BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠng quốc gia tiếp thị XÃ HỘi vớI việc bổ sung sắt cho phụ NỮ CÓ thai dân tộc mưỜng ở HÒa bìNH


Mô hình tiếp thị xã hội vận động phụ nữ có thai dân tộc Mường tự mua và uống viên sắt



tải về 1.49 Mb.
trang28/34
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích1.49 Mb.
#20006
1   ...   24   25   26   27   28   29   30   31   ...   34

Mô hình tiếp thị xã hội vận động phụ nữ có thai dân tộc Mường tự mua và uống viên sắt

  1. Hiệu quả của mô hình can thiệp đến phụ nữ có thai

    1. Hiệu quả đến kiến thức, thực hành của phụ nữ có thai


Sự cải thiện về kiến thức về chăm sóc thai của nhóm can thiệp là không khác biệt nhiều vì nhìn chung độ mức độ hiểu biết từ ban đầu đã là khá tốt (trên 90%), do đó khó có thể tăng lên được nữa. Các thực hành về chăm sóc thai (khám thai, ăn uống và nghỉ ngơi) cũng gần như không có cải thiện, tuy nhiên đây cũng không phải là kết quả mong đợi về hiệu quả trực tiếp của can thiệp tiếp thị xã hội về bổ sung sắt cho PNCT. Chỉ có thể nhận xét rằng những thực hành này có những rào cản nhất định mà can thiệp bằng truyền thông vẫn chưa đủ để có thể chuyển từ kiến thức thành thực hành.

Việc cải thiện kiến thức và thực hành về phòng chống thiếu máu và viên sắt ở nhóm can thiệp có cải thiện rõ rệt khi so sánh trước, sau và so sánh với nhóm chứng. Chỉ số hiệu quả can thiệp thực về mặt kiến thức cho thấy kiến thức được cải thiện rõ nhất ở những thông điệp mà can thiệp tập trung đến như thời điểm cần uống viên sắt, tác dụng của viên sắt và các biện pháp nhằm tăng cường hấp thu sắt. Điều đó thể hiện rõ ảnh hưởng của can thiệp lên kiến thức, nhất là khi mức độ kiến thức ở cộng đồng đã ở mức khá ở đầu can thiệp thì các thông điệp và phương thức truyền thông cần thiết kế phù hợp và dựa trên bằng chứng thì mới đạt được sự cải thiện hơn nữa. Tỷ lệ PNCT ở xã can thiệp đã từng uống viên sắt (92,4%) và hiện tại duy trì được hành vi đó khá cao (89,9%) trong khi ở nhóm chứng mặc dù có độ bao phủ gần tương đương (85,4%) nhưng khả năng duy trì kém hơn (69,8%). Chỉ số hiệu quả can thiệp thực về mặt thực hành cho thấy do thực hành uống viên sắt của PNCT trên địa bàn nghiên cứu đã ở mức cao và có cải thiện chung nhờ các chương trình y tế quốc gia nên ảnh hưởng của can thiệp đến thực hành uống viên sắt chỉ có 1,5% (nhóm can thiệp tăng 30,7% và nhóm chứng tăng 29,2%), tuy nhiên điểm lưu ý là sự tuân thủ (uống viên sắt hàng ngày) có chỉ số can thiệp hiệu quả thực là 20,6% và việc đối tượng từ chỗ quan niệm là viên sắt cần được trợ cấp thì nay sẵn sàng mua hoặc mua với giá thấp (phù hợp với giải pháp tiếp thị xã hội) có chỉ số hiệu quả thực lên đến 24,5%. Điều đó cho thấy can thiệp đã đạt được đích cuối cùng là thay đổi cả hành vi của đối tượng với phòng chống thiếu máu do thiếu sắt theo cách tiếp cận tiếp thị xã hội. Theo lý thuyết về truyền thông thay đổi hành vi thì hành vi này có thể được coi là đã trở thành “chuẩn mực của cộng đồng” (norm) [104].

Vào năm 2000, WHO cũng đã tiến hành một nghiên cứu trên 3 quốc gia trong đó có Việt Nam [45], [81], [118] với mục tiêu chính là đánh giá hiệu quả của bổ sung sắt theo liều hàng tuần so với hàng ngày trên PNCT và phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ và tiếp thị xã hội chỉ được coi là một trong những giải pháp để tính đến khả năng có thể áp dụng bổ sung sắt trên phạm vi rộng hơn hoặc duy trì mô hình này. Nghiên cứu đó làm trên vùng đồng bằng với điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội khá thuận tiện cho việc triển khai các can thiệp, đầu tư cho hoạt động lớn, thời gian kéo dài một năm. Viên sắt được sản xuất riêng cho can thiệp, tuy nhiên việc đó cũng phải cần bàn luận thêm vì tính duy trì sau khi hết can thiệp. Viên sắt được trợ giá cho phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ và phát miễn phí cho PNCT. Kết quả cho thấy trong thời gian can thiệp tỷ lệ mua và sử dụng viên sắt của phụ nữ không có thai đạt từ 55 đến 92% (tại thời điểm kết thúc dưới 80%), tỷ lệ uống viên sắt miễn phí của PNCT gần 100%. Kiến thức của đối tượng về thiếu máu thiếu sắt có được cải thiện sau can thiệp tuy nhiên không có nhóm chứng so sánh (có sự cải thiện về: biết về bệnh thiếu máu, biết nguyên nhân của thiếu máu, biết ảnh hưởng của thiếu máu đến sức khoẻ, biết việc bổ sung sắt có thể phòng chống thiếu máu). Mô hình này không đánh giá hiệu quả can thiệp đến tình trạng dinh dưỡng và khẩu phần thực tế mà chỉ đánh giá tình trạng thiếu máu do đây chỉ là một cấu phần nhỏ trong nghiên cứu tổng thể về thiếu máu thiếu sắt chứ không phải một mô hình tiếp thị xã hội độc lập.

Chương trình sau đó được tiếp tục được mở rộng thêm ở huyện Bình Giang (Hải dương). Ở giai đoạn 2 này của chương trình với việc sử dụng viên sắt sản xuất trong nước, tỷ lệ bao phủ của mua và sử dụng viên sắt ở phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ ở hai huyện này từ 42 đến 65% [81]. Hạn chế của nghiên cứu của WHO [81] theo phân tích 4 thành tố của tiếp thị:



  • Sản phẩm: Ở giai đoạn 1, viên sắt không phải loại sẵn có trên thị trường (được sản xuất ở Phillippines). Sau khi giai đoạn 1 kết thúc, nguồn viên sắt này không còn nữa nên chương trình chuyển sang sử dụng nguồn viên sắt trong nước, như thế đã tạo nên sự không liên tục về hình ảnh sản phẩm mà chương trình đã cố gắng tạo dựng trong giai đoạn 1 về Bổ huyết hoa hồng. Thuốc ở giai đoạn 2 là loại viên nén (do hạn chế của công nghệ nên lựa chọn sản phẩm này tại thời điểm đó), đóng vỉ 30 viên, giá rẻ để người dân có thể mua được, về công thức thì tương tự như loại nhập khẩu ở giai đoạn 1 nhưng chương trình không đánh giá sự chấp nhận của đối tượng đích và tác dụng phụ (thường thấy nhiều ở loại viên nén hơn so với viên nang). Không đảm bảo nguồn cung của sản phẩm là một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của các chương trình bổ sung sắt trước đây như đã được tổng kết [67]. Mục đích chính của tiếp thị xã hội là thay đổi hành vi thì trong mô hình này, chưa đưa ra sản phẩm chính là sự thay đổi hành vi của đối tượng đích và đo lường nó.

  • Địa điểm: kênh phân phối ở giai đoạn 1 là cán bộ hội phụ nữ với phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ và cán bộ y tế với PNCT. Có thể nói hội phụ nữ là kênh tiếp cận tốt nhất đến phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ nếu tiếp tục duy trì được. Tuy nhiên, trình độ chuyên môn y tế của họ hạn chế nên các dịch vụ kèm theo cũng như việc tư vấn cho đối tượng khó đảm bảo. Đến giai đoạn 2, khi không còn sự hỗ trợ của chương trình thì kênh này bị bỏ đi, lúc đó họ chỉ còn đóng vai trò vận động, tất cả lại chuyển về trạm y tế, tạo nên sự không liên tục và nhất quán của chương trình, việc vận hành chương trình gần như phải xây dựng lại mới chứ không phải là tiếp tục duy trì và mở rộng. Như vậy, có thể nói, việc thiếu chủ động trong lập kế hoạch ngay từ ban đầu cho giai đoạn 1 và giai đoạn 2 (do ảnh hưởng từ nguồn tài trợ) đã không đảm bảo được khả năng duy trì mô hình.

  • Giá cả: Với PNCT, viên sắt được cấp phát miễn phí nên không thể so sánh được với nghiên cứu này. Với phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ, giai đoạn 1 viên sắt được trợ giá đến 3/4 và kinh phí thu được 20% chi cho người bán, 30% chi cho quản lý, 50% giữ để quay vòng cho giai đoạn 2. Ở giai đoạn 2, thuốc được trạm y tế mua và bán cho người sử dụng, người bán không được hưởng lợi gì. Như vậy, quỹ vốn dành cho việc quay vòng thuốc không sinh lợi mà giảm đi, người bán cũng không có lợi ích và do đó không khuyến khích để có động lực để tham gia.

  • Xúc tiến: các hoạt động xúc tiến được tổ chức khá rầm rộ vào giai đoạn 1 khi nguồn kinh phí tài trợ lớn nhưng không có duy trì hoặc ở mức độ hạn chế, không có theo dõi giám sát chặt chẽ ở giai đoạn 2, không có đánh giá lại, điều đó có khả năng ảnh hưởng đến sự bền vững của mô hình.

Những vấn đề đó đã được khắc phục và đem lại hiệu quả hơn cho mô hình chúng tôi thực hiện ở Hòa Bình triển khai cho đồng bào Mường.

        1. Каталог: FileUpload -> Documents
          Documents -> BỘ khoa học và CÔng nghệ
          Documents -> HÀ NỘI – 2013 BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠNG
          Documents -> Phụ lục về cấp hạng khách quốc tế
          Documents -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam qcvn 01 78: 2011/bnnptnt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia thứC Ăn chăn nuôi các chỉ tiêu vệ sinh an toàn và MỨc giới hạn tốI Đa cho phép trong thứC Ăn chăn nuôI
          Documents -> TỔng cục dạy nghề
          Documents -> BỘ giáo dụC ĐÀo tạo bộ y tế viện dinh dưỠng nguyễn thị thanh hưƠng thực trạng và giải pháP
          Documents -> Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé y tÕ ViÖn dinh d­ìng Ph¹m hoµng h­ng HiÖu qu¶ cña truyÒn th ng tÝch cùc ®Õn ®a d¹ng ho¸ b÷a ¨n vµ
          Documents -> TỜ khai xác nhận viện trợ HÀng hóA, DỊch vụ trong nưỚC
          Documents -> Phụ lục I mẫU ĐƠN ĐỀ nghị ĐĂng ký LƯu hàNH

          tải về 1.49 Mb.

          Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   24   25   26   27   28   29   30   31   ...   34




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương