HÀ NỘI – 60 NĂm chiếN ĐẤU, XÂy dựng và phát triểN



tải về 208.94 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích208.94 Kb.
#28717
  1   2   3
HÀ NỘI – 60 NĂM CHIẾN ĐẤU, XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

(Tài liệu phục vụ hội nghị báo cáo viên Trung ương

tuyên truyền kỷ niệm 60 năm Ngày Giải phóng Thủ đô Hà Nội)

(10/10/1954-10/10/2014)

I. MỘT MỐC SON LỊCH SỬ

Kể từ “Chiếu dời đô” của Vua Lý Thái Tổ năm 1010 đến nay, Thăng Long - Hà Nội đã trải qua và chứng kiến biết bao sự thăng trầm của lịch sử. Quân và dân Hà Nội, thế hệ sau tiếp bước thế hệ trước, đã bền bỉ lao động, kiên cường tranh đấu, sáng tạo nên một nền văn hiến rạng rỡ, lập nên nhiều chiến công hiển hách lưu danh muôn đời.

Trong toàn bộ lịch sử phát triển của Thủ đô Hà Nội, ngày 10-10-1954 là một mốc son - một mốc son đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của Thực dân Pháp ở Việt Nam; thắng lợi oanh liệt của nhân dân Việt Nam trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; mở ra thời kỳ phát triển mới của Thủ đô và đất nước.

Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, nhân dân Hà Nội cả nước không có nguyện ước gì hơn là được sống trong hòa bình để xây dựng, phát triển Thủ đô và đất nước, nhưng thực dân Pháp với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 23-9-1945 chúng đã gây hấn Nam Bộ và sau đó phát động chiến tranh ra cả nước ta. Ngày 19-12-1946, đáp lời kêu gọi của củ tịch Hồ Chí Minh “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, quân dân Hà Nội đã nhất tề đứng lên đánh giặc cứu nước. Với cuộc chiến đấu 60 ngày đêm vô cùng oanh liệt, Hà Nội đã mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc một cách xứng đáng nhất: kìm chân và tiêu hao sinh lực địch tạo điều kiện để cơ quan đầu não và các lực lượng kháng chiến của ta tạm rút khỏi Hà Nội an toàn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Trung ương giao. Sau 9 năm ròng rã, không chịu đựng nổi sức chiến đấu ngoan cường, thông minh của quân dân ta, đặc biệt là sau thất bại trong trận quyết chiến chiến lược tại Điện Biên Phủ, thực dân Pháp buộc phải ngồi vào bàn thương lượng và ký hiệp định Giơnevơ (ngày 20-7-1954) công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia; chấp nhận phải rút quân khỏi miền Bắc Việt Nam.

Theo Hiệp định Giơnevơ, Hà Nội nằm trong khu vực tập kết 80 ngày của địch. Biết trước âm mưu của Pháp lợi dụng thời gian này để phá hoại các cơ sở kinh tế, văn hóa của ta, lôi kéo người di cư vào Nam, hòng làm cho khi Chính phủ ta khi trở về thành phố, Hà Nội trở thành trống rỗng, không có điện, nước, mọi công việc bị đình trệ,... chúng ta đã chủ động có kế hoạch đề phòng, đấu tranh, đồng thời chuẩn bị lực lượng về mọi mặt để tiếp quản Thủ đô một cách trọn vẹn.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và trực tiếp là Đảng ủy tiếp quản, các tầng lớp nhân dân Thủ đô, nòng cốt là công nhân, tự vệ các nhà máy, xí nghiệp, công sở, đã đấu tranh quyết liệt với địch, bảo vệ gần như nguyên vẹn máy móc, thiết bị, hồ sơ, nguyên vật liệu; đồng thời đấu tranh chống địch cưỡng ép di cư vào Nam. Cùng thời gian này, cuộc đấu tranh của ta trên bàn Hội nghị ngoại giao ở Phù Lỗ cũng giành thắng lợi, buộc thực dân Pháp phải chuyển giao thành phố cho ta theo đúng nguyên tắc đã quy định tại Hiệp định Giơnevơ.

Đúng 16 giờ ngày 9-10-1954, những tên lính Pháp cuối cùng đã rút qua cầu Long Biên; quân ta hoàn toàn kiểm soát thành phố.

Sáng ngày 10-10-1954, Ủy ban Quân chính thành phố và các đơn vị quân đội nhân dân gồm cả bộ binh, pháo binh, cao xạ, cơ giới,... chia làm nhiều cánh lớn đã mở cuộc hành quân lịch sử vào Hà Nội. Hai mươi vạn nhân dân Thủ đô náo nức trong rừng cờ đỏ sao vàng, với niềm vui sướng tột độ của những người đã gần 9 năm bị kìm nén sống dưới gót sắt của giặc nay được giải phóng, đã đón mừng đoàn quân chiến thắng trở về.

15 giờ chiều cùng ngày, hàng vạn nhân dân trang nghiêm dự lễ chào cờ do Ủy ban Quân chính tổ chức với sự có mặt của các đơn vị quân đội nhân dân tham gia tiếp quản thành phố. Cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên đỉnh Cột cờ cổ kính... Cả Hà Nội rạo rực niềm vui giải phóng, tự hào về sức mạnh hùng hậu của kháng chiến, vô cùng biết ơn Đảng và Bác Hồ kính yêu.

Hà Nội được giải phóng không chỉ là niềm vui mừng của người dân Thủ đô mà còn là một sự kiện lịch sử, một ngày hội lớn của nhân dân cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài. Nhân dân các tỉnh, các thành phố trong cả nước đều họp mít tinh, liên hoan chào mừng Thủ đô giải phóng. Bạn bè quốc tế, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới cùng chia vui với chúng ta, đưa tin và giới thiệu về chiến thắng vang dội của chúng ta.

II. HÀ NỘI TRONG THỜI KỲ XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT KỸ THUẬT CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC, ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (giai đoạn 1954 – 1975)

Bước vào xây dựng cuộc sống mới sau hòa bình, bên cạnh những thuận lợi, Hà Nội gặp không ít khó khăn do hậu quả của chế độ thực dân để lại. Công nghiệp nhỏ bé, không có gì đáng kể, cơ sở hạ tầng yếu kém. Những tệ nạn xã hội cũ rất nặng nề, hàng vạn người không có việc làm, hàng vạn người không biết chữ,.. Nhưng trong khí thế và niềm vui giải phóng, nhân dân Hà Nội đã hăng hái bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, phấn đấu làm cho tình hình mọi mặt của Thủ đô sớm đi vào ổn định và phát triển.

Trong 10 năm (1954-1964), Hà Nội tiến hành cải tạo và xây dựng với tinh thần tự lực cánh sinh, lao động cần cù, sáng tạo. Một trong những nhiệm vụ cấp bách là xóa bỏ các tệ nạn xã hội của một đô thị bị thực dân chiếm đóng, cải thiện đời sống của dân nghèo. Khi tiếp quản, Hà Nội có 194 khu xóm lao động với gần 2 vạn hộ sống trong điều kiện lầy lội, ăn uống, tắm giặt bằng nước ao tù. Trong vòng 5 năm đã xây dựng, sửa chữa gần 1 vạn gian nhà cho các khu xóm ấy (như ở Tương Mai, An Dương, Phúc Tân...). Cùng với các khu công nghiệp mới ra đời (như khu Thượng Đình, khu Minh Khai...), nhiều khu nhà tập thể được xây dựng (như Kim Liên, Nguyễn Công Trứ...), ở vùng nông thôn ngoại thành, những tàn tích của chế độ chiếm hữu ruộng đất và bóc lột đã được xóa bỏ. Nông dân được chia ruộng đất phấn khởi sản xuất và tham gia vào các tổ đổi công và các hợp tác xã. Toàn bộ công thương nghiệp tư bản tư doanh được cải tạo một cách hòa bình bằng hình thức công tư hợp doanh. Hàng loạt nhà máy, xí nghiệp mới mọc lên. Nhiều công trình thủy lợi vừa và nhỏ, nhiều nông trường, trại chăn nuôi được xây dựng. Mạng lưới giao thông được mở mang phát triển.

Đi đôi với việc xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội, nhân dân Hà Nội đẩy mạnh đấu tranh và chi viện đồng bào miền Nam chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Phong trào “Ngày thứ Bảy đẩy mạnh đấu tranh thống nhất Tổ quốc” do Nhà máy xe lửa Gia Lâm khởi xướng; phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt, vì Huế - Sài Gòn kết nghĩa” được các tầng lớp nhân dân Thủ đô nhiệt tình hưởng ứng. Vào những năm 1959, 1960, Hà Nội đã cử những người con thân yêu của mình vào tiếp sức cùng đồng bào miền Nam. Khi đế quốc Mỹ gây ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, cả Hà Nội càng sục sôi khí thế chống Mỹ, cứu nước. Thanh niên Thủ đô đã dấy lên phong trào “Ba sẵn sàng”; phụ nữ Thủ đô dấy lên phong trào “Ba đảm đang” và đã nhanh chóng lan ra trở thành phong trào chung của


fe

r¿¡¡>

cả nước, tập hợp, thôi thúc hàng triệu thanh niên, nam nữ miền Bắc lên đường “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.

Đến năm 1965, Hà Nội đã trở thành một trung tâm công nghiệp lớn của miền Bắc. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục phát triển vượt bậc. Đời sống nhân dân được cải thiện. Cuối năm 1958, Hà Nội đã xóa xong nạn mù chữ; 5 trường đại học lớn lần lượt ra đời (Tổng hợp, Bách khoa, Sư phạm, Nông lâm, Y dược). Một số bệnh viện cũ được cải tạo, nâng cấp; nhiều bệnh viện mới được ra đời (như Việt Nam - Cuba, Y học dân tộc,...).

Ngày 29-6-1966, không quân của đế quốc Mỹ ném bom kho xăng Đức Giang, bắt đầu giai đoạn đánh phá trực tiếp vào Thủ đô Hà Nội. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quân dân Hà Nội không sợ hy sinh, tàn phá, đã chiến đấu cực kỳ anh dũng và sáng tạo, làm tốt công tác phòng không sơ tán, giữ gìn trật tự trị an, duy trì đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, tiếp tục chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Đặc biệt, 12 ngày đêm cuối tháng chạp năm 1972, Mỹ dùng máy bay ném chiến lược B52 ném bom rải thảm Hà Nội và nhiều tỉnh, thành miền Bắc, Hà Nội cùng với các quân, binh chủng, các tỉnh, thành phố bình tĩnh, tự tin, tổ chức lực lượng chiến đấu, đánh thắng hoàn toàn cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của đế quốc Mỹ, lập nên kỳ tích “Điện Biên Phủ trên không”, bắn rơi 30 máy bay, trong đó có 23 chiếc B.52, 2 chiếc F.111, bắt sống nhiều giặc lái. Đây là chiến công xuất sắc nhất trong lịch sử chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ trên miền Bắc. Chiến thắng đó là một trong những đỉnh cao thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, đã góp phần đánh sập uy thế không lực Hoa Kỳ, buộc chúng phải ký Hiệp định Pari, rút quân đội viễn chinh về nước, chấm dứt 115 năm chiếm đóng của quân đội thực dân, đế quốc trên đất nước ta. Sự đóng góp to lớn của quân dân Hà Nội vào chiến công chung của cả nước được bạn bè thế giới khâm phục và ngợi ca là “Thủ đô của lương tri và phẩm giá con người”.

Từ năm 1965 đến năm 1975, Hà Nội đã động viên tuyển quân 29 đợt, với gần chục vạn người bổ sung cho các đơn vị bộ đội thường trực chiến đấu bảo vệ Thủ đô và chi viện cho các chiến trường; có hơn 11.500 cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh.

Với những thành tích xuất sắc trong chiến đấu, sản xuất và chi viện cho tiền tuyến, quân dân Thủ đô đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh 4 lần gửi thư khen và tặng cờ thưởng; được Ủy ban Thường vụ Quốc hội tuyên dương công trạng “Hà Nội lập công to xứng đáng là Thủ đô anh hùng của cả nước”; được Nhà nước tặng thưởng 1 Huân chương Sao vàng, 1 Huân chương Độc lập hạng nhất, danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho quân dân Thủ đô; có 6 đơn vị được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 633 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, non sông thu về một mối cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, vừa ra khỏi chiến tranh, chúng ta lại phải đương đầu với những khó khăn, thử thách mới rất gay gắt, nhất là vào cuối những năm 70 và những năm 80 của thế kỷ XX. Đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, trong khi đó các thế lực thù địch ra sức tìm cách chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, kể cả việc dùng thủ đoạn bao vây cấm vận, “diễn biến hòa bình”. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, được sự giúp đỡ của các tỉnh, thành phố bạn, Đảng bộ và nhân dân Hà Nội một mặt khẩn trương khôi phục những cơ sở kinh tế, văn hóa bị chiến tranh tàn phá, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; mặt khác cùng cả nước trăn trở tìm tòi, từng bước tháo gỡ khó khăn để đi lên.

Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã khắc phục nhiều khó khăn về nguyên liệu, phụ tùng, năng lượng, khai thác thêm nguyên vật liệu, sử dụng phế liệu, phế phẩm tạo ra nhiều vật tư thay thế và tiết kiệm vật tư để thực hiện kế hoạch. Hầu hết các xí nghiệp trung ương và địa phương bị địch đánh phá đã được xây dựng lại. Đến năm 1982, thành phố đã xây dựng mới, sửa chữa và mở rộng 95 xí nghiệp. Một số công trình giao thông được hoàn thành và đưa vào sử dụng, như: cầu Đuống, cảng Phà Đen, sân bay Nội Bài, cầu Thăng Long, cầu Chương Dương... Sản xuất nông nghiệp đã đạt năng suất 5,8 tấn thóc/ha với sản lượng 42 vạn tấn. Vùng rau chuyên canh và một số vùng cây công nghiệp bước đầu hình thành; chăn nuôi được chú trọng phát triển bảo đảm cung cấp 40% nhu cầu trứng và 30% nhu cầu thịt cho thành phố. Thương nghiệp đã cố gắng tổ chức khai thác, nắm nguồn hàng, đẩy mạnh gia công sản xuất, thu mua, trao đổi, phục vụ cho đời sống và góp phần thúc đẩy sản xuất. Riêng ở vùng kinh tế mới Lâm Đồng, trong các năm 1977-1984, Hà Nội đã đưa 12.861 hộ, 21.587 nhân khẩu vào khai hoang 4.611 ha đất.



III. HÀ NỘI TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

1. Giai đoạn từ năm 1986 – 2007:

Từ năm 1986, quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, Thành ủy Hà Nội đã đề ra chủ trương phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với thực tế của địa phương, quyết tâm đổi mới cơ chế quản lý, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các nghị quyết của Đảng bộ thành phố ngày càng đi vào cuộc sống, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các thành phần kinh tế, khơi dậy tiềm năng trí tuệ của nhân dân.



1.1 Kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ cao, phát triển theo hướng bền vững

So với năm 1985, kinh tế của Thủ đô năm 2003 tăng 5,1 lần, bình quân tăng 9,5%/năm. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa và từng bước hiện đại hóa; tỷ trọng công nghiệp tăng từ 27,9% năm 1985 lên 40,4% năm 2003; tỷ trọng dịch vụ giảm từ 66,5% xuống 57,2%; nông nghiệp giảm từ 5,6% xuống 2,4%; chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh có chuyển biến rõ rệt.

Năm 2003, kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng 60,0%, kinh tế ngoài nhà nước chiếm 20,3%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 16,3% GDP toàn thành phố (còn lại thuế nhập khẩu chiếm 3,4%). Có trên 25.000 doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp với số vốn đăng ký gần 42.000 tỷ đồng và hoạt động trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế.

So với năm 1985, công nghiệp năm 2003 đã tăng 5,9 lần, bình quân tăng 10,3%/năm. Sản phẩm công nghiệp ngày càng phong phú và là niềm tự hào của kinh tế Thủ đô như: hàng điện tử, máy in phun, quạt điện, sản phẩm may, hàng thủ công mỹ nghệ...

So với năm 1985, dịch vụ của Thủ đô năm 2003 tăng 5,0 lần, bình quân tăng 9,4%/năm; Hà Nội đã có quan hệ thương mại với 161 quốc gia và vùng lãnh thổ. Kim ngạch xuất khẩu năm 2003 tăng khoảng 15 lần so với năm 1985; doanh thu du lịch năm 2003 tăng 24,8 lần so với năm 1990.

Nông - lâm - thủy sản giai đoạn 1986-2003 vẫn tăng bình quân 5,1%/năm; nông lâm - thuỷ sản năm 2003 tăng 2,4 lần so với năm 1985. Đã hình thành một số mô hình sản xuất nông nghiệp có hiệu quả cao: mô hình trồng rau an toàn, chuyển đổi ruộng trũng sang nuôi trồng thủy sản, mô hình sản xuất hoa, mô hình chăn nuôi theo phương pháp công nghiệp... Cơ sở hạ tầng nông thôn được tập trung đầu tư, nâng cấp, tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn chỉ còn 3,2% không còn hộ đói.

Giai đoạn 2001-2003, bình quân tổng đầu tư xã hội đạt 21.735 tỷ đồng/năm, tăng 3,3 lần so với bình quân giai đoạn 1991-1995 (6.515 tỷ đồng/năm). Tỷ trọng huy động vốn đầu tư xã hội của Thủ đô luôn đạt mức cao và có xu hướng tăng lên: năm 2000 là 49%, năm 2001 là 50,9%, năm 2003 là 52,8% (tỷ trọng của cả nước tương ứng là 28%, 33,8% và 35,9%).

Đầu tư trong nước giữ tỷ trọng chủ yếu, năm 2003 chiếm 86%, nguồn vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng chiếm 14%.

So với năm 1985, thu nhập bình quân đầu người năm 2003 đã tăng 3,1 lần.

Thời điểm đó, Thủ đô Hà Nội chỉ chiếm 3,6% về dân số và 0,3% diện tích lãnh thổ quốc gia, nhưng đang đóng góp gần 8% GDP, trên 10% giá trị sản xuất công nghiệp, 11% giá trị dịch vụ, 10% tổng đầu tư xã hội, trên 9% kim ngạch xuất khẩu của cả nước và 14,5% tổng thu ngân sách quốc gia.



1.2. Xây dựng và quản lý đô thị có nhiều tiến bộ

Đã cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đầu tư xây dựng nhiều công trình mới làm cho diện mạo Thủ đô ngày càng khang trang. Các cửa ngõ ra vào thành phố được mở rộng; nhiều tuyến đường mới như: Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Chí Thanh, Đại Cồ Việt, Trần Khát Chân đã mang dáng dấp của tuyến phố hiện đại; nhiều con đường mới: Bắc Thăng Long - Nội Bài, Láng - Hòa Lạc, Pháp Vân - cầu Giẽ... được xây dựng theo tiêu chuẩn đường cao tốc. Giao thông công cộng, đặc biệt là xe buýt phát triển nhanh.

Vào những năm 1991-1993 mới chỉ xây dựng được 53 vạn nhà, thì trong 5 năm 1996-2000 tăng lên 1,5 triệu m2, riêng năm 2003 xây được gần 1,3 triệu m2. Một số khu đô thị mới đồng bộ, hiện đại như: Linh Đàm, Định Công, Trung Hòa - Nhân Chính, Trung Yên, Mỹ Đình... đã hình thành.

Mạng lưới thông tin liên lạc được mở rộng và trang bị hiện đại. Năm 2003, thành phố đạt 29,3 máy điện thoại/100 dân.



1.3. Văn hóa – xã hội có nhiều chuyển biến tích cực

Phát triển sự nghiệp văn hóa và xây dựng con người Thủ đô văn minh hiện đại và thanh lịch vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa Thủ đô. Gần 20 năm đối mới, Thủ đô Hà Nội đã triển khai nhiều chương trình dự án, công tác tích cực và đã đạt được những thành tích quan trọng:



Về giáo dục và đào tạo: Đến năm 2003, trên địa bàn Hà Nội đã có 47 trường đại học - cao đẳng. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn ở ngành giáo dục mầm non Hà Nội đạt 89%, ở tiểu học đạt 99%, còn ở phổ thông trung học và chuyên nghiệp đạt 100%.

Về khoa học công nghệ có nhiều chuyển biến: Đã tăng cường quản lý chất lượng, mở rộng việc tuyển chọn các đề tài khoa học thu hút các tổ chức, cá nhân nhà khoa học tham gia. Chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhà khoa học đầu ngành, chuyên gia giỏi cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát triển Thủ đô bước đầu phát huy tác dụng.

Về y tế và công tác xã hội: Mạng lưới khám chữa bệnh trong thành phố được sắp xếp khoa học nhằm bảo đảm chăm sóc tốt sức khỏe ban đầu cho nhân dân ngày một tốt hơn. 100% các trạm y tế xã, phường đã có bác sĩ. Việc phòng chống dịch bệnh được quan tâm và làm có hiệu quả (đặc biệt là việc không chế thành công dịch bệnh SARS vào năm 2003). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm mạnh. Hà Nội được coi là địa bàn có chỉ số phát triển con người cao nhất nước. Các chính sách xã hội được quan tâm. Tỷ lệ thất nghiệp giảm đáng kể, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 1% (năm 2003). Phong trào làm việc thiện, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng... trở thành nền nếp thường xuyên và dẫn đầu cả nước.

Về văn hóa và thể dục thể thao: Các cuộc vận động “Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư...” đã lôi cuốn mọi người tham gia. Phong trào “Người tốt, việc tốt” được biểu dương kịp thời. Việc tổ chức cưới, lễ tang theo tinh thần lành mạnh, tiết kiệm, giữ gìn thuần phong mỹ tục trong giao tiếp cộng đồng được đề cao. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao ở cơ sở của quần chúng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Văn học, nghệ thuật luôn luôn được thành phố quan tâm và dành những điều kiện tốt nhất để phát triển. Tổ chức thành công SEA GAMES 22 và PARA GAMES 2 (năm 2003) đã tạo nên một không khí tự hào, phấn khởi đặc biệt, thúc đẩy những thành tích đỉnh cao những năm tiếp theo. Cùng với việc đạt được những kết quả về tinh thần, SEA GAMES 22 còn để lại cho Hà Nội một loạt công trình văn hóa, thể thao lớn và có đẳng cấp quốc tế để phục vụ cho hoạt động văn hóa, thể thao của Thủ đô.

1.4. An ninh – quốc phòng được giữ vững

Cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, Hà Nội đã xây dựng và hoàn thiện được thế trận an ninh quốc phòng vững chắc, bảo đảm hoà bình; giữ vững ổn định chính trị; nhân dân được sống trong sự yên bình.

Trong gần 20 năm đổi mới, Hà Nội không có những vụ đổ vỡ, vụ án tham nhũng kinh tế lớn xảy ra; giải quyết nhanh chóng và triệt để các vụ khiếu kiện; đã tập trung làm tốt công tác tham mưu cho chính quyền thành phố trong việc quản lý trật tự giao thông đô thị, tạo sự chuyển biến rõ nét về ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, nòng cốt là lực lượng dân phòng, lực lượng an ninh nhân dân ngày càng được nhân ra sâu rộng. Vì vậy, đã chủ động ngăn ngừa và loại trừ được các nhân tố gây mất ổn định chính trị. Chủ động đấu tranh có hiệu quả các hoạt động phá hoại về chính trị, tư tưởng; hạn chế từng bước các tệ nạn xã hội.

Các cơ quan quân sự địa phương đã làm tốt việc tham mưu giúp các cấp ủy Đảng và chính quyền về công tác giáo dục quốc phòng toàn dân, nâng cao nhận thức về trách nhiệm và quyền hạn bảo vệ tổ quốc..., của công dân. Tổ chức tốt nhiệm vụ động viên tuyển quân và đăng ký, quản lý lực lượng dự bị động viên và làm tốt chính sách hậu phương quân đội...

Thế trận an ninh - quốc phòng toàn dân vững chắc, đó là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm cho Thủ đô Hà Nội ngày càng phát triển trong hoà bình, ổn định và an toàn, xứng danh là “Thành phô vì hoà bình”.

1.5. Hệ thống chính trị ở Thủ đô không ngừng lớn mạnh

Trong thời kỳ đổi mới, đứng trước vận hội mới, thách thức mới, hệ thông chính trị của thành phố tiếp tục được củng cố và đổi mới nội dung, phương thức hoạt động. Đảng bộ thành phố không ngừng lớn mạnh cả về tổ chức, bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo. Từ 3.547 đảng viên năm 1955, đến năm 2003 đã có tới 177.260 đảng viên. Không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình, Đảng bộ thành phố đã thực hiện có kết quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực, khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ đó, củng cố niềm tin của nhân dân Thủ đô đối với Đảng. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thường xuyên được bồi dưỡng, nâng cao nhận thức nhằm thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ. Phấn đấu hàng năm có hơn 60% cơ sở Đảng đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh, hơn 80% đảng viên đạt tiêu chuẩn loại đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ; mỗi năm kết nạp hơn 5.000 đảng viên.

Bộ máy chính quyền các cấp được kiện toàn, củng cố theo hướng nâng cao hiệu quả và phát huy hiệu lực; từng bước cải tiến chế độ hội họp, theo hướng thiết thực, chất lượng, tránh hình thức, ít thông tin, kém tác dụng.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội các cấp đã cụ thể hoá chương trình đại đoàn kết toàn dân, vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết, thực hiện các phong trào cách mạng, thi đua yêu nước...nâng cao chất lượng cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư.

Công đoàn đã làm tốt chức năng tham gia quản lý ở từng cơ quan, từng cơ sở, chăm lo bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động. Tổ chức công đoàn ngày càng được xây dựng vững mạnh, nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ.

Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã làm tốt công tác giáo dục lý tưởng và đạo đức cho thanh, thiếu niên, động viên thế hệ trẻ xung kích tham gia phong trào “Thanh niên tình nguyện” đảm nhận những việc khó, việc mới, tích cực lao động, học tập, rèn luyện và phát huy tài năng, phấn đấu xứng đáng là chủ nhân của Thăng Long nghìn năm văn hiến.

Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp đã phát huy truyền thống ba đảm đang, tích cực tham gia và làm nòng cốt trong các phong trào: xoá đói giảm nghèo, vì môi trường trong sạch,... hoạt động có hiệu quả công tác hoà giải ở cơ sở.

Hội Nông dân các cấp đã hướng dẫn, giúp đỡ nông dân thực hiện chuyển đổi ruộng đất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Các cấp hội đã huy động và sử dụng có hiệu quả Quỹ hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, nhằm mục tiêu xoá nghèo, tăng giàu ở nông thôn.

Hội Cựu chiến binh vận động hội viên gương mẫu chấp hành các chủ trương, chính sách, pháp luật, tham gia tuyên truyền những thông tin chính thông, kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng sai trái, phản động, trực tiếp tham gia giải quyết những điểm nóng, những vấn đề phức tạp ở cơ sở.

1.6 Công tác đối ngoại được mở rộng và phát triển

Các hoạt động đối ngoại của Thủ đô Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, đóng góp quan trọng vào công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Hà Nội.

Đến năm 2003 Thủ đô Hà Nội đã thiết lập mối quan hệ hữu nghị với trên 60 thủ đô và thành phố của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ. Hà Nội là thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế như: Hiệp hội các thành phố lớn trên thế giới (Metropolis), Hiệp hội các Thị trưởng của các thành phố có sử dụng tiếng Pháp trên thế giới (AIMF), Mạng lưới các thành phố lớn châu Á thế kỷ XXI (ANMC21), Mạng lưới các chính quyền địa phương về quản lý dân cư (Citynet), Hiệp hội các thành phố có lịch sử lâu đời (The League of Historical Cities)... Hoạt động đối ngoại nhân dân được mở rộng đã góp phần giới thiệu với bạn bè quốc tế truyền thống yêu hòa bình, bản sắc văn hóa Thăng Long - Hà Nội.

Công tác đối ngoại thông qua các hoạt động hợp tác, giao lưu về văn hóa, thể dục thể thao, giáo dục đào tạo khoa học ky thuật,... giữa Hà Nội với các Thủ đô và thành phố trên thế giới cũng diễn ra thường xuyên với nội dung phong phú, như những ngày Hà Nội tại Mátxcơva, Tuần lễ kinh tế - văn hóa Hà Nội tại Giơnevơ, Hội thảo khu vực về quản lý thành phố, về vấn đề nghèo đói và môi trường, Hội nghị các Thành phố lớn châu Á thế kỷ XXI (ANMC 21),... Đặc biệt, Hà Nội tổ chức thành công SEA GAMES 22 và PARA GAME 2 trong năm 2003. Các hoạt động phong phú, đa dạng này đã nâng cao vị thế Thủ đô trên trường quốc tế.

Hà Nội luôn xác định: hợp tác giữa Hà Nội với các tỉnh, thành phố trong Vùng kinh tế trọng điểm các địa phương trong cả nước, nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh của mỗi phương, tạo ra sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương của cả nước. Đặc biệt, từ cuối năm 2000, thực hiện nhiệm vụ tạo lập sự liên kết hiệu quả giữa kinh tế Hà Nội với kinh tế vùng trọng điểm phía Bắc và cả nước, thành phố đã chủ động làm việc ký kết hợp tác song phương với 11 tỉnh, thành lân cận với các nội dung hợp tác trên các lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp - thủy sản, giao thôi thương mại, du lịch, xây dựng và phát triển đô thị, giáo dục đào tạo, y tế...

Hà Nội đã cùng với Lào Cai, Quảng Ninh thống nhất nội dung hợp tác phát triển tuyến hành lang kinh tế động lực Vân Nam (Trung Quốc) - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.

Hợp tác giữa Hà Nội và các tỉnh, thành phố trong cả nước đã đạt được kết quả đáng khích lệ, được chính quyền và nhân dân các địa phương đồng tình, trân trọng, góp phần thực hiện chủ trương: “Hà Nội vì cả nước, cả nước vì Hà Nội".


Каталог: uploads -> VANBAN -> 2014 -> BTG -> thang8
VANBAN -> Lời nói đầu qcvn 1: 2015/bkhcn thay thế qcvn 1: 2009/bkhcn qcvn 1: 2015/bkhcn
VANBAN -> Ủy ban dân tộc bộ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn bộ KẾ hoạch và ĐẦu tư BỘ TÀi chính bộ XÂy dựNG
VANBAN -> BỘ khoa học và CÔng nghệ Số: 1870 /QĐ-bkhcn cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
VANBAN -> Ban tổ chức lhptq/ttatgt-2012
VANBAN -> CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam tổng cục VII
VANBAN -> BỘ TÀi chính số: 91 /2005/tt-btc cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
VANBAN -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng số: 24/2006/QĐ-btnmt
VANBAN -> BỘ TÀi chính số: 96/2015/tt-btc cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
VANBAN -> PhiếU ĐỀ xuất vấN ĐỀ, nhiệm vụ khoa học và CÔng nghệ CẦN ĐƯỢc giải quyếT Ở CẤp nhà NƯỚc năM 20

tải về 208.94 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương