá thuộc diện miễn thuế nhập khẩu bao gồm: (i)
77
hàng hoá vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua cửa khẩu biên giới Việt Nam; (ii)
hàng hoá chuyển khẩu; (iii) hàng hoá viện trợ nhân đạo, hàng hoá viện trợ không hoàn
lại; (iv) hàng hoá tạm nhập, tái xuất hoặc tạm xuất tái nhập để tham dự hội chợ, triển
lãm, giới thiệu sản phẩm; (v) máy móc, thiết bị, dụng cụ nghề nghiệp tạm nhập, tái xuất
hoặc tạm xuất tái nhập để phục vụ công việc trong thời hạn nhất định; (vi) hàng hoá là tài
sản di chuyển; (vii) hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của tổ chức, cá nhân nước ngoài
được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao tại Việt Nam theo định mức do Chính phủ
quy định phù hợp với điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên; (viii) hàng hoá nhập khẩu để gia công cho nước ngoài rồi xuất khẩu hoặc hàng hoá
xuất khẩu cho nước ngoài để gia công cho Việt Nam rồi tái nhập khẩu theo hợp đồng gia
công; (ix) hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế của người
xuất cảnh, nhập cảnh do Chính phủ quy định; (x) hàng hoá nhập khẩu để tạo tài sản cố
định của Dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); (xi) hàng hoá
nhập khẩu để phục vụ hoạt động dầu khí; (xii) hàng hoá nhập khẩu để sử dụng trực tiếp
vào hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; (xiii) nguyên liệu, vật tư,
linh kiện nhập khẩu để sản xuất của dự án thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư
hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn (miễn thuế trong thời hạn năm
năm, kể từ khi bắt đầu sản xuất); (xiv) hàng hoá nhập khẩu chuyên dùng phục vụ quốc
phòng và an ninh, giáo dục và đào tạo; và (xv) hàng hoá là quà biếu quà tặng, hàng mẫu
của tổ chức, cá nhân nước ngoài cho tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc ngược lại. Theo
Luật mới, nhà nhập khẩu làm đơn xin miễn khoản thuế nhập khẩu mà họ được hưởng khi
nhập khẩu hàng. Cơ quan hải quan sẽ xử lý đơn xin miễn thuế đó. Đại diện của Việt Nam
khẳng định rằng việc miễn thuế nhập khẩu đề cập tại đoạn này không dựa trên thành tích
xuất khẩu, tỷ lệ xuất khẩu hay yêu cầu về hàm lượng nội địa hoá.
176. Đáp lại một câu hỏi cụ thể, đại diện của Việt Nam bổ sung thêm rằng Việt Nam
chưa ký thoả thuận nào với Campuchia về tạo thuận lợi cho thương mại biên giới. Theo
Quyết định số 0724/99/QĐ/BTM ngày 8 tháng 6 năm 1999, các giao dịch biên giới do
người cư trú địa phương tiến hành có giá trị lên tới 500.000 đồng (khoảng US$35) đối
với mỗi chuyến một ngày được miễn thuế nhập khẩu. Phần giá trị cao hơn mức đó sẽ
phải chịu mức thuế nhập khẩu thông thường. Hàng hoá đã được các doanh nghiệp làm
thủ tục hải quan là hàng hoá mang tính thương mại và do đó chịu thuế như thông thường.
Các nguyên tắc này cũng được áp dụng đối với biên giới với Lào và Trung Quốc.
78
177. Đại diện của Việt Nam khẳng định rằng ngay khi gia nhập, Việt Nam sẽ áp dụng
việc miễn và giảm thuế nhập khẩu đảm bảo nguyên tắc đối xử tối huệ quốc MFN đối với
hàng nhập khẩu. Đại diện của Việt Nam cũng khẳng định rằng, không làm tổn hại đến
cam kết của Việt Nam tại phần trợ cấp (xem đoạn 286 và 288), Việt Nam sẽ không miễn
và giảm thuế nhập khẩu dựa trên thành tích xuất khẩu, tỷ lệ xuất khẩu, hay các yêu cầu
về hàm lượng nội địa hoá. Ban Công tác ghi nhận cam kết này.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |