1.2. Lý luận về định hƣớng nghề nghiệp và khó khăn tâm lý trong định
hƣớng nghề nghiệp
1.2.1. Định hướng nghề nghiệp
1.2.1.1.Khái niệm định hướng
Theo tác giả Phạm Huy Cường (2009): “Định hướng là xác định
phương hướng là việc chủ thể hành động đưa ra một hướng đi cho hoạt động
nào đó trên cơ sở cân nhắc kĩ khả năng, tài chính của từng đối tượng. Mục
18
đích cuối cùng của định hướng là có được một hướng đi phù hợp với mọi điều
kiện, hoàn cảnh khách quan và chủ quan của chủ thể”[3, tr10].
Trong nghiên cứu này, tác giả quan tâm đến việc những khó khăn tâm
lý của học sinh THPT dựa trên cơ sở, điều kiện, năng lực có sẵn của bản thân
như thế nào để chọn cho mình một ngành nghề tốt nhất cho bản thân.
1.2.1.2. Nghề nghiệp và định hướng nghề nghiệp
Nghề hay nghiệp, đại từ tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB văn
hóa thông tin – 1998) định nghĩa: “Nghề” là công việc chuyên làm theo sự
phân công của xã hội. Còn nghề nghiệp là nghề nói chung. Nghề nghiệp trong
xã hội không phải là cái gì cố định cứng nhắc mà phải coi nghề nghiệp như
một cơ thể sống có sự hình thành phát triển và thay đổi. Nghề là một lĩnh vực
hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có những tri
thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào
đó[18].
Theo tác giả Nguyễn Văn Hộ “Nghề nghiệp như một dạng lao động
vừa mang tính xã hội (sự phân công xã hội) vừa mang tính cá nhân (nhu cầu
bản thân)”. Trong đó, con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để
thảo mãn những nhu cầu nhất định của xã hội và của cá nhân[9, tr46].
Nghề nghiệp của con người có thể có thể do được đào tạo chính thức về
nghề đó vì nghề đòi hỏi một trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhất định. Cũng
có nghề được hình thành tự phát do tích lũy kinh nghiệm xã hội hoặc do
truyền và học nghề theo cách kèm cặp giữa người biết nghề và chưa biết
nghề. Các nghề này chưa có quá trình đào tạo có đặc trưng là người làm nghề
phải được cung cấp trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, làm ra sản phẩm để trao
đổi trên thị trường và thu nhập của người lao động chính là nguồn sống của
họ. Chính vì vậy, họ trở thành đối tượng hoạt động cơ bản, lâu dài của lý
tưởng nghề nghiệp.
19
1.2.1.3. Hướng nghiệp
Theo các nhà tâm lý học thì hướng nghiệp được hiểu là hệ thống các
biện pháp sư phạm, y học giúp cho thế hệ trẻ chọn nghề có tính đến nhu cầu
của xã hội và năng lực của bản thân. Các nhà kinh tế học thì cho rằng đó là
những mối quan hệ kinh tế giúp cho mỗi thành viên trong xã hội phát triển
năng lực đối với lao động và đưa họ vào lĩnh vực hoạt động cụ thể, phù hợp
với việc phân tích lao động xã hội.
Nhà tâm lý học K.Platônôp cho rằng: “Hướng nghiệp đó là hệ thống
các biện pháp tâm lý, giáo dục, y học nhằm giúp cho con người đi vào cuộc
sống thông qua việc lựa chọn cho mình một nghề nghiệp vừa đáp ứng nhu cầu
xã hội vừa phù hợp với hứng thú, năng lực của bản thân. Những biện pháp
này sẽ tạo nên sự thống nhất giữa quyền lợi của xã hội và quyền lợi của cá
nhân”.
Theo tác giả Phạm Tất Dong thì khái niệm hướng nghiệp được hiểu
theo hai bình diện:
- Về bình diện xã hội: Hướng nghiệp là một hệ thống tác động của xã
hội về giáo dục, y học, xã hội học, kinh tế học giúp cho thế hệ trẻ chọn được
nghề vừa phù hợp với năng lực, nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng và vừa phải
đáp ứng được nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế
quốc dân.
- Về bình diện phổ thông: Hướng nghiệp được coi là công việc tập thể
giáo viên, tập thể sư phạm, có mục đích giáo dục học sinh trong việc lựa chọn
nghề, giúp cho các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích
khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của xã hội[4].
Hội nghị lần thứ XI bao gồm những người đứng đầu cơ quan giáo dục
nghề nghiệp của các nước XHCN họp tại Cuba dựa trên những quan điểm,
nội dung xoay quanh vấn đề hướng nghiệp đã thống nhất về khái niệm hướng
nghiệp như sau: “Hướng nghiệp là hệ thống những biện pháp dựa trên cơ sở
20
tâm lý học, sinh lý học, y học và nhiều khoa học khác để học sinh chọn nghề
phù hợp với nhu cầu của xã hội. Đồng thời thỏa mãn tối đa nguyện vọng,
thích hợp với những năng lực, sở trường và tâm lý của cá nhân, nhằm mục
đích phân bổ và sử dụng hợp lý có hiệu quả lực lượng lao động dự trữ có sẵn
của đất nước”.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |