1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)


PHÉP LẠ TẠI OLMUTZ, NƯỚC TIỆP KHẮC



tải về 0.77 Mb.
trang3/11
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích0.77 Mb.
#8592
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

6. PHÉP LẠ TẠI OLMUTZ, NƯỚC TIỆP KHẮC

Năm 1242

(Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 9, Regina xb, USA, 2002) 

Trong thế kỷ XIII, khi người Tartar đang xâm lấn nhiều quốc gia, gieo rắc sự tàn bạo và hủy diệt, tướng Jaroslas xứ Sternberg đảm nhận công cuộc bảo vệ vương quốc Moravia trước nguy cơ sắp bị tấn công. Qui tụ được đạo quân 8000 người từ Bohemia và 4000 công dân Moravia, tướng Jaroslas đã đồn trú tại thành phố Olmütz kiên cố.

Địch quân lập tức kéo đến lãnh địa này và bắt đầu đốt phá các làng mạc, tàn sát tất cả những ai chống đối, ngay cả tu viện Gradie cũng không được tha. Sau khi đã chặt đầu các tu sĩ sống bên trong tu viện, quân Tartar đã thiêu rụi bình địa các tòa nhà. Sau đó, cột thủ cấp của các tu sĩ vào đuôi ngựa, chúng trâng tráo kéo đến thành phố và đóng quân ngay dưới cổng thành Olmütz.

Căm phẫn trước cảnh tượng ấy, quân binh của Jaroslas muốn tấn công lập tức; nhưng họ đã bị chủ tướng kiềm lại vì cho rằng phải chờ đợi một thời cơ tốt hơn mới tiến công quân thù. Tưởng sự trì hoãn ấy là dấu hiệu sự nhát đảm, quân Tartar lơi lỏng cảnh giác, nhiều kẻ bỏ doanh trại khi cướp phá tại các làng quê.

Vào ngày lễ thánh Gioan Tẩy Giả, tướng Jaroslas khiêm nhượng xưng tội và lãnh nhận bí tích Thánh Thể. Theo gương sáng của ông, các binh sĩ cũng lãnh nhận các bí tích, chuẩn bị cho trận đánh được dự trù vào đêm hôm sau.

Chỉ một ít quân ở lại hậu tuyến để bảo vệ thành phố OlmÜtz, còn lại tất cả binh sĩ đều tập trung bên ngoài các cổng thành ngay sau nửa đêm để chuẩn bị trận đánh. Một lần nữa, các binh sĩ lại noi gương chủ soái, xuống ngựa và quì gối xuống đất. Khi mọi binh sĩ đã quì gối, Jaroslas dâng lời nguyện cầu lên Mẹ Thiên Chúa và hứa sẽ xây cất một thánh đường để tôn vinh Mẹ nếu như thắng trận. Sau khi cất tiếng tung hô Ave Maria, các binh sĩ lên ngựa ra khỏi đồn để xông đánh quân thù.

Không những xuất chinh dưới sự bảo trợ của Mẹ Thiên Chúa, quân đội Công Giáo còn được mạnh mẽ thêm nhờ sự hiện diện thực sự của Thánh Thể Đấng Cứu Độ. Năm Bánh Thánh đã được giữ lại sau khi các binh sĩ hiệp lễ ngày hôm trước. Jaroslas cho đặt các Bánh Thánh vào một bình thánh và nhờ một linh mục cỡi ngựa mang vào trận chiến. Jaroslas so sánh trận đánh này với biến cố Cựu Ước, theo lệnh Thiên Chúa, hòm bia giao ước đã được quân Israel mang vào trận chiến (Jos. 6).

Dưới bóng đêm bao trùm, trận chiến đã diễn ra đẫm máu và số tử thương rất cao. Chủ soái quân Tartar bị giết chết và quân thù bị đánh tan tành, quân binh Công Giáo thắng trận vẻ vang. Kinh hoàng vì số quân tử trận quá đông và hoảng loạn vì chủ soái đã chết, người Tartar bỏ Moravia và trốn chạy về Hungary để chỉnh đốn hòng tiếp tục các cuộc chiến hủy diệt của chúng.

Cuộc chiến thắng quân Tartar được tôn nhận là do sự hiện diện của Thánh Thể ở chiến trường – nhưng đây chỉ mới là một phần của phép lạ mà thành phố Olmütz tự hào mà thôi.



Sau cuộc chiến, khi đem các Bánh Thánh trả về nhà thờ, vị linh mục sững sờ khi thấy mỗi Bánh Thánh đều tỏa ra một hào quang màu hồng chung quanh. Khi ngài trình bày sự kiện này với cộng đoàn, mọi người đã chúc tụng Thiên Chúa toàn năng về cuộc vinh thắng và về dấu lạ chứng tỏ quyền năng và vinh quang của Người.

 

7 và 8. Hai PHÉP LẠ THÁNH THỂ TẠI REGENSBURG (NAM ĐỨC)


Năm 1255 và 1257

(Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 10, Regina xb, USA, 2002) 

Đã nhiều năm qua, tại thành phố Regensburg (trước kia có tên là Ratisbon) có hai nguyện đường mang tên Đấng Cứu Thế, và cả hai đều có những lịch sử kỳ diệu liên quan đến bí tích Thánh Thể.

1- Ngôi nguyện đường cổ xưa hơn được xây dựng vào năm 1255. Vào ngày 25 tháng 3 năm ấy, nhằm thứ Năm tuần Thánh, một linh mục tên là Dompfarer Ulrich von Dornberg theo lịch trình sẽ kiệu Thánh Thể cho các bệnh nhân trong giáo xứ. Khi đến một dòng suối nhỏ có tên là Bachgasse, vị linh mục cẩn thận bước lên miếng ván hẹp bắc qua dòng nước, nhưng ngài bị trượt chân và đánh rơi bình thánh đang mang theo. Các Bánh Thánh rơi ra khỏi bình và rớt trên bờ suối, khó khăn lắm vị linh mục mới nhặt hết lên được.

Khi hay tin, các bổn đạo trong xứ đã quyết định xây một nhà nguyện tại bờ suối, nơi các Bánh Thánh đã bị rơi bẩn để đền tạ sự bất kính đối với bí tích Thánh Thể – mặc dù sự cố xảy ra ngoài ý muốn. Việc xây dựng khởi công ngay hôm ấy và ngôi nguyện đường bằng gỗ đã được hoàn tất ba ngày sau, tức ngày 28 tháng 3. Đức giám mục Albert của giáo phận Regensburg đặt tên cho kiến trúc bằng gỗ nhỏ bé ấy là nguyện đường Đấng Cứu Thế và làm phép vào ngày 8 tháng 9 năm 1255. Phép lạ Regensburg đã xảy ra tại ngôi nguyện đường này hai năm sau đó.

Kể từ sau khi nhà nguyện được thánh hiến, các tín hữu Công Giáo kéo đến đông đảo kính viếng nhà nguyện. Có lẽ chính vì lòng đạo đức tôn kính Mình Thánh Chúa của các tín hữu Regensburg mà Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể đã làm một phép lạ.

2- Phép lạ xảy ra năm 1257 như dấu chứng khẳng định Đức Tin của các tín hữu Công Giáo đối với bí tích Tình Yêu Nhiệm Mầu. Câu chuyện diễn tiến như sau.
Một Linh Mục đến dâng Thánh Lễ nơi nhà nguyện. Vào lúc đọc lời truyền phép rượu, vị Linh Mục bỗng đâm ra nghi ngờ. Ngài phân vân tự hỏi:
- Làm sao lời do người phàm đọc lại có sức nhiệm mầu biến đổi rượu thành Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ được?
Tâm hồn vị Linh Mục thật sự bị bấn loạn bởi tư tưởng gây hoang mang cho niềm tin tuyệt đối vào sự hiện diện đích thật của Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể. Trong lúc do dự và không giơ cao Chén Thánh cho giáo dân thờ lạy thì vị Linh Mục bỗng nghe tiếng động nhẹ từ phía Cây Thánh Giá bên trên Nhà Tạm. Đôi tay của tượng Đức Chúa GIÊSU chịu đóng đanh từ từ tiến về phía vị Chủ Tế và giật lấy Chén Thánh giơ cao cho tín hữu thờ lạy Máu Thánh Chúa.
Trước phép lạ tỏ tường, vị Linh Mục liền quì sụp xuống. Niềm nghi nan giờ đây nhường chỗ cho nỗi lo âu kinh hoàng, cùng lúc nẩy sinh Đức Tin không lay chuyển. Vị Linh Mục khiêm tốn xưng thú lỗi lầm, công khai xin tha thứ và cảm động khóc ròng. Như dấu hiệu chứng nhận lòng thống hối và đức khiêm tốn của vị Linh Mục, Chúa GIÊSU Cứu Thế hạ đôi tay xuống và đặt Chén Thánh vào đôi tay vị Linh Mục.
Kể từ sau phép lạ Thánh Thể, nhà nguyện trở thành nơi hành hương dấu ái của các tín hữu Công Giáo thành Regensburg cũng như của toàn nước Đức. Mỗi lần đến kính viếng nhà nguyện, các tín hữu thường quảng đại dâng cúng tiền bạc cũng như lễ vật.
Vào năm 1267, một tu viện đã được xây dựng cạnh bên nguyện đường bằng đá. Tu viện này được trao cho các đan sĩ dòng thánh Augustine và được các vị soi sóc cho đến năm 1803.

Lịch sử ngôi nguyện đường thứ hai mang tên Đấng Cứu Thế tại Regensburg khởi đầu vào năm 1476, khi một thiếu niên 13 tuổi đánh cắp một bình thánh đựng nhiều Bánh Thánh. Trong khi chạy xuống phố, cậu ta đã ném các Bánh Thánh vào một ngôi nhà. Khi tìm thấy các Bánh Thánh, người ta đã lượm lên hết sức cung kính và tổ chức nghi thức rước về nhà thờ chính tòa với sự hiện diện của đức cha Henry IV, giám mục giáo phận Regensburg.

Chủ nhân của ngôi nhà, nơi thiếu niên đã vứt bỏ Mình Thánh, rất kinh hoàng hãi sợ trước biến cố phạm thánh. Với sự trợ giúp của những người láng giềng, ông đã xây dựng một nhà nguyện trong năm ấy. Ngôi nguyện đường Chúa Cứu Thế này tọa lạc tại Weissen-Hahnen-Gasse, trong hẻm Gà Trống Trắng (White Rooster Alley).

Vào năm 1542, tức bốn năm trước khi Martin Luther qua đời, ngôi nguyện đường này đã bị những người Tin Lành tiếm dụng. Suốt nhiều thế kỷ qua, nó đã được dùng làm quán trọ.

Được biết có nhiều nghi thức và những cuộc rước kiệu truyền thống đã được tổ chức tại Regensburg để tôn kính Thánh Thể.

Năm 1620 chính quyền thành phố khởi công xây cất một thánh đường lớn bên cạnh nhà nguyện nhỏ và nhà nguyện nhỏ cũng được sửa lại bằng đá. Đức Giám Mục giáo phận giao cho các Tu Sĩ dòng Thánh Augustino trông coi nhà thờ và nhà nguyện. Các Tu Sĩ có nhiệm vụ lo phần Phụng Vụ, đọc kinh nguyện và phục vụ các tín hữu hành hương. Các vị chu toàn bổn phận cho đến năm 1803 là năm bị tục hóa.

Đến năm 1838 nhà thờ bị hư hại rồi bị tàn phá bình địa. Nhưng nhà nguyện nhỏ nơi diễn ra Phép Lạ Thánh Thể vẫn tiếp tục kiên cố với thời gian. Nhà nguyện được tu sửa và được trang hoàng thật đẹp.

Vào năm 1855, nguyện đường này xuống cấp và bị phá bỏ. Vì tiếc nuối sự mất mát, dân chúng lại xây dựng một nhà nguyện khác tại khu vực ấy. Tuy nhiên, trong thời kỳ Thế Chiến I, ngôi nguyện đường ấy đã bị tục hóa.

Ngày 18-9-1855 Đức Cha Valentino tái thánh hiến nhà nguyện.
Ngày nay nhà nguyện có bị cũ đi, nhưng Cây Thánh Giá với tượng Đức Chúa GIÊSU KITÔ làm phép lạ vẫn còn đó như dấu chứng Đức Tin kiên vững của các tín hữu Công Giáo Đức. Họ thường xuyên đến kính viếng nhà nguyện và thờ lạy Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể ẩn náu trong Nhà Tạm.
 

9. BOLSENA-ORVIETO, NƯỚC Ý

Năm 1263

(Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 11, Regina xb, USA, 2002) 

Vào năm 1263, một vị linh mục người Đức là cha Peter thành Prague ghé lại Bolsena trên đường hành hương đến Rôma. Ngài có tiếng là một linh mục đạo đức, nhưng lại thấy khó tin việc Chúa Kitô thực sự hiện diện trong Thánh Thể. Lúc cử hành thánh lễ trên mồ thánh Christina (ngay trong nhà thờ mang tên của ngài), đang khi vị linh mục vừa đọc lời truyền phép, tức thì máu bắt đầu từ Bánh Thánh ứa ra và chảy lai láng trên bàn tay của vị linh mục, trên bàn thờ và khăn thánh.

Vị linh mục hết sức hoang mang. Lúc đầu, ngài định che giấu máu ấy, nhưng rồi ngài đã dừng ngang thánh lễ và xin được đưa đến thành phố Orvieto gần đó, nơi đức GH Urban IV đang cư ngự.

Đức Thánh Cha lắng nghe tự sự và xá tội cho vị linh mục. Ngài cũng gửi các đại diện xúc tiến cuộc điều tra lập tức. Khi mọi dữ kiện đã được xác minh, Đức Thánh Cha truyền cho đức giám mục giáo phận phải kiệu Bánh Thánh và khăn thánh đã dính các vệt máu về Orvieto. Cùng với các hồng y, tổng giám mục, và các bậc vị vọng khác trong Giáo Hội, Đức Thánh Cha ra tiếp đón đoàn rước, và bằng nghi lễ trang trọng, ngài đã đưa các thánh tích vào lưu giữ trong nhà thờ chính tòa. Tấm khăn thánh mang các vệt máu hiện nay vẫn được lưu giữ và trưng bày tại nhà thờ chính tòa giáo phận Orvieto.

Được biết nhờ phép lạ này soi động, đức Urban IV đã đặc ủy cho thánh Thomas Aquinas soạn bài lễ và bài kinh Thần Vụ để tôn kính Thánh Thể là Mình Thánh Chúa Kitô. Một năm sau phép lạ, vào tháng 8 năm 1264, đức Urban IV đã giới thiệu các công trình của thánh nhân, và bằng một bửu sắc, ngài đã thiết lập lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô.

Sau khi kính viếng nhà thờ chính tòa Orvieto, nhiều tín hữu hành hương và du khách đi đến nhà thờ thánh Christina tại Bolsena để tận mắt chiêm ngưỡng nơi phép lạ đã xảy ra. Từ cánh phía bắc của nhà thờ, ta có thể đi vào nguyện đường Phép Lạ, nơi có các vết máu trên sàn nhà thờ được biết là do máu thánh từ Bánh Thánh phép lạ. Bàn thờ phép lạ, phía trên có một bức trướng thế kỷ IX, hiện nay được đặt trong hang đá thánh Christina. Gần đó có một bức tượng của vị thánh.

Vào tháng 8 năm 1964, nhân dịp kỷ niệm 700 năm thiết lập lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô, đức Paul VI đã cử hành thánh lễ tại bàn thờ nơi tấm khăn thánh đang được lưu giữ trong một đài kính bằng vàng trong nhà thờ chính tòa Orvieto. (Đức Thánh Cha đã công du đến Orvieto bằng máy bay trực thăng; ngài là vị giáo hoàng đầu tiên trong lịch sử đã sử dụng phương tiện giao thông này).

Mười hai năm sau, cũng chính vị giáo hoàng này đã đến kính viếng Bolsena và phát biểu qua truyền hình trực tiếp đến đại hội Thánh Thể Thế Giới lần thứ bốn mươi mốt, khi ấy đang bế mạc tại thành phố Philadelphia. Trong bài diễn từ, đức Paul VI đã ca ngợi Thánh Thể là “… một mầu nhiệm cao cả và khôn thấu.”

 

10, 11- Hai Phép lạ Thánh Thể ở Paris, Pháp



Năm 1274 và 1290

(Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 12, Regina xb, USA, 2002) 



1- Vào năm 1274, dưới thời vua Philip III, một tên trộm đã đánh cắp một chén thánh của nhà thờ thánh Gervais tại Paris và bí mật đem đến Champ du Landit gần tu viện thánh Denis. Tại đây, hắn mở chén thánh bằng vàng và đổ Bánh Thánh ra – nhưng khi chén thánh vừa mở ra, Bánh Thánh đã bay vọt lên và lơ lửng trên đầu hắn. Một số nông dân nhìn thấy Bánh Thánh lơ lửng trên đầu một Thanh niên đang hốt hoảng liền vội vàng đi thông báo cho cha Mathieu de Vendome, bề trên tu viện thánh Denis, và ngài đã thông tri cho đức giám mục Paris.

Cả cha bề trên và đức giám mục cùng với các vị chức sắc từ các nhà thờ lân cận vội vã đến Champ du Landit, tại đây, mọi người đều thấy Bánh Thánh lơ lửng trên không trung. Khi vị linh mục đã truyền phép Bánh Thánh ấy đến gần để xem xét sự kiện đang xảy ra, Bánh Thánh liền đậu xuống tay ngài trước mặt rất đông dân chúng. Nhiều người trong số này đã cùng với vị linh mục kiệu Bánh Thánh trở về nhà thờ, nơi đã bị đánh cắp. Bánh Thánh này trong tình trạng nguyên vẹn và đã biến mất trong một cuộc phá hoại chống Công Giáo trong thời Cách Mạng Pháp.

Sau phép lạ, đức giám mục ra lệnh cho nhà thờ thánh Gervais phải hát thánh thi vào mọi ngày thứ Sáu để tưởng nhớ, và tổ chức một buổi hát kinh Thần Vụ đặc biệt vào ngày mồng 1 tháng 9. Những nghi thức này đã được cử hành suốt nhiều năm cho đến khi Bánh Thánh biến mất.

2- Nhưng 16 năm sau đó, vào năm 1290, Paris lại được vinh dự có một phép lạ Thánh Thể còn nhãn tiền hơn nữa. Phép lạ thứ hai này liên hệ đến một người phụ nữ nghèo túng, không có một của gì đáng giá, ngoại trừ chiếc áo bà phải đi cầm để đổi một món tiền nhỏ sinh sống. Gần đến Chúa Nhật Phục Sinh, bà ước ao được ăn vận đàng hoàng để đi dự lễ, nhưng vì không có đủ tiền để chuộc lại chiếc áo, bà đã đến nhà người cầm đồ để xin mượn lại chiếc áo chỉ một ngày. Người cầm đồ là một kẻ ngoại đạo, tò mò về Bánh Thánh các tín hữu được lãnh nhận trong thánh lễ, đã đề nghị người phụ nữ sẽ được nhận lại chiếc áo mãi mãi nếu như đem đến cho ông tấm bánh đã được truyền phép mà vị linh mục sẽ trao cho bà khi hiệp lễ.

Đồng ý với lời đề nghị đáng hổ thẹn này, người phụ nữ nghèo đã đi dự thánh lễ và rước lễ. Sau khi lén lút lấy Bánh Thánh ra khỏi miệng, bà đã đem giao lại cho người cầm đồ. Ông này đã đặt Bánh Thánh trên một chiếc bàn. Và rồi, trước mặt người phụ nữ và các con của mình, ông rút một chiếc dao nhỏ và đâm túi bụi vào Bánh Thánh. Bỗng nhiên, dòng máu từ những vết đâm tuôn ra xối xả, bắn tung tóe vào người đàn bà và lũ trẻ. Kinh hãi trước hiện tượng máu chảy, người đàn ông ném Bánh Thánh vào lò lửa gần bên, nhưng Bánh Thánh bay lơ lửng trên ngọn lửa, không hề bị ngọn lửa hay sức nóng làm hại. Sau đó, vì rụng rời hốt hoảng, ông ta chộp lấy Bánh Thánh trên ngọn lửa và ra sức hủy diệt bằng cách thả vào một ấm nước sôi.



Nước lập tức đổi ra màu đỏ, giống như máu. Nước máu ấy trào ra khỏi chiếc ấm, lai láng xuống nền nhà và chảy ra ngoài đường, làm cho người qua lại phải chú ý.

Một người phụ nữ đứng bên ngoài thắc mắc sự tình đã đi vào trong nhà và được thị kiến Chúa Cứu Thế đang đứng trước ấm nước. Một lúc sau, thị kiến chấm dứt, nhưng bà lại thấy Bánh Thánh lơ lửng trên không. Khi Bánh Thánh từ từ hạ xuống, bà đã lấy một chiếc bình gần đó và đón Bánh Thánh vào chiếc bình. Sau đó, hết sức thận trọng cung kính, Bánh Thánh được đem đến nhà thờ thánh Jean-en-Grevè, nơi Bánh Thánh đã được gìn giữ như một kho tàng quí giá và được tôn vinh bằng nhiều nghi thức, nhất là vào ngày lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô.

Người ta kể lại trước cảnh tượng nước đỏ như máu, người cầm đồ kinh hoàng đã lẹ làng trốn vào một hố than, nhưng sau đó hắn ta đã bị bắt và kết tội phạm thánh.

Vua Philip IV (tức là vua Philip Công Bằng) và đức giám mục Paris được thông báo về phép lạ liền ngay sau đó, và sau cùng, ngôi nhà nơi phép lạ xảy ra đã được biến thánh một nguyện đường.

Vào năm 1444, biến cố lạ lùng này đã trở thành chủ đề của một vở kịch mang tựa đề Mầu Nhiệm Bánh Thánh. Vào năm 1533, vở kịch này lại được công diễn nhân dịp lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô.

Phép lạ phi thường này đã được cha Giry điều tra và tường trình trong cuốn sách của ngài có nhan đề Féte du Tres-Saint Sacrament (Ngày lễ Thánh Thể), trong đó, ngài đã cố kêu gọi các tín hữu Công Giáo hãy mừng các ngày lễ được thiết lập để ghi nhớ phép lạ này. Phép lạ cũng được đức cha Guerin, đổng lý văn phòng của đức Leo XIII điều tra. Đức cha Guerin kể lại các dữ kiện liên quan đến biến cố này trong cuốn Hạnh Các Thánh (Vies des Saints) của ngài và tuyên bố phép lạ ấy là chân xác.

 Nguyện đường đền tạ được kiến thiết trong ngôi nhà phép lạ đã xảy ra về sau được thay thế bằng một nhà thờ lần lượt mang nhiều tên khác nhau: La Maison ou Dieu fut Bouilli (ngôi nhà nơi Thiên Chúa bị nấu), L’eglise du Sauveur Boullant (nhà thờ nơi Đấng Cứu Thế bị nấu), La Chapelle du Miracle (nguyện đường phép lạ) – và sau cùng, được gọi bằng hai danh hiệu: nhà thờ thánh Francis và đền thánh của dòng Billettes. Nhà thờ này được xây dựng vào thế kỷ XIV trên chính nơi phép lạ đã xảy ra, và được các tu huynh dòng Bác Ái xây dựng – được gọi là các thày Billettes vì họ mặc những áo vai nhỏ hình chữ nhật, làm người ta nghĩ đến những tờ truyền đơn.

Các tu sĩ dòng Kín Đức Mẹ núi Carmel đã thay thế các tu huynh dòng Bác Ái và hoàn tất công trình kiến thiết nhà thờ vào năm 1756, nhưng đến năm 1812, nhà thờ này lại thuộc quyền sở hữu của những người Tin Lành.

Nối liền với nhà thờ này là tu viện xây kiểu trung cổ của dòng Billettes, một tu viện đơn sơ duyên dáng được bảo tồn hoàn hảo và thường được các du khách đến viếng thăm.

  

12- Phép Lạ Thánh Thể ở Slavonice, Tiệp Khắc, năm 1280



Năm 1280

(Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 13, Regina xb, USA, 2002) 

Phép lạ tại Slavonice được kể lại rất đơn sơ. Vào năm 1280, khi đang chăn dẫn đoàn vật trên các cánh đồng ngoại vi thành phố, một người du mục rất ngạc nhiên khi thấy một ngọn lửa kỳ lạ bốc cháy trên ngọn các bụi cây mọc trên đồi đá. Khi đến gần hiện trường, ông thấy bên trong ngọn lửa có một Bánh Thánh nguyên vẹn, không bị ngọn lửa và sức nóng làm hại. Vị linh mục được mời đến hiện trường đã nhận ra Bánh Thánh ấy là Bánh Thánh trong chiếc bình thánh quí giá đã bị đánh cắp vào đêm giao thừa năm trước. Tuy không tìm ra tội phạm, nhưng hiển nhiên hắn đã vứt bỏ Bánh Thánh tại chính nơi Bánh Thánh đã tỏ hiện này.

Cùng với các bổn đạo trong xứ vội vàng đến chứng kiến ngọn lửa kỳ lạ,  sau đó vị linh mục đặt Bánh Thánh vào một chiếc bình đem theo, và trở về thành phố gần đó. Khi đến gần cổng thành, người ta nhận ra Bánh Thánh đã biến mất khỏi chiếc bình. Một lần nữa, họ lại thấy Bánh Thánh ở trên ngọn lửa trên đồi đá. Sau khi đón lấy Bánh Thánh, vị linh mục cùng các giáo hữu lại đi về thành phố. Nhưng Bánh Thánh lại biến mất một lần nữa. Chỉ sau khi vị linh mục và các giáo hữu hứa sẽ xây dựng một đền thành tại chính địa điểm phát hiện, Bánh Thánh mới ở lại trong bình thánh để trở về nhà thờ giáo xứ.

Lời hứa đã được tôn trọng, và chính trên đồi đá đã mọc lên một ngôi nguyện đường, nhưng chẳng bao lâu đã trở nên quá chật chội so với số tín hữu hành hương, kể cả từ những miền rất xa xôi, để tôn thờ Bánh Thánh kỳ diệu. Đức giám mục Dietrich của giáo phận OlmÜtz, và sau đó, đức giám mục Gregory của giáo phận Prague đã ban nhiều ân xá cho các tín hữu hành hương.

Nguyện đường này tiếp tục trở thành một nơi thu hút mạnh mẽ cho đến đầu thế kỷ XV, khi nhóm người theo bè Huss kéo đến gieo rắc sự hủy diệt và tà thuyết. Nguyện đường đặc ân bị phá hủy bình địa, mặc dù đồi đá nhỏ vẫn còn nguyên tại chỗ.

Sau khi những người của bè Huss bỏ đi, một ngôi nguyện đường khác đã được tái thiết trên chính địa điểm ấy vào năm 1476. Nguyện đường này đã được đức giám mục giáo phận OlmÜtz làm phép và đặt tên là nhà thờ Mình Thánh Chúa Kitô. Như ngôi nguyện đường đầu tiên, ngôi nhà thờ này cũng trở nên quá nhỏ bé so với số tín hữu tiếp tục đến hành hương. Vì vậy, ngôi nhà thờ ấy lại được mở rộng và hoàn thành vào năm 1491, đó chính là ngôi nhà thờ còn tồn tại đến  ngày nay. Sau đó, Đức Thánh Cha đã ban ơn toàn xá cho tất cả những ai sốt sắng kính viếng nhà thờ này và thành thực thống hối để lãnh nhận bí tích Thánh Thể. Được biết vì ơn toàn xá mà dòng người hành hương đông đúc đến độ cần phải có nhiều linh mục để cho những người muốn hưởng nhờ đặc ân rước lễ.

Một điểm hấp dẫn nữa của nhà thờ này là bàn thờ Ơn Thánh, được xây trên đồi đá chính xác ngay tại địa điểm ban đầu. Tại nơi đây, các thánh lễ vẫn đang được cử hành. Bàn thờ này ở phía trước bàn thờ chính một khoảng và nổi bật cả về vị trí lẫn cách trang trí. Trên bàn thờ ơn thánh là một bức tượng điêu khắc hai thiên thần đang thờ lạy một Bánh Thánh chung quanh có những ngọn lửa và tia sáng. Một bức phù điêu trong nhà thờ diễn tả cảnh người mục tử chỉ về hướng những ngọn lửa trên cánh đồng, trong khi một đoàn người, có cờ quạt dẫn đầu, từ nhà thờ giáo xứ tiến ra.

Hằng năm, ngày kỷ niệm tìm ra Bánh Thánh vẫn được tổ chức và gọi là Bauern Feuerfest, ngày Lễ Lửa của Người Miền Quê.

 

13- PHÉP LẠ THÁNH THỂ OFFIDA



Năm 1273

Máu Thánh tuôn trào lần thứ hai ở Lancianô , nước Ý

 

 (Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 14, Regina xb, USA, 2002) 



Phép lạ Thánh Thể tại Offida thực sự đã xảy ra ở thành phố Lanciano, địa điểm của phép lạ đầu tiên khoảng năm 700. Phép lạ thứ hai này - hiện nay đang được lưu giữ tại Offida cách Lanciano chừng 60 dặm về hướng bắc - không xảy ra với một linh mục hồ nghi như phép lạ thứ nhất; nhưng vì sự bất hòa của một gia đình bất hạnh.

Một người phụ nữ tên là Ricciarella, vợ của ông Giacomo Stasio, hết sức đau khổ vì cuộc hôn nhân bất hạnh, đã cố gắng hết khả năng để chiếm lại tình yêu của chồng. Cuối cùng, một mụ phù thủy đã mách cho Ricciarella cách thế để đạt được tình yêu của chồng. Mụ ta khuyên Ricciarella "đi rước lễ, và đưa Bánh Thánh về nhà bếp, rồi hâm nóng trên lửa cho đến khi lấy được chất bột. Bà phải trộn chất bột này vào thức ăn hoặc thức uống của chồng, và thế nào ông này cũng sẽ yêu thương bà".

Trong cơn tuyệt vọng vì hoàn cảnh u uất, Ricciarella đã đi dự thánh lễ, rước lễ, và lén lút nhả Bánh Thánh từ miệng vào vạt áo. Sau khi đưa về nhà, Ricciarella đặt Bánh Thánh lên một miếng ngói hình bán nguyệt, giống như thứ ngói vẫn được lợp ở trên nóc hoặc ở mép mái nhà. Sau đó, bà đặt miếng ngói lên ngọn lửa. Ngay khi Bánh Thánh được đốt nóng, thay vì hóa thành bột, Bánh Thánh lại biến thành một miếng thịt đầy máu. Kinh hoàng trước sự kiện xảy ra, Ricciarella dừng ngay công việc rồi đổ tro và sáp lỏng lên miếng ngói, nhưng không thành công. Miếng ngói dính đầy máu, nhưng thịt vẫn còn y nguyên.

Cuống quít tìm cách loại bỏ chứng cứ tội phạm thánh của mình, Ricciarella lấy một tấm khăn bàn bằng nỉ có thêu lụa và ren gói miếng ngói và Bánh Thánh đẫm máu lại. Mang tất cả ra ngoài, bà đi đến chuồng ngựa và chôn ngay bên dưới hố rác của gia đình và đống phân chuồng gia súc.

Chiều tối hôm ấy, khi người chồng là Giacomo đưa ngựa vào gần đến chuồng, con vật không chịu vào. Trái với tính thuần thục bình thường, con vật cứ ngang ngạnh, mặc dù bị chủ đánh đập dã man. Sau cùng, con ngựa cũng chịu, nhưng thay vì đi vào phía trước, nó đã đi vào cửa bên cạnh, hướng đầu về phía đống rác, và sau cùng đã quì gối xuống. Giacomo nổi điên lên trước cảnh tượng ấy và kết tội vợ đã bỏ bùa vào chuồng làm cho con vật sợ hãi không dám vào. Ricciarella dĩ nhiên chối phăng tất cả và không dám hé môi về nguyên nhân của sự khó.

Năm 1280, sau bảy năm trời, Thánh Thể vẫn bị chôn bên dưới đống rác, và trong quãng thời gian ấy, những súc vật vẫn chỉ ra vào bằng cổng bên cạnh, và tỏ dấu cung kính về phía đống rác.

Thay vì được bình an như cố công tìm kiếm đến nỗi phạm sự thánh, thì ngược lại, suốt ngày thâu đêm, lúc nào Ricciarella cũng bị dày vò hối hận vì tội lỗi. Sau cùng, bà quyết định đi xưng thú những gì đã làm với một linh mục thuộc tu viện thánh Agostino tại Lanciano là cha Giacomo Diotallevi, quê ở Offida.

Quì gối xưng tội, nhưng Ricciarella nghẹn lời vì quá thổn thức, cho dù được cha giải tội khích lệ đừng sợ hãi và hãy an tâm. Sau cùng, vẫn không sao thú được tội phạm thánh, bà xin cha giải tội giúp đỡ, và ngài đã lần lượt kể ra nhiều thứ tội khác nhau. Kể đến thứ tội cuối cùng mà vẫn chưa thấy Ricciarella thú nhận một tội nào, cha Giacomo đành nói, “Tôi đã kể cho chị tất cả những giống tội có thể phạm. Tôi không biết tội chị là tội gì, trừ phi chị giết Đức Chúa Trời.”

Ricciarella trả lời, “Đó chính là tội của con! Con đã giết Đức Chúa Trời!” Sau đó Ricciarella đã kể lại đầu đuôi tội phạm sự thánh của mình.

Quá kinh ngạc trước những điều sau cùng mới được kể ra, cha Giacomo ban phép xá giải cho Ricciarella, khích lệ bà hãy an lòng, và cấp tốc lo liệu để đưa Thánh Thể ra khỏi đống rác.

Sau khi mặc phẩm phục xứng đáng, cha đến chỗ chuồng vật, bất chấp bệnh tật, và bắt đầu bới tung đống rác đầy phân bớn. Trước sự ngỡ ngàng, cha phát hiện ra mảnh ngói, Bánh Thánh đẫm máu, và chiếc khăn bàn, tất cả không hề bị vấy bẩn và trông như vừa mới bị chôn xuống. Cha Giacomo sau đó đưa miếng ngói, Bánh Thánh, và chiếc khăn về tu viện của ngài.

Sau đó vài ngày, khi đã được phép của bề trên, cha Giacomo đi về Offida, quê hương của ngài, và kể lại phép lạ với cha Michele Mallicano và nhiều vị chức sắc danh tiếng của thành phố. Mọi người đồng ý Bánh Thánh phải được tôn thờ xứng đáng và phải đặt một bình đựng đặc biệt để lưu giữ. Một số lượng bạc rất nhiều đã được dâng cúng để làm bình đựng. Sau đó, các vị cũng quyết định ủy thác cho các nghệ nhân tại Venice trách nhiệm làm một bình đựng có hình thánh giá thật nghệ thuật để lưu giữ Bánh Thánh phép lạ, và cả một mảnh gỗ từ thánh giá của Chúa Kitô.

Cha Michele cùng một linh mục khác đưa Bánh Thánh đựng trong một chén thánh đến Venice. Tại đây, ngài giao cho một nghệ nhân kim hoàn chế tạo một bình đựng đặc biệt và đòi ông phải thề giữ bí mật về việc này. Khi vừa nhận chén thánh đựng Bánh Thánh, nghệ nhân đã phát một cơn sốt kịch liệt. Ông ta đang sống trong tình trạng tội trọng. Nhưng sau khi ông xưng tội, cơn sốt đã bớt hẳn.

Khi làm xong bình đựng hình thánh giá, nghệ nhân đặt mảnh gỗ thánh giá thật và Bánh Thánh phép lạ vào những hộp pha lê riêng biệt rồi trao bình đựng cho hai linh mục, và các ngài lập tức rời Venice về Offida. Tuy nhiên, nghệ nhân kim hoàn này đã không giữ lời thề, ông đem kể mọi sự với tổng trấn thành Venice, đề nghị lấy lại bình đựng hình thánh giá và những báu tàng bên trong của hai vị linh mục để lưu giữ tại Venice. Viên tổng trấn đồng ý và phái một con tàu chặn đường hai vị linh mục. Nhưng một cơn bão nổi lên chặn đứng chuyến thủy trình, và nỗ lực ấy đành phải hủy bỏ.

Khi hai vị linh mục đến Ancona, các thương nhân Venice kể cho các ngài biết ý định của tổng trấn và cuộc thoát khỏi kỳ diệu của các ngài. Được Thiên Chúa che chở không ngừng, hai vị linh mục đã bình an về đến Offida cùng với thánh giá quí báu của họ.

Trong thời gian những biến cố này xảy ra, tất cả đều được ghi chép vào giấy da, nhưng không may, hiện nay chưa tìm lại được. Tuy nhiên, bản chính thức do viên lục sự Giovanni Battista Doria thực hiện, đề ngày 18 tháng 4 năm 1788, hiện nay vẫn còn được lưu giữ.

Phía trên bàn thờ chính của đền thánh thánh Augustine tại Offida, còn gọi là đền thánh Thánh Thể Phép Lạ, người ta thấy một thánh đài rất nghệ thuật đựng thánh giá bằng bạc bên trong có chứa Thánh Thể phép lạ. Viên ngói Ricciarella dùng để đốt nóng Bánh Thánh hiện vẫn còn dấu nám và những vệt máu, được giữ trong một chiếc hộp hình chữ nhật bằng kính. Tấm khăn bọc miếng ngói và Bánh Thánh đẫm máu cũng được đặt trong hộp kính. Các bức họa vẽ lại những diễn tiến của phép lạ được trưng bày trong nhà thờ.

 -------------------------------------------



Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ
2011 -> Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử
2011 -> LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA
2011 -> Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU
2011 -> Tu luật thánh biểN ĐỨc ngày 1 tháng 1

tải về 0.77 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương