HƯỚng dẫn dạy và HỌc trong giáo dụC ĐẠi họC


Bài 1: Công nghệ trong giáo dục đại học



tải về 1.84 Mb.
trang23/46
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.84 Mb.
#3936
1   ...   19   20   21   22   23   24   25   26   ...   46

Bài 1: Công nghệ trong giáo dục đại học


Học xong bài này bài này bạn có thể:

  • Mô tả được công nghệ giáo dục vừa là một quá trình, vừa là một sản phẩm; và

  • Phân biệt được sự khác nhau của công nghệ truyền thống và hiện đại.

NHỮNG CÔNG NGHỆ MỚI TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

A.M. Simiyu

Thuật ngữ công nghệ (technology) đã được Simiyu giải thích (1999) có nguồn gốc Latin của nó. Nó bao gồm hai khái niệm, đó là kỹ thuật có nghĩa là công cụ và vật liệu, và logic có nghĩa là các cách tiếp cận khác nhau để giải quyết một vấn đề. Thuật ngữ công nghệ được áp dụng vào quá trình giáo dục bao gồm những cách thức của việc tổ chức các sự kiện và hoạt động nhằm đạt được những mục đích giáo dục cũng như những tài liệu và thiết bị có liên quan trong quá trình này.

Lịch sử của công nghệ giáo dục bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ 18 và đầu thế kỷ thứ 19 từ khi các sản phẩm công nghiệp khác nhau như máy ảnh và sau này là phim hình ảnh động được phát minh. Sự phát minh này có thể không có gì liên quan đến quá trình giáo dục, nhưng những lợi ích của chúng đã được các nhà giáo dục nhanh chóng áp dụng và chúng thường xuyên được đưa vào sử dụng. Máy ảnh có khả năng tái tạo những điều đã trải qua của cuộc đời và gửi nó đến bất kỳ nơi nào. Sự đóng góp của hình ảnh động có nhiều ấn tượng hơn vì những tình tiết được ghi và tái tạo lại với những chuyển động thực sự. Việc tạo ra các hình ảnh động bổ sung thêm vào chất lượng bài giảng ví dụ như mô hình về sự tuần hoàn của máu trong cơ thể con người.

Tác động lớn nhất tới giáo dục trong lịch sử công nghệ giảng dạy đã đến từ Chiến tranh Thế giới lần thứ hai với những nỗ lực để dạy các kỹ năng khác nhau cho quân đội. Những người lính được tuyển mộ và huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trong khoảng thời gian ngắn nhất. Trong việc tìm kiếm hiệu quả trong quá trình huấn luyện, khía cạnh logic của công nghệ đã phát huy vai trò của nó. Cần thiết phải xác định mục đích cụ thể, và tổ chức các kỹ năng phát triển quá trình theo trình tự logic của các bước. Quá trình này đã được sàng lọc dẫn đến cách tiếp cận hệ thống với việc giảng dạy.

Sự phát minh ra máy tính điện tử và giảng dạy được lập trình được áp dụng trong giáo dục với những kết quả khích lệ. Giáo dục qua trao đổi thư từ về sau này được phát triển thành giáo dục từ xa mà chúng ta đang có như ngày nay. Trong khí giáo dục qua thư từ đã sử dụng các tài liệu in và việc giảng dạy đã được lập trình thì dạy học từ xa lại kết hợp chặt chẽ với các loại phương tiện truyền thông khác nhau để đạt được kết quả giáo dục.

Khái niệm “công nghệ mới” thừa nhận là công nghệ luôn được hoàn thiện theo thời gian. Những ý tưởng mới luôn được giới thiệu bởi giới công nghiệp và chúng cần được áp dụng vào quá trình giáo dục để giúp giải quyết các vấn đề mà các nhà giáo dục đang đối mặt. Công nghệ mới được áp dụng vào giáo dục đại học cần được cân nhắc trong bối cảnh kinh tế xã hội của từng nước.

Ở châu Phi, giáo dục đại học gặp nhiều vấn đề. Chúng ta phải đối mặt với các vấn đề khả năng tiếp nhận những học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông có năng lực để theo đuổi con đường học hành trong một số ít cơ sở đào tạo sau giáo dục bậc ba kể cả các trường đại học. Bằng chứng của thực tế này là một số sinh viên châu Phi những người đang tích luỹ một khoản tiền lớn để học tập tại châu Âu, Mỹ hoặc bất kỳ một nơi nào có thể học được. Ở Kenya hơn 150.000 sinh viên trung học đại diện cho KCSE. Có hơn 40.000 sinh viên đạt mức yêu cầu tối thiểu để vào các trường đại học, nhưng chỉ có 9.000 chỗ học trong các trường đại học công lập.

Giáo dục đại học cũng gặp khó khăn với việc thiếu sách vở và thiết bị học tập cho nhiều môn học khác nhau. Nhân sự cũng được đào tạo một cách không tương thích. Những nơi giáo dục đại học phát triển nhanh, giảng viên gặp phải vấn đề trong việc quản lý các lớp học đông người. Thậm chí có nơi số sinh viên thấp, nhưng chất lượng giảng dạy không đáp ứng được những tiêu chuẩn mong đợi do giảng viên thiếu được đào tạo về sư phạm. Đây là bối cảnh thúc đẩy chúng ta xem xét các công nghệ mới trong giáo dục đại học để cho các mục tiêu của các cơ sở đào tạo đại học có thể đạt được với sự thoả mãn chung của giảng viên và sinh viên, và cuối cùng là xã hội có thể được hưởng lợi bởi vai trò của những người tốt nghiệp đại học.

Công nghệ mới có thể mang lại những lợi ích sau đây cho giáo dục đại học:



  • Tăng thêm sự tiếp cận với các nguồn tư liệu giảng dạy thông qua Internet,

  • Chia sẻ kinh nghiệm thông qua các công nghệ như trường đại học ảo,

  • Tăng thêm sự tiếp cận với đào tạo đại học thông qua việc dạy và học từ xa,

  • Tăng thêm tính linh hoạt trong việc học cái gì, học như thế nào, khi nào học, và

  • Thúc đẩy người học tiềm năng tham gia vào giáo dục đại học.

Để có khả năng hiện thực hoá các lợi ích trên đây, chúng ta cần tiến hành các hoạt động khác như sau:

  • Đào tạo giảng viên để cải thiện năng lực của họ trong việc sử dụng các công nghệ mới trong các hoạt động giảng dạy,

  • Đào tạo và giúp đỡ giảng viên trong việc sản xuất các nguồn tư liệu giảng dạy và học tập,

  • Đào tạo giảng viên và sinh viên trong việc sử dụng máy tính cơ bản,

  • Yêu cầu cơ sở vật chất đầy đủ sao cho các công nghệ mới đã được công nhận có thể được sử dụng như một phần của các nguồn tư liệu giảng dạy trong các cơ sở đào tạo.

  • Mở các cuộc hội thảo để giới thiệu các công nghệ mới trong giáo dục đại học.

Trích dẫn từ Simiyu, A.M. (1999). Các công nghệ Mới trong Dạy và Học ở Đại học. Bài trình bày tại Hội nghị Khu vực về Dạy và Học ở Đại học, Đại học Moi, Eldoret, Kenya, 18-22 tháng 5 năm 1999.

Các công nghệ mới vừa là quá trình, vừa là sản phẩm


Thuật ngữ công nghệ đã được Simiyu giải thích (1999) có nguồn gốc Latin của nó. Nó bao gồm hai khái niệm, đó là kỹ thuật có nghĩa là công cụ và vật liệu, và logic có nghĩa là các phương pháp khác nhau để giải quyết một vấn đề. Thuật ngữ công nghệ được áp dụng vào quá trình giáo dục bao gồm những cách thức của việc tổ chức các sự kiện và hoạt động nhằm đạt được những mục tiêu giáo dục cũng như những tài liệu và thiết bị có liên quan trong quá trình này.

Yapi (1997) đưa ra một cái nhìn sâu sắc hơn về ý nghĩa của khái niệm ‘công nghệ’. Theo quan điểm của ông, sự thay đổi trong việc sử dụng thuật ngữ “công nghệ” đưa ra một vài cách giải thích khác nhau, mỗi một cách có độ chính xác tương đối. Một trong những cách giải thích có vẻ hợp lý đó là: công nghệ là những gì mà một người sử dụng khái niệm này trong việc định nghĩa công nghệ theo đúng nghĩa của một sản phẩm chắc chắn làm như vậy vì một số lượng lớn các hoạt động thương mại diễn ra trên thế giới đều là để giới thiệu những sản phẩm vật chất của công nghệ cao. Điều đó cũng là do đông đảo công chúng coi công nghệ như là một sản phẩm (đặc biệt là các nước đang phát triển), vì hàng loạt các chiến dịch quảng cáo đã tạo ra tác động đó. Một cách giải thích khác coi công nghệ như một quá trình nhấn mạnh vào một cái gì đó còn rất khó phân biệt hoặc chí ít là do chính bản thân công nghệ thể hiện đối với công chúng, nó vẫn còn là lĩnh vực hạn chế giành cho các nhà chuyên môn. Vì vậy, khi một người không có chuyên môn khi được yêu cầu giải thích khái niệm “công nghệ”, người đó sẽ cho đó như là một sự nghiên cứu về thiết bị (máy móc, vật liệu, cấu kiện điện tử, cơ điện tử, vv,…). Theo Thomas Kabayashi (1987), đa số mọi người định nghĩa công nghệ như một thiết bị điện tử (máy chiếu phim, máy quay băng, thiết bị nghe nhìn, máy vi tính, vv,…).

Ngược lại với quan điểm này, công nghệ không chỉ đơn thuần là một tài sản hữu hình như bất kỳ một bộ phận nào đó của thiết bị. Nó không chỉ bao gồm sản phẩm mà còn bao gồm cả quá trình (toàn bộ lĩnh vực được bao hàm). Tuy nhiên, các tác giả có cái nhìn tổng thể hơn và có chuyên môn hơn về vấn đề này.

Một số tác giả coi công nghệ như một sự phát triển của trí tuệ và thực tiễn về tất cả các mặt nhờ đó các hệ thống được thiết kế và điều khiển để tạo ra kết quả có thể sao chép được.

Nói một cách khác, đây là cách xác định và giải quyết một vấn đề bằng việc đánh giá các mặt lý thuyết và thực tiễn cũng như các mối quan hệ giữa hai mặt đó (Lapointe, 1991; Rheaume, 1993). Những người khác nói công nghệ là một lĩnh vực của tri thức và những hoạt động mà nó có thể thiết kế và sản xuất ra các vật thể và những hệ thống. Đây cũng là một quá trình tuân theo nguyên tắc tự động của một hệ thống hoặc một quá trình hoạt động, nhờ tác động phản hồi liên tục giúp cho việc hiệu chỉnh các hệ thống phụ hoặc các hoạt động phụ, nếu cần, để đạt được một nhóm mục tiêu. Nói một cách khác, công nghệ là một nghệ thuật của việc đảm bảo việc vận hành hoặc quản lý hiệu quả của mỗi một hệ thống phức tạp (Gagne, 1987; Legendre, 1993).

Một số định nghĩa cho rằng công nghệ là các đối tượng kỹ thuật được tạo ra nhờ tri thức và kinh nghiệm sản xuất như các thiết bị có thể nhìn thấy được (máy móc, thiết bị). Những định nghĩa khác vượt xa hơn cho rằng công nghệ liên quan đến sản phẩm vật chất bao gồm các phương pháp, một tập hợp ý tưởng và kiến thức cho các mục đích thực tế, theo cách nhìn từ góc độ sử dụng của họ. Với những định nghĩa này, chúng ta có thể phân biệt một cách lý thuyết công nghệ như là một sản phẩm theo Lapointe (1993), sự phân biệt này có thể không chỉ xem xét công nghệ như một sản phẩm vật chất đơn thuần. Để làm sáng tỏ những giải thích khác nhau, chúng ta cố gắng trình bày và giải thích công nghệ giáo dục từ quan điểm chung trước khi đưa ra khái niệm tổng quát để có thể phân biệt giữa việc coi công nghệ như một sản phẩm và công nghệ như một quá trình phục vụ giáo dục.

Sự phân tách giữa công nghệ lấy thầy giáo làm trung tâm (truyền thống, không lời, không năng động) hoặc lấy người học làm trung tâm (mới, bằng lời, năng động) được Edgar Dale giới thiệu. Dale minh họa biểu tượng nhìn và lời nói đại diện cho tính liên tục của kinh nghiệm tăng dần lên từ một đáy cụ thể bao gồm những kinh nghiệm có thể truyền đạt một cách trực tiếp theo sau những đối tượng cụ thể thành trừu tượng được đại diện bởi biểu tượng lời nói ở trên đỉnh của hình nón. Sự phân chia giữa các kinh nghiệm khác nhau không chặt chẽ và cứng nhắc. Hình nón giúp cho việc cảm nhận về những kinh nghiệm giao tiếp tương đối cụ thể hoặc trừu tượng.

Trong minh hoạ này, thuật ngữ được sử dụng cho các khái niệm ở trên được bao hàm trong tập hợp từ “nguồn và công nghệ học tập”

Hình nón kinh nghiệm” của Edgar Dale

Như vậy, một lần nữa chúng ta thấy rằng các công nghệ mới (ở đáy của hình nón) sử dụng các phương pháp và các công cụ khuyến khích sự tương tác nhiều hơn các công nghệ truyền thống (đỉnh nón) mà chúng sử dụng các công cụ và phương pháp lấy thầy giáo làm trung tâm nhiều hơn.



Ý nghĩa của công nghệ giáo dục đối với các nước đang phát triển

Achi Yapi

Giống như những đổi mới của công nghệ mà chúng đang cải thiện đáng kể mọi lĩnh vực trong các hoạt động kinh tế và xã hội, công nghệ giáo dục đã phát triển trong suốt 30 năm qua và cuối cùng đã cải thiện chất lượng và hiệu quả của việc học tập, quản lý và nghiên cứu giáo dục. Tuy nhiên, công nghệ này được nhận thức theo nhiều cách khác nhau phụ thuộc vào các tác giả và người sử dụng. Theo Thomas và Kabayashi (1987), công nghệ giáo dục được hiểu không đầy đử với những người khác nhau. Vì thế, người ta thường nhầm lẫn với các sản phẩm công nghệ cao và sự liên quan của chúng đến lĩnh vực giáo dục. Với những người thiếu thông tin, công nghệ giáo dục là việc sử dụng các thiết bị nghe nhìn và/hoặc máy vi tính cho các mục đích giảng dạy. Gagne và Reiser (1987) thừa nhận rằng mọi người thường hiểu công nghệ giáo dục như là việc sử dụng các phương tiện truyền thông cho các mục đích giáo dục.

Trong khi một số chuyên gia có sự hiểu biết rất sâu sắc khái niệm của công nghệ giáo dục, thì nhiều người khác thiếu thông tin về khái niệm này, đặc biệt là ở các nước đang phát triển những nơi công nghệ giáo dục được hạ xuống chỉ còn là một khái niệm của các sản phẩm vật chất. Với những sự nhầm lẫn nảy sinh từ cách trình bày, chúng tôi tự hỏi công nghệ giáo dục có thể được giải thích một cách cơ bản như thế nào để có thể giải quyết được tình trạng nói trên và giải thích tầm quan trọng của công nghệ giáo dục đối với các nước đang phát triển.

Bài viết này có ý định làm rõ sự thiếu hiểu biết vốn có về công nghệ giáo dục. Về vấn đề này, chúng tôi đã đưa ra những quan điểm đã được nhiều tác giả trình bày đối với các khái niệm của công nghệ và công nghệ giáo dục. Chúng tôi cũng cố gắng xem xét những dấu hiệu đặc biệt có thể nhận ra giữa công nghệ như một sản phẩm và công nghệ như một quá trình. Sự khái quát về công nghệ cho phép chúng tôi giải thích công nghệ giáo dục có thể giúp đỡ như thế nào trong việc thúc đẩy nền giáo dục trong các nước đang phát triển. Cuối cùng, chúng tôi giải thích trong một mức độ mà công nghệ giáo dục có thể giúp đỡ giảng viên lập kế hoạch nghiên cứu cải thiện quá trình học tập. Tuy nhiên, trước khi trình bày khái niệm của công nghệ giáo dục, chúng tôi muốn đề cập đến bản thân của công nghệ: chúng tôi làm như vậy là vì, một mặt, sự phân tích tất cả các khía cạnh của công nghệ dẫn đến trọng tâm vấn đề ngay lập tức; mặt khác, nó tạo nên nguồn gốc ban đầu của công nghệ giáo dục, như đã được Gagne (1987) và Lapointe (1993) thiết lập. Vì vậy, việc khái niệm hóa có tính thuyết phục của công nghệ giáo dục cần bắt đầu từ bản thân công nghệ.

Nói một cách khác, bài viết này trước tiên cố gắng giải thích công nghệ giáo dục bằng cách xác định những khái niệm của nó và phân tích các khía cạnh của công nghệ mà người ta cho rằng công nghệ thúc đẩy nền giáo dục trong các nước thuộc thế giới thứ ba. Với những giải thích này, trước tiên chúng tôi mong muốn giải quyết sự thiếu hiểu biết về khái niệm công nghệ giáo dục trong các nước đang phát triển và sau đó trình bày sự về mặt lý thuyết và về phương pháp luận mà công nghệ này đóng góp đối với việc chuẩn bị thiết kế chương trình giảng dạy nhằm cải thiện việc học tập và thúc đẩy sự truyền tải của chúng.



Khái niệm của công nghệ giáo dục

Cũng như bản thân công nghệ, không có một định nghĩa chung cho công nghệ giáo dục vì khái niệm này đã được định nghĩa nhiều lần và thay đổi theo nhiều cách khác nhau trong các tài liệu hiện hành. Không một chuyên gia, một nhà giáo dục nào xem xét công nghệ giáo dục như việc sử dụng máy vi tính, các thiết bị nghe nhìn cụ thể. Rheaume (1993) nhận xét rằng, với một số giảng viên nào đó, thuật ngữ “công nghệ giáo dục” liên quan đến tài liệu hay thiết bị. Vài người trong số họ định nghĩa lĩnh vực này theo nghĩa của các sản phẩm nghe nhìn và phương tiện truyền thông. Những người khác nhấn mạnh vào việc học tập theo chương trình và các hành vi có thể quan sát được (Stolovitch và La Rocque, 1988). Đối với những nhân viên không làm công tác giảng dạy và không có chuyên môn thì càng dễ nhầm lẫn. Điều này là bởi vì khi bạn hỏi để biết công nghệ giáo dục là gì thể hiện ra sao thì bạn có thể bị mất thời gian về một bài giảng mà đáng ra có thể rút ngắn thông qua công nghệ. Stolovitch và La Rocque đã nhận xét rằng những người không phải chuyên gia giáo dục cho thấy hoàn toàn chẳng hiểu biết gì về các vấn đề của công nghệ.

Về phần họ, các chuyên gia cho rằng công nghệ giáo dục như là một quá trình và thực hành trí tuệ hướng vào các nhu cầu của người học và của giảng viên để cho họ xác định một cách chính xác các mục đích học tập và các phương tiện đạt được các mục đích đó (Stolovitch và La Rocque, 1988; Lapointe, 1993). Cuối cùng, Thomas và Kabayashi (1987) cho rằng công nghệ giáo dục là một quá trình tích hợp phức tạp nhờ đó các vấn đề được liên kết với nhau về tất cả các mặt của việc học tập được khái niệm hóa, phân tích, thiết lập, và giải quyết thông qua sự tương tác giữa con người, kỹ thuật, ý tưởng và các nguồn tư liệu trong phạm vi của một tổ chức.

Với những định nghĩa này, người ta nhận thấy rằng, khác xa với việc xem công nghệ giáo dục chỉ như là việc sử dụng các phương tiện truyền thông và các công cụ khác cho các mục đích giảng dạy, như một số người nào đó thường nghĩ, công nghệ giáo dục hơn thế là quá trình khoa học nhờ đó nguồn lực vật chất và nguồn lực con người được sử dụng để nâng cao hiệu quả trong việc giảng dạy, đào tạo và học tập. Bây giờ chúng ta cùng xem xét công nghệ như một sản phẩm và như một quá trình có ý nghĩa gì.



Công nghệ như là một sản phẩm

Công nghệ như một sản phẩm là kết quả cuối cùng của việc áp dụng có hệ thống tri thức khoa học trong việc tìm ra lời giải cho một vấn đề cụ thể. Như một sản phẩm, công nghệ giáo dục có thể bao gồm các quy trình, thực tế và tư liệu giảng dạy. Vì vậy, đầu vào của sự phát triển công nghệ một mặt bao gồm các sản phẩm phi vật chất (học tập theo chương trình, việc học tập được cá nhân hóa, các kỹ năng giảng dạy, sử dụng máy tính trong học tập, giáo dục có trợ giúp bằng máy tính, đề cương bài giảng hoặc chương trình giảng dạy, các phương tiện truyền thông, vv,…) mặt khác chúng bao gồm các sản phẩm vật chất như máy vi tính, hệ thống máy vi tính, máy ghi hình, máy thu thanh và máy thu hình, đầu video, máy ghi âm, máy chiếu overhead, máy chụp phim ảnh, v.v…)

Một số tác giả đưa thêm vào danh sách của các sản phẩm như ngôn ngữ, túi đựng đồ viết, bút chì, giấy, báo chí và phim ảnh. Cuối cùng, những công cụ này tạo điều kiện thuận lợi cho nền giáo dục và việc học tập cũng như làm tăng thêm sự thực hiện từ chi phí của giáo dục.

Công nghệ như là một quá trình

Nhìn từ góc độ năng động của quá trình, công nghệ giáo dục là một cách tiếp cận cho việc tìm kiếm và cải thiện các giải pháp vì thế nó không thể liên quan với các sản phẩm của công nghệ nói trên. Do vậy nó bao gồm các chức năng liên quan đến việc quản lý của các tổ chức giáo dục và các nguồn nhân lực, việc nghiên cứu (thiết lập các lý thuyết, các phương pháp lý thuyết và thực hành liên quan đến các kỹ thuật của giáo dục và việc học tập), hoạt động hành chính kế hoạch, và việc sử dụng các hệ thống đã được thiết lập (Gagne, 1987; Winn, 1991; Lapointe, 1993).



Hơn nữa, đó là những chức năng khác nhau, cùng với sự phân tích và thiết kế có hệ thống nó phân biệt công nghệ giáo dục với các cách tiếp cận truyền thống. Nói một cách khác, công nghệ giáo dục là:

  • Có tính hệ thống, với ý nghĩa là nó được sử dụng kỹ thuật đã được hợp lý hóa và được kết cấu hầu như ngược lại với các hoạt động đã được tổ chức một cách trực giác, tình cờ hoặc không có sự quản lý thích hợp. (Stolovitch và La Rocque, 1998)

  • Dễ truyền đạt, vì bất kỳ một phương tiện truyền thông nào đã được sử dụng đều được định hướng theo các mục tiêu của kế hoạch giáo dục đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế, và tăng cường hiệu suất của mô hình đã được lựa chọn;

  • Có tính khoa học, đến một chừng mực mà tất cả các quyết định về việc thiết kế và lựa chọn của các phương tiện truyền thông cũng mang ý nghĩa của các mục tiêu và kế hoạch giảng dạy và phù hợp với hầu hết các kết quả đã được chứng minh của quá trình học tập;

  • Tính tổng thể, vì nó cho phép phân tích thường xuyên các vấn đề của việc học tập trong tổng thể của nó. Như vậy, trong một quá trình tổng thể mỗi một lời giải cho một vấn đề bao gồm các phần liên quan với nhau và được điễn đạt một cách riêng biệt như một phần của vấn đề đã được đặt ra.

Cách tiếp cận tổng thể là một biện pháp của việc xem xét toàn bộ không tách biệt, một tập hợp các phần tử tác động với nhau trong một môi trường đã cho để khuyến khích việc học tập (Stolovitch và Keeps, 1993; Galavaglia, 1993). Về mặt phương pháp luận, Stôvitch và La Rocque (1998) cho rằng tiếp cận tổng quát xem như một quá trình liên kết với việc lập kế hoạch và hoạt động của một hệ thống đã được nhận dạng và phân tích. Những khái niệm cơ bản của cách tiếp cận này là:

  • Hiện tượng tự điều chỉnh hoặc phản hồi;

  • Bộ phận điều khiển tiếp nhận thông tin; và

  • Năng lượng đòi hỏi cho sự hoạt động của hệ thống và tăng cường khả năng thích ứng của nó đối với môi trường xung quanh.

Do vậy, bất kỳ một tương tác nào không thích hợp giữa bộ phận điều khiển và cơ cấu phản hồi hoặc bất kỳ một sự điều chỉnh không thích hợp sẽ làm mất hiệu lực và tan rã hệ thống. Hơn nữa, công nghệ giáo dục đòi hỏi ba pha hoạt động để thiết lập nên một hệ thống đó là các pha: phân tích, thiết kế và đánh giá (Gagne, 1987; Gagne và Glaser, 1988; Stolovitch và Keeps, 1993).

  • Pha phân tích tiến hành trước giai đoạn thiết kế mô hình và bao gồm bảy giai đoạn trong đó có năm giai đoạn bao trùm lên bản thân pha phân tích (phân tích sơ bộ, phân tích khách hàng ưu tiên, phân tích tình huống),hai giai đoạn còn lại bao trùm lên các hoạt động tóm tắt:

  1. Phân tích sơ bộ bao trùm lên giai đoạn mà các nhà công nghệ xác định sự khác nhau giữa nhu cầu thực của khách hàng ưu tiên với các kiến thức đã thu được và các kiến thức cần phải thu được;

  2. Trong việc nghiên cứu người nghe ưu tiên, các nhà công nghệ tự mình làm quen với người học thông qua thái độ và đặc trưng của họ mà rất có thể tác động qua lại với các phần tử khác của mô hình;

  3. Trong giai đoạn phân tích tình huống, các nhà công nghệ không chỉ xác địnhnhững điều kiện hoàn cảnh và môi trường gắn với tình huống giáo dục mà họ còn trình bày một cách rõ ràng hơn nhờ các số liệu đã thu thập được để đánh giá một số mặt mà dựa vào đó mô hình sẽ được thiết kế hài hoà và tự nhiên;

  4. Phân tích việc cho phép các nhà công nghệ nghiên cứu sâu hơn những thông tin giảng dạy sẽ được truyền đạt tới người học;

  5. Phân tích khái niệm gồm có việc kiểm tra nội dung để xác định được những khái niệm cơ bản;

  6. Stolovitch và Keeps (1993) đề nghị chuẩn bị một chương trình tóm tắt, lập kế hoạch hoạt động và kết quả của những phân tích đã tiến hành trước đây;

  7. Dù cho việc phân tích được dự tính cho một khoá học hay một tiết giảng, trước khi chuẩn bị báo cáo đánh giá, nhà công nghệ cần phải chuẩn bị một cách có hệ thống dưới dạng biểu đồ, bảng kê tất cả các hoạt động chính yếu cần phải hoàn thành, cùng với thời gian, địa điểm và các các tổ chức liên quan.

  • Trong suốt pha thiết kế, nhà công nghệ chỉ rõ mục đích của việc học tập, chuẩn bị các tiêu chí đánh giá (test), xác định phương pháp giảng dạy, chiến lược và khung; Nhà công nghệ cũng lựa chọn các phương tiện truyền thông và hệ thống trình bày, chuẩn bị bản thảo thiết kế, thực hiện công việc chuẩn bị và lập kế hoạch tạo ra sản phẩm mẫu. Nhà công nghệ vì thế xem xét pha này như một cơ hội để đưa ra mô hình hoạt động mà thông thường bao gồm các giải pháp cho các vấn đề đã được xem xét.

  • Pha thiết kế tiến hành trước giai đoạn đánh giá thiết kế, việc bố trí và giám sát trong giai đoạn này có thể phát hiện được những bất thường và phải điều chỉnh trước khi đưa hệ thống vào vận hành. Để đề phòng những nguy cơ hư hỏng tiềm ẩn, nhà công nghệ cần phải kiểm tra mẫu với sự trợ giúp của các chuyên gia hoặc đồng nghiệp và điều chỉnh trước khi sản phẩm cuối cùng được thông qua, phân phối và lắp đặt-như đã được Stolovitch và La Rocque (1998) và Stolovitch và Keeps (1993) đã đưa ra. Để đảm bảo tiến hành trôi chảy giai đoạn này, phải thực hiện đầy đủ tất cả các giai đoạn trước nó.

Tóm lại, những định nghĩa đã nêu ra trong bài viết không làm khái niệm công nghệ giáo dục được hiểu dễ dàng hơn. Trong khi một số tác giả đưa ra những định nghĩa của họ dựa trên ứng dụng các thành tựu khoa học và quá trình thực nghiệm nhờ đó kiến thức đạt được, thì một số khác đưa ra các định nghĩa của họ dựa trên các kỹ năng cần có trong việc sáng tạo, thiết kế, sử dụng và cải thiện phương pháp giảng dạy. Tuy nhiên, dựa trên sự phân tích, các bài viết cho thấy rằng công nghệ giáo dục không chỉ là một đối tượng vật chất. Nó có thể là một sản phẩm (vật chất hoặc phi vật chất) cũng như có thể là một quá trình. Nó cũng cho phép ứng dụng có hệ thống các hoạt động lý thuyết và thực tiễn để có thể áp dụng và thiết kế các phương pháp giảng dạy có hiệu quả nhất dựa trên một tập hợp các mục đích và chương trình giảng dạy dựa vào đó công việc giảng dạy được tiến hành. Công nghệ giáo dục cũng đòi hỏi việc sử dụng tất cả các nguồn lực sẵn có (nhân lực, vật lực và các phương tiện truyền thông) để đạt được các mục đích. Cuối cùng, trong mức độ cho phép, công nghệ giáo dục đòi hỏi các quyết định giáo dục phải được dựa trên các kết quả nghiên cứu và trước tiên phải tập trung vào việc cải thiện và tạo điều kiện cho việc học tập.

Bài trình bày vắn tắt này về những khái niệm liên quan đến công nghệ giáo dục mà chúng tôi vừa đưa ra có ý định giải thích công nghệ này là gì (như đã nêu ở phần trên). Đó sẽ là điều bổ ích để quan tâm công nghệ giáo dục có thể đem đến những gì cho các đang phát triển. Tuy nhiên, nghiên cứu về sự thích hợp của công nghệ giáo dục đối với các nước đang phát triển chắc hẳn đặt ra vấn đề về sự truyền tải của nó.



Được trích dẫn từ:

Yapi, A. (1997). Sự liên quan của công nghệ giáo dục trong các nước đang phát triển. UNESCO-AFRICA, 14/14, 43-53.

Bài tập


Công nghệ giáo dục như một sản phẩm và như một quá trình đã tác động đến việc giảng dạy của bạn như thế nào?

Kể ra ba cách mà bạn đã sử dụng trong công nghệ giáo dục (a) như một quá trình; và (b) như một sản phẩm, trong việc giảng dạy của bạn.


Những công nghệ thông tin mới trong giáo dục và vai trò mới đối với giảng viên

N. C. NWABOKU

Mục đích đầy đủ của một hệ thống giáo dục là truyền thông hiệu quả thông qua các hệ thống con của công tác giảng dạy như là truyền tải thông tin, kiến thức, kỹ năng, những giá trị và thái độ từ một nguồn đến người nhận thông tin; xoá bỏ khoảng cách giữa các thế hệ của người học. Mục đích chính của truyền thông là tác động vào người nhận thông tin. Tác động đến người học, và do vậy tác động đến xã hội, tương lai của xã hội sẽ luôn được quan tâm đến.

Công nghệ là một nhân tố làm thay đổi không ngừng tương lai của xã hội theo các khuynh hướng thường không thể đoán trước. Đây là một thành tố mà sự tiến bộ của nó làm nên những sự khác biệt trong sự phát triển cho tất cả các dân tộc trên toàn thế giới. Công nghệ cũng tạo ra sự khác biệt giữa các lĩnh vực khác nhau của xã hội trong đó giáo dục là lĩnh vực sau cùng. Người ta có thể nói rằng ở châu Phi, như hiện nay được biết, công nghệ thực sự vắng mặt trong lĩnh vực giáo dục.

Những sự phát triển gần đây trong công nghệ, đặc biệt là công nghệ máy tính đã tạo cơ sở cho sự phát triển nhảy vọt trong mọi lĩnh vực. Vì thế giáo dục đang đứng trước nguy cơ mất tiếp xúc với thế giới thực tại trong tương lai không xa. Tốc độ tiến bộ của công nghệ máy tính và những sự thay đổi đã thức tỉnh truyền thông và “hoạt động” của nó không thể bị phớt lờ trong lĩnh vực giáo dục vì hai lý do: giáo dục liên quan và phụ thuộc vào các hệ thống truyền thông, và thứ hai là giáo dục chuẩn bị cho xã hội tương lai một thế giới việc làm. Bài viết này bàn về biểu hiện của công nghệ trong lớp học, và vai trò của giảng viên trong việc chuẩn bị cho người học đến với thế giới công nghệ.


Tại sao sử dụng công nghệ trong giảng dạy?


Việc giới thiệu và sử dụng các công nghệ thông tin trong giảng dạy ở các trường học có thể phục vụ cho mục đích kép; cho việc tiếp nhận và biến đổi văn hóa và thứ hai là cho việc giảng dạy có hiệu quả hơn. Đối với mục đích tiếp nhận và biến đổi văn hóa, người học đang được chuẩn bị thế giới định hướng công nghệ cần thiết phải sớm say mê với nó. Công nghệ là một thế giới văn hóa mới, và giống như các văn hóa khác tốt nhất là được tiếp thu từ ngay từ ban đầu. Điều này có thể đảm bảo rằng các trường học không sản sinh ra những người mất khả năng điều chỉnh (về mặt công nghệ). Bằng việc sử dụng các công nghệ thông tin (mới hoặc cũ) các trường học có thể đối mặt được với thực tế là người học có thể hoạt động trong xã hội phụ thuộc vào công nghệ. Cần thiết phải định hướng cho những suy nghĩ và thái độ của người học thông qua công nghệ. Đối với người học ở bất kỳ trình độ nào để tìm kiếm thông tin thông qua công nghệ phải có sự nhận thức và xác định được nhu cầu. Chỉ khi nào mỗi các nhân có thể đầu tư vào công nghệ và sử dụng chúng thì việc sử dụng các công nghệ thông tin mới chắc chắn đảm bảo sự sống còn. Trong khi những người lớn tuổi phải chấp nhận những khó khăn trong việc sử dụng những công nghệ mới, những người trẻ tuổi có thể học, và cần phải được tạo điều kiện để học tập dễ dàng và tự nhiên bằng việc tiếp cận sớm với các công nghệ này.

Công nghệ là về “máy móc”. Máy móc làm cho công việc trở nên dễ dàng hơn, có thể hoàn thành nhiều công việc trong thời gian ngắn hơn. Do vậy, có thể cho rằng việc sử dụng công nghệ trong giảng dạy có thể mang lại hiệu quả tốt hơn cho hệ thống giảng dạy. Điều đó có thể đạt được theo những cách sau:



  • Mở rộng các phương thức học tập (quá dư thừa nguồn)

  • Bổ xung thêm các giải pháp hiện thực đối với việc học tập (tính cụ thể)

  • Tăng thêm phạm vi nhận thức của người học (tính trực tiếp)

  • Khuyến khích người học bằng cách làm cho việc học tập dễ dàng hơn, hấp dẫn hơn, và nhiều thách thức hơn.

  • Cho giảng viên nhiều cơ hội và thời gian để tiếp thu và cải thiện giảng dạy của mình.

  • Làm cho việc lưu trữ kết quả học tập và đánh giá dễ dàng hơn.

Nói chung việc giới thiệu các công nghệ mới trong giáo dục có thể cung cấp cho giáo dục nhiều hệ thống học tập hữu hiệu hơn. Bản thân công nghệ tạo nên những thông tin mới theo tốc độ hàm số mũ và chỉ có thông qua công nghệ mới có được một lượng lớn thông tin có sẵn để có thể khai thác và tiếp cận trong việc học tập.

Những gì có trong các công nghệ mới?


Tất cả những sự phát triển mới đây trong công nghệ đang cách mạng hóa xã hội. Máy in cho ra đời cuốn sách đầu tiên vào năm 1456 và nó đã phá vỡ thế độc quyền về tri thức và thông tin. Việc đó dẫn đến việc thành lập các thư viện, và các hệ thống lưu trữ và truy xuất thông tin có hiệu quả hơn. Nhiếp ảnh cũng tạo ra một cuộc cách mạng trong các hệ thống thông tin, nó cung cấp phương tiện để nắm bắt được các thông tin nhìn thấy được ở trên giấy và đưa tới những sự phát triển như phim động, phim tĩnh, photocopy,v.v… Nhiếp ảnh đã dẫn đến những phát triển xa hơn đưa vào giáo dục thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như vô tuyến truyền hình.

Sự phát triển trong truyền thông đại chúng mà chủ yếu là truyền thanh và truyền hình, có tác động nhiều đến giáo dục, tạo ra khả năng học từ xa, viễn thông cũng đã tạo ra các hệ thống điện thoại và các hệ thống vệ tinh làm cho thế giới thành một lớp học mở. Sự kết hợp của tất cả các công nghệ này tạo ra những cơ hội vô tận cho hệ thống giáo dục.

Sự phát triển của máy tính điện tử từ các hệ thống số trước đây (như máy tính bấm tay) đã đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc cách mạng công nghệ. Đó là vì máy tính điện tử có khả năng xử lý thông tin từ tất cả các hệ thống một khi thông tin đã được số hóa. Máy tính điện tử kết hợp tất cả các ưu thế của các công nghệ thông tin khác, xử lý thông tin ở tốc độ cao, tạo ra các thông tin mới và biến đổi thông tin từ hệ thống mã hóa này sang hệ thống mã hóa khác được sử dụng trong việc kết nối với bất kỳ một công nghệ khác. máy tính điện tử cũng cung cấp những khả năng không hạn chế trong việc xử lý thông tin và tạo thông tin. Máy tính điện tử cũng có thể được sử dụng để phát triển mạnh hơn các hệ thống thông tin khác.

Mối quan hệ cơ bản của máy tính điện tử cho giảng dạy không chỉ là việc xử lý dữ liệu mà khả năng của nó còn thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hơn cho tất cả các hệ thống thông tin khác. Ví dụ, nhiếp ảnh có thể được cải thiện bằng việc sử dụng các máy chụp ảnh kỹ thuật số mà nó có thể tự động điều chỉnh độ sáng và khoảng cách đến đối tượng. Từ góc độ này công nghệ thông tin mới trong giáo dục bao gồm:

Quá trình truyền thông của cầu truyền hình kiểu hội nghị từ xa (teleconference), dạy học qua điện thoại, viết từ xa.

Những sự phát triển vượt bậc trong việc sản xuất hình ảnh động trong các băng và đĩa hình kết hợp với máy tính điện tử tạo ra các hệ thống hình ảnh tương tác.

Các hệ thống âm thanh tương tác.

Các hệ thống phát tin gồm cả vệ tinh, thông qua đó các chương trình giảng dạy và thông tin có thể đến được từ khoảng cách xa bằng sóng radio và các các hệ thống vi ba v.v...

Bảng trắng (bảng điện tử) và,

Cuối cùng là máy tính và phần mềm máy tính.

Khi các công nghệ thông tin mới được thảo luận tất nhiên nhiều sự chú ý tập trung vào máy tính do tính chất đa năng của nó. Những ưu điểm của nó trong việc kết hợp với các công nghệ khác bao gồm:

Cho tốc độ cao trong việc xử lý thông tin.

Khả năng thích ứng với nhiều kiểu định dạng và các hệ thống mã hóa.

Tiềm năng lớn trong việc xử lý và lưu trữ thông tin.

Thuận lợi trong việc định dạng các gói thông tin (đĩa compact…)

Các kỹ thuật thao tác khá dễ dàng.

Chi phí của công nghệ khá thấp.

Thích hợp với các điều kiện và cách thức của người sử dụng.

Máy tính điện tử thu hút được sự chú ý bởi vì nó được đánh giá như là tác nhân thay đổi chính cho tương lai. Người ta dự tính rằng trong tương lai gần đa số các công việc sẽ được làm thông qua máy tính vì thế máy tính như một công nghệ trở thành một đối tượng quan trọng đối với hệ thống giáo dục.

Giới thiệu các kỹ thuật thông tin mới cho hệ thống trường học ở châu Phi

Trong hệ thống trường học, máy tính có thể sử dụng như một môn học, như một phương tiện truyền thông, và như một công cụ cho hoạt động sáng tạo. Học sinh phổ thông học về máy tính như một môn học. Đây là tri thức và kỹ năng sử dụng máy tính. Trong tương lai người nào không có khả năng sử dụng máy tính có thể sẽ bị hạn chế như việc không có khả năng đọc và viết. Điều trở nên quan trọng là trong lứa tuổi này để học cách sử dụng cơ bản của máy tính, học cách vận hành, học cách sử dụng các phần mềm máy tính, và học cách phát triển phần mềm cho các mục đích khác nhau.

Như một phương tiện truyền thông, máy tính được sử dụng cho việc giảng dạy và học tập. Đó là giảng dạy có trợ giúp bằng máy tính (CAI). Những kiến thức của máy tính và nội dung giảng dạy đã được lên chương trình và được sử dụng để tạo ra các chương trình máy tính cho việc dạy học. Nó có khả năng lập nên các chương trình cho các nhu cầu của từng cá nhân. Người học có thể đưa ra yêu cầu của chính bản thân họ, hoặc sử dụng các chương trình ở trường học hoặc ở nhà của họ. Giảng viên có thể sử dụng các bài giảng theo chương trình chuẩn hoặc tạo ra tài liệu dạy học của mình. CAI bổ sung thêm rất nhiều vào tính linh hoạt của các hệ thống học tập.

Như một công cụ cho hoạt động sáng tạo, người học sử dụng máy tính để đưa ra ý tưởng của họ kiểm tra thử các phương pháp hoặc đề tài mới, thí nghiệm với chúng, và sáng tạo ra các khái niệm mới. Trong hình thức này máy tính cũng được sử dụng như một công cụ để giải các bài toán, tính toán, xử lý và phân tích số liệu.

Trong hệ thống trường học chính thức của châu Phi vùng cận sa mạc Shahara, ba ứng dụng trên của máy tính cho đến nay đã thu được một số kết quả. Tuy nhiên, bên ngoài hệ thống trường học chính thức, đa số các nước nhận thức được tầm quan trọng của máy tính điện tử trong sự phát triển của “các trường học máy tính”. Trong các nước như Nigeria và Senegal các trường học loại này là khá phổ biến và đang mang lại cho người học ở ngoài nhà trường là những người muốn có cơ hội bảo đảm cho một việc làm tốt hơn. Trong các lĩnh vực đào tạo thư ký, năng lực sử dụng máy tính thường trở thành một sự đòi hỏi. Trong lĩnh vực tư nhân người ta thấy rằng máy tính đã tạo ra những giải pháp và hầu hết các công ty, đặc biệt là các công ty tài chính phụ thuộc một cách nặng nề vào máy tính và các hệ thống máy tính. Điều đó cho thấy sự cần thiết của các công nghệ thông tin mặc dù tình trạng nghèo nàn về kinh tế của chúng ta. Điều chưa được rõ ràng là nguyên nhân nào đang cản trở việc phổ biến công nghệ vào các hệ thống trường học.

Ràng buộc chính trong việc đưa các chương trình máy tính vào các hệ thống trường học trong các nước đang phát triển đó là sự hạn chế về tài chính. Ngân sách giành cho giáo dục thường bị kêu ca là quá cao. Các công nghệ học tập cũ hơn được đề cập ở phần trước trong bài viết này chưa được khai thác nhiều trong các hệ thống các trường công lập. Do đó dường như để kỳ vọng rằng máy tính sẽ có thể được cung cấp cho trường học. Có thể khép lại những tranh luận về vấn đề này, thế nhưng giống như tất cả các vấn đề khác mà hiện nay hệ thống giáo dục của chúng ta đang phải đối mặt là không còn nhiều cơ hội cho việc lựa chọn. Nếu các hệ thống giáo dục không đẩy mạnh tốc độ phát triển tương xứng với sự phát triển của các lĩnh vực kinh tế-xã hội khác, nền giáo dục trong khu vực sẽ trở nên không thích hợp cho các nhu cầu của xã hội. Đặc điểm của máy tính điện tử như một công cụ cho mọi mục đích cũng có thể báo hiệu thảm hoạ cho bất kỳ một dân tộc nào không nắm bắt những lợi ích của chúng.

Kết luận ở đây là xem các điều kiện ràng buộc về tài chính như một lý do bào chữa cho việc không cải thiện các hệ thống trường học của chúng ta đã tới hồi kết. Đây là lúc đưa công nghệ vào các hệ thống trường học của châu Phi. Trong phạm vi đã quy định của tin học và các công nghệ khác trong việc giảng dạy, các câu hỏi được nêu ra ở đây là bắt đầu ở đâu? bắt đầu như thế nào?, và bắt đầu với ai?. Bài viết này đề xuất hành động phải bắt đầu ngay bây giờ là tăng cường các chương trình xoá mù tin học cho giáo viên. Có rất nhiều cách trong đó tính cấp thiết của đòi hỏi mới này đối với giáo viên có thể gây ấn tượng cho tất cả những ai quan tâm.

Các chương trình ngắn hạn về xoá mù máy tính cần phải được tổ chức cho giáo viên bằng việc học tại các trường dạy máy tính của tư nhân được thành lập. Chi phí chi trả cho khóa học cần được thương lượng và chia sẻ giữa những giáo viên và người quản lý họ.

Chương trình xoá mù máy tính có thể tạo điều kiện cho sự thăng tiến, cho việc tăng tiền thù lao. Với cách này giáo viên sẽ buộc phải tận dụng những cơ hội ở các trường học máy tính tư nhân giống như bất kỳ một trường công lập nào.

Việc đào tạo tại chức lựa chọn có thể được tổ chức cho giáo viên trong việc sử dụng máy tính. Những việc làm trên có thể tạo ra các chuyên gia máy tính trong hệ thống các trường học những ngươì có thể dạy lại cho các giáo viên khác việc sử dụng máy tính trong công việc khi có điều kiện.

Việc đào tạo giáo viên bằng bất kỳ một phương thức nào là bước khởi đầu trong việc đưa máy tính vào các trường học. Những giáo viên này có thể tham gia vào việc quyết định thiết bị và phần mềm nào cần phải trang bị trong các trường học, và chương trình học tập mới nào cần phải giới thiệu cho việc sử dụng máy tính. Việc đào tạo sử dụng máy tính cho tất cả sinh viên cần phải được khuyến khích cho cả bậc đào tạo đại học. Những khóa học về khoa học máy tính cần phải bao gồm các khóa học về sử dụng máy tính, và các khóa học về giảng dạy có trợ giúp bằng máy tính cho các sinh viên sư phạm bằng tốt nghiệp thứ nhất và ở cả bằng cấp cao hơn.

Có thể tổ chức các chương trình phổ cập máy tính cho giáo viên và học sinh của các trường trung học bằng việc sử dụng các trại thanh niên và các cơ sở giải trí của thanh niên. Điều quan trọng là phải sử dụng tất cả các phương tiện sẵn có để xoá mù tin học cho mọi người trong một thời gian ngắn. Việc sử dụng truyền hình công cộng cũng coi như một giải pháp. Để có được máy tính, phần cứng và phần mềm cho các trường học cần có những cam kết nhiều hơn về mặt tài chính của chính phủ. Các hãng tài trợ, các tổ chức phi chính phủ, cha mẹ sinh viên và cả cộng đồng cần được thu hút vào vấn đề này.

Để tránh lãng phí các nguồn lực và sự cố gắng trong việc đưa chương trình phổ cập máy tính vào các trường học cần phải phân biệt các chương trình đào tạo chuyên nghiệp, đào tạo nghề và giáo dục phổ thông. Chương trình cần phải được tăng cường cho các trường học là chương trình máy tính cơ bản. Dự định này cần phải tạo ra ngay trong nhận thức, và tác động vào thái độ của giáo viên và người học sử dụng máy tính. Các chương trình giáo dục máy tính chuyên nghiệp và nghề cần phải dành cho các trường đào tạo nghề và dành cho các khóa học về khoa học và công nghệ máy tính với trình độ thích hợp.

Việc nhấn mạnh vào mức độ cao hơn của việc sử dụng máy tính trong các trường học như CAI và việc sử dụng máy tính trong các hoạt động sáng tạo, và nghiên cứu có thể là nguyện vọng chính đáng song không nên đưa ra ở giai đoạn mà trình độ máy tính cơ bản còn rất thấp và các chuyên gia trong các lĩnh vực công nghệ giáo dục thực sự còn đang thiếu. Bước đầu tiên trong định hướng đó phải là việc đào tạo nhân lực ở trình độ cao trong việc chuyên môn hóa và năng lực ứng dụng máy tính trong các trường học.

Việc sử dụng máy tính cho việc quản lý, đánh giá, và lưu trữ hồ sơ cần được quan tâm như tất cả các phương tiện giáo dục khác về các mặt liên quan đến việc sử dụng chúng trong giảng dạy (CAI).Thực tế là không có một kết quả nghiên cứu nào cho thấy máy tính như là một phương tiện giảng dạy trội hơn hẳn các phương tiện giáo dục khác.

Hệ thống trường học của chúng ta cần phải tìm kiếm ngoài máy tính trong việc sử dụng công nghệ giảng dạy. Một công nghệ rất quan trọng và hiệu quả mà hệ thống các trường học châu Phi đã không tận dụng lợi thế của nó đó là nhiếp ảnh và các sản phẩm của nó. Hình ánh động đã được tạo ra trong rất nhiều năm qua và có nhiều tác dụng trong các sản phẩm mới nhất của nó. Băng và đĩa hình rất phù hợp cho các loại hình học tập khác nhau. Việc ghi lại và lấy ra các thông tin không đòi hỏi nhiều trong việc huấn luyện sử dụng. Các đĩa hình là các đĩa compact đòi hỏi rất ít không gian chứa thông tin. Bài viết này muốn giới thiệu việc bố trí sưu tập băng và đĩa hình cho các thư viện của nhà trường ở mọi cấp độ mà tư liệu hình phải là phần rất quan trọng của nó. Tư liệu hình cũng là phần mềm quan trọng cho giáo dục từ xa.

Các nước ở khu vực châu Phi cần phải củng cố vững chắc các công nghệ đã được đưa vào các hệ thống giáo dục của họ. Những nghiên cứu chỉ ra rằng các chương trình truyền thanh và truyền hình giáo dục đã được sử dụng ở hầu hết các nước đang phát triển và như là những phương tiện tiếp cận với người học ở các vùng sâu vùng xa và việc cắt giảm chi phí cho giáo dục. Bất kỳ một biện pháp nào dùng để cắt giảm chi phí giáo dục cần phải được trợ giúp và khai thác một cách triệt để. Đáng tiếc là đa số những đổi mới công nghệ này không được duy trì. Những nguyên nhân thất bại của các hệ thống có liên quan nhiều đến kinh nghiệm kỹ thuật về sử dụng và bảo dưỡng. Đại đa số các công nghệ này được đưa vào nhờ các viện trợ ở bên ngoài với trợ giúp kỹ thuật ban đầu. Cần thiết phải tiến hành lắp đặt công nghệ thông qua các chuyên gia địa phương. Nói một cách khác cái mà lục địa châu Phi cần như là điều kiện tiên quyết công nghệ cất cánh trong lĩnh vực đào tạo cũng như các lĩnh vực khác đào tạo các chuyên gia cho mình. Thật đáng tiếc trong lúc các lĩnh vực khác của nền kinh tế đang cố gắng cung cấp cho giáo dục những thứ mà họ cần lại đang phải đấu tranh với những chương trình đào tạo đặc biệt với các chuyên gia thiếu kinh nghiệm hoặc chẳng có một chuyên gia nào cả.

Được trích dẫn từ:

Nwaboku, N.C. (1997). Các công nghệ thông tin mới trong giáo dục và vai trò mới đối với năng lực của giảng viên. UNESCO-AFRICA 15/15, 30-37.

Những công nghệ cũ và mới

Trong hai mươi năm vừa qua, đã và đang có sự phát triển vượt bậc trong việc tạo ra một loạt những công nghệ với khả năng cải thiện chất lượng dạy và học (Taylor, 1995). Ngoài các công nghệ truyền thống như công nghệ in, phát thanh và truyền hình, các công nghệ mới sau đây mang đến những cơ hội nâng cao chất lượng giảng dạy: băng tiếng, băng hình, các chương trình học dựa vào máy tính, hình ảnh tương tác (đĩa và băng), CDTV, hội nghị qua việc truyền tiếng từ xa (Audio- teleconferencing), các hệ thống truyền thông hình tiếng (như Smart 2000), cầu truyền hình. Trong thời gian gần đây, các công nghệ đó đã được bổ sung bằng những cơ hội của sự tương tác và tiếp cận các nguồn thông tin thông qua hệ thống mạng truyền thông máy tính quen thuộc là “Internet”.

Công nghệ truyền thông tin một cách đơn giản dưới dạng các gói thông tin và hướng dẫn để sinh viên tiếp cận với những tri thức giáo dục. Vấn đề ở đây là chất lượng của nội dung giảng dạy hơn là những đặc điểm vốn có của phương tiện giảng dạy được sử dụng. Clark (1993) nhấn mạnh rằng những công nghệ giáo dục “chỉ là những chiếc xe chuyển những bài học nhưng không tác động đến thành tích của sinh viên nhiều hơn chiếc xe thùng chở thực phẩm để tạo ra sự thay đổi về dinh dưỡng của chúng ta” (trang 445). Taylor (1995) mở rộng cách nhìn này bằng cách đưa ra luận điểm là người giảng viên có thể có quanh mình một đội ngũ kỹ thuật viên, các nghệ sĩ đồ hoạ, các chuyên gia tính toán để làm thay đổi cách thức chuyên chở nội dung giáo dục mà không tạo ra một sự gia tăng đáng kể nào trong tính hiệu quả sư phạm. Quá trình then chốt để cải thiện chất lượng của việc dạy và học trong cách nhìn của Taylor (1995) là thiết kế chương trình giảng dạy là lĩnh vực đã và đang nhận được sự tăng cường đáng kể những lợi thế mới đây của khoa học giảng dạy, khoa học nhận thức, và trí tuệ nhân tạo, và các hệ thống chuyên gia đặc biệt. Quá trình thiết kế chương trình giảng dạy đòi hỏi sự phân tích kỹ lưỡng hệ thống kiến thức và kỹ năng nhận thức có liên quan mà chúng cung cấp cơ sở đánh giá chuyên gia cho một chương trình môn học cụ thể. Cách tiếp cận này đòi hỏi việc áp dụng các kỹ thuật như phân tích chức năng nhận thức, phát triển các khái niệm, và sản xuất tri thức (knowledge engineering).

Bảng 6.1 Các thế hệ của công nghệ giáo dục

Công nghệ

Những đặc điểm




Tính linh hoạt







Thời gian

Địa điểm

Tiến độ

Tương tác

Thế hệ thứ nhất-Mô hình trước khi có máy tính

  • In

  • Bảng viết







Không


Không

Thế hệ thứ hai-Mô hình Đa phương tiện truyền thông

  • In

  • Bảng viết

  • Băng tiếng

  • Băng hình

  • Học tập dựa vào máy tính (như CML/CAL)

  • Hình ảnh tương tác
















Không


Không

Không


Không





Thế hệ thứ ba-Mô hình học từ xa

  • Audioteleconferencing

  • Videoconference

  • Truyền thông hình tiếng từ xa (như Smart 2000)

  • Phát thanh/truyền hình và Audioteleconferencing




Không


Không

Không
Không



Không


Không

Không
Không



Không


Không

Không
Không









Thế hệ thứ tư-Mô hình học tập linh hoạt

  • Đa phương tiện truyền thông tương tác (IMM, CD-ROM)

  • Truyền thông Máy tính-Phương tiện (CMC, Email, Cosy…)













Nguồn: Okebukola (1997)

Như Okebukola (1997) đã lưu ý, những công nghệ tiếp cận linh hoạt cho phép sinh viên tiếp cận đến giảng viên một cách tuỳ ý, khi lối sống và thời gian cho phép. Cũng như vậy, sự truy nhập vào mạng Internet tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tương tác mà không mất đi lợi ích của cách tiếp cận linh hoạt, bởi vì nó có thể được sử dụng để hỗ trợ cho truyền thông không đồng bộ. Tính linh hoạt như thế, về phương diện sư phạm sẽ giúp sinh viên học tập tuỳ theo tiến bộ bản thân. Trong lúc xu thế phát triển học tập linh hoạt kiểu “công nghệ gián tiếp” không có khả năng thay đổi trong nhiều bối cảnh của giáo dục và đào tạo, điều cần nhấn mạnh là việc sử dụng nhiều phương tiện giảng dạy không tự động nâng cao được chất lượng của việc giảng dạy và học tập.



Những công nghệ truyền thống thường là điểm xuất phát của các công nghệ mới. Chúng bao gồm bảng viết phấn, bảng từ, đèn chiếu overhead và máy chiếu phim slide.

Một số gợi ý đối với việc sử dụng máy chiếu overhead (OHP)

  • Đặt máy chiếu ở vị trí tốt nhất cho hình ảnh được rõ ràng nhất, không quá gần để hình ảnh quá nhỏ đối với các vị trí ở cuối lớp học nhưng cũng không quá xa làm hình ảnh của phim bị méo.

  • Kiểm tra để chắc chắn rằng máy chiếu không che mắt sinh viên nhìn lên màn ảnh-yêu cầu sinh viên di chuyển nếu có vật che khuất phía trước.

  • Không nhồi nhét quá nhiều chữ trong một slide. Rất khó đọc nếu chũ quá nhỏ và các dòng không có khoảng cách đủ lớn. Sử dụng phông chữ lớn với nhiều không gian trống giữa các phần giúp cho sinh viên đọc và theo kịp thông tin.

  • Không nên chuyển slide quá nhanh. Giảm tốc độ chuyển slide bằng cách dừng lại để đặt các câu hỏi cho sinh viên.

  • Chỉ sử dụng mực xanh hoặc đen khi viết lên trên phim trong, viết mực màu đỏ và xanh lá cây có thể rất khó đọc đối với người ngồi ở cuối phòng học.

  • Nếu có thể, không nên tắt toàn bộ đèn ở trong phòng khi sử dụng máy chiếu overhead. Để lại một số đèn trong việc giúp cho sinh viên tỉnh táo, cũng như giúp học có thể nhìn khi ghi chép.

Một số ưu điểm và nhược điểm của các công nghệ mới trong giáo dục được tóm tắt trong bảng 6.2

Bảng 6.2 Những ưu điểm và nhược điểm của công nghệ mới trong giáo dục

Ưu điểm

Khiếm khuyết

  • Sử dụng khá dễ dàng như một tư liệu giảng dạy

  • Dễ dàng trong việc chạy thử và mô phỏng

  • Dễ dàng lưu trữ và xử lý số liệu

  • Dễ tiếp cận tài liệu

  • Truy cập thông tin nhanh

  • Dễ dàng truy cập với các chương trình bên ngoài

  • Thuận lợi trong giáo dục từ xa

  • Được sử dụng và phát triển có hiệu quả, các công nghệ mới chứng tỏ là công cụ mạnh và hiệu quả trong việc dạy và học.

  • Giúp cho giảng viên dạy được nhiều hơn và tốt hơn, và tích hợp được việc học tập của họ.

  • Nhóm họp một số lượng lớn các chuyên gia những người ở xa nhau về không gian và thời gian

  • Chi phí cao

  • khó khăn đối với người sử dụng và duy trì việc đào tạo nhân viên

  • Khó khăn trong việc cung cấp điện năng

  • Các nguồn lực không đồng đều để đến với phần cứng (máy) và phần mềm cần thiết cho việc phát triển công nghệ mới

  • Ngay cả nơi thiết bị có sẵn, thường xuyên có sự thiếu hụt các dịch vụ thích hợp (bảo trì, sử chữa và nâng cấp)

  • Giảng viên không được đào tạo thích hợp để hiểu khái niệm về sư phạm, việc học các công nghệ mới và việc sử dụng chúng.

  • Không sẵn có các nguồn tư liệu cho việc học tập và giảng dạy để hỗ trợ giảng viên.

  • Thiếu các kỹ năng và sự sáng tạo để phát triển sự trợ giúp cho các công nghệ mới (phần mềm)


Bài tập

  • Hiện trạng việc sử dụng các công nghệ mới trong cơ sở đào tạo của bạn là gì ?

  • Cần phải làm gì để cải thiện tình trạng đó ?

  • Những ràng buộc và cơ hội ?

Một số ứng dụng của các công nghệ mới

Giảng dạy/Học tập được trợ giúp bằng máy tính: Đây là việc sử dụng máy tính để trợ giúp quá trình giảng dạy/học tập. Mỗi một người học tuỳ theo tiến độ của chính họ và trên cơ sở của mỗi cá nhân riêng biệt.

Dạy học bằng mô phỏng: Đây là việc sử dụng máy tính để trình bày hoạt động của một hệ thống ở trạng thái hoạt động. Các chương trình mô phỏng bằng máy tính đầu tiên được phát triển cho việc đào tạo phi công. Chúng trình bày một cách chính xác các hoạt động được tiến hành bởi phi công trong trạng thái bay thực sự (như cất cánh, hạ cánh trong các điều kiện thời tiết khác nhau). Kỹ thuật này đã được áp dụng triệt để trong việc giảng dạy khoa học và công nghệ, trong kỹ nghệ, địa lý, sinh học, hóa học, và y học giúp cho giảng viên có thể giải thích các khái niệm và giúp cho sinh viên học tập tốt hơn.

Internet: Nhờ mạng lưới viễn thông kỹ thuật số, Internet khai thác siêu xa lộ thông tin mà hầu như cung cấp tức thời không hạn chế thông tin trong các lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Nhờ có khả năng tiếp cận đến kho dữ liệu khổng lồ, mạng Iternet trở thành công cụ nghiên cứu, dạy và học thực sự.

Truyền hình mạch kín:hệ thống trợ giúp giảng dạy truyền hình mạch kín giới hạn việc giảng dạy và thông tin chỉ dành cho những người học đã được nhận diện nhờ nối mạch qua cáp thông tin. Hệ thống giảng dạy này cho phép trình bày đồng thời một vấn đề cho một số lượng lớn người nghe. Kỹ thuật này có thể mang lại hiệu quả cao khi kết hợp với những sự hỗ trợ có lời và không lời và nếu nó có không gian cho người học.

Giảng dạy với trợ giúp vệ tinh: Sử dụng vệ tinh truyền thông cho phép người học ở xa-di chuyển thường xuyên và ở trong một khu vực rộng lớn có thể được hưởng những lợi ích của việc giảng dạy theo yêu cầu từ xa. Giảng dạy từ xa trở thành phương tiện rất hiệu quả của việc giảng dạy cho những khách hàng ở xa-di chuyển thường xuyên theo các nhu cầu cụ thể của họ về không gian và thời gian

Hãy nhận dạng trong bảng so sánh các công nghệ và sản phẩm được sử dụng trong các trường hợp sau đây:




Các công nghệ lấy giảng viên làm trung tâm (vai trò bằng lời nói)



Các công nghệ lấy người học làm trung tâm (vai trò không lời nói)




  • Phấn

  • Bảng đen




  • Máy thu hình

  • Máy tính điện tử





Các công nghệ mới khác được sử dụng trong giáo dục đại học là gì ?

Truyền hình

Internet (WWW)

Phim email

Video

Fax


Máy ghi băng

Vệ tinh


Copy cơ sở dữ liệu/CD ROM

Máy chiếu màn hình tinh thể lỏng LCD

Hội nghị từ xa/hội nghị hình

Máy chiếu overhead



Mức độ sẵn sàng để sử dụng các công nghệ này ?

Sẵn sàng ở mức độ của:



    • Khả năng cung cấp - Các kỹ năng

    • Thái độ - Quản lý

Chúng ta đã sẵn sàng như thế nào ?

    • Việc huấn luyện người sử dụng đã được yêu cầu

    • Các chiến lược bảo trì

    • Cơ sở vật chất thích hợp (không gian, an toàn, điện, hỗ trợ,…)

    • Sự cần thiết làm cho cộng đồng làm tăng mức độ chấp nhận, bao gồm ban giám hiệu của các trường đại học.

Chúng ta tiến hành như thế nào ?

Những nhu cầu:



    • Đào tạo nhân viên sử dụng công nghệ.

    • Tiếp nhận công nghệ.

    • Thay đổi thái độ.

    • Có văn hoá duy tu bảo dưỡng.

    • Làm thích ứng các công nghệ với nhu cầu giảng dạy của chúng ta.

    • Lập những chương trình và phần mềm của chính chúng ta.

    • Giảng viên được giúp đỡ để có được máy tính

    • Cần phải có cơ sở hạ tầng chung cho công nghệ mới tại mỗi cơ sở giáo dục.

Một số đề nghị

      1. Đào tạo cho tương lai những người sử dụng các công nghệ mới và nổi bật.

      2. Cung cấp cơ sở vật chất, đảm bảo an toàn và bảo trì các công nghệ mới.

      3. Cung cấp những hướng đối với việc sử dụng và áp dụng.

      4. Cho phép các trường đại học, viện nghiên cứu mua phần cứng và phần mềm máy tính của chính họ.




Каталог: UserFiles -> Hoc%20Lieu%20Mo
UserFiles -> PHƯƠng pháp viết nghiên cứu khoa họC Ứng dụng sư phạM
UserFiles -> 29 Thủ tục công nhận tuyến du lịch cộng đồng
UserFiles -> BÀi phát biểu củA ĐẠi diện sinh viên nhà trưỜng sv nguyễn Thị Trang Lớp K56ktb
UserFiles -> BỘ XÂy dựNG
UserFiles -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
UserFiles -> BỘ XÂy dựng số: 10/2013/tt-bxd cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
UserFiles -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam kho bạc nhà NƯỚC Độc lập Tự do Hạnh phúc
UserFiles -> MÔn toán bài 1: Tính a) (28,7 + 34,5) X 2,4 b) 28,7 + 34,5 X 2,4 Bài 2: Bài toán
UserFiles -> CỦa bộ trưỞng bộ VĂn hóa thông tin về việc thành lập tạp chí di sản văn hóa thuộc cục bảo tồn bảo tàng bộ trưỞng bộ VĂn hóa thông tin
Hoc%20Lieu%20Mo -> Lịch SỬ phát triển kiến trúc công nghiệp thế giớI

tải về 1.84 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   19   20   21   22   23   24   25   26   ...   46




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương