Eloi Leclerc BÀi ca của bình minh the song of the dawn người dịch: Lm. Minh Anh (Gp. Huế) Eloi Leclerc



tải về 330.73 Kb.
trang2/5
Chuyển đổi dữ liệu17.11.2017
Kích330.73 Kb.
#34394
1   2   3   4   5
Ý tưởng được diễn đạt trong câu cuối cùng này rõ ràng đã nằm trong Luật Đầu Tiên rồi, “Tất cả chúng ta, bần cùng và tội lỗi, chúng ta không đáng kêu tên ngài”.5 Ở đây, hãy hiểu theo nghĩa Thánh Kinh cho việc xưng danh, vì trong Thánh Kinh, tên diễn tả một ngôi vị hay một điều gì đó trong tiếng gọi sâu sắc của nó. Vì thế, việc gọi tên có nghĩa là nắm lấy hữu thể, chiếm lấy hữu thể bởi tinh thần. Vì thế, trong sách Sáng Thế, sau khi được Thiên Chúa tác thành, con người được mời gọi đặt tên cho mọi động vật và khẳng định trong chính hành động đó sự làm chủ của con người.6 Nhưng khi Jacob hỏi tên của đối phương vô danh, người mà ông đã vật lộn suốt đêm, thì ông nghe người đó nói, “Tại sao ngươi hỏi tên ta?”.7 Và rồi, Jacob được đối phương thừa nhận là “mạnh hơn Thiên Chúa”. Nhưng Thiên Chúa, Đấng để chính mịnh bị khuất phục, vẫn là Thiên Chúa. Ngài ganh tỵ giữ kín mầu nhiệm của mình, chỉ vì Ngài là Thiên Chúa, bởi vì Ngài Duy Nhất. Chung quanh Thiên Chúa, có một vinh quang không dò thấu được.
“Đấng Tối Cao”, Eliade viết, “là một chiều kích con người không thể đạt tới”. Đây là điều Phanxicô nhận ra. Thiên Chúa mà ngài đề xuất ca ngợi trong Bài Ca Thọ Tạo không phải là linh hồn thế giới, cũng không phải là chiều sâu tận cùng của con người. Chính Thiên Chúa được nâng cao vượt trên tất cả, tức là, ngay cả trên tất cả những gì có thể được nghĩ đến. Đó là một Thiên Chúa mà sự đề cao Ngài không thể diễn đạt bởi các thọ tạo.
Chúng ta không thể lướt qua câu cuối cùng của đoạn thơ đầu tiên này; như thế sẽ rất hời hợt. Đó cũng sẽ là sự hiểu lầm chiều kích thực sự vũ trụ tôn giáo của Phanxicô Assisi. Chúng ta sẽ không bao giờ có thể diễn đạt vũ trụ này vươn lên Đấng Siêu việt ở mức nào. Những lời kinh khác nhau mà Poverello để lại cho chúng ta là một sự tán dương, như đoạn thơ đầu tiên này, về sự siêu việt của Thiên Chúa. Sự tán dương này là phần truyền thống tinh tuyền nhất của những nhà thần nghiệm vĩ đại. Ở đây, chúng ta cần dừng lại bài ca của Gregory of Nazienzen:
Ôi Đấng vượt xa tất cả,

làm sao chúng con có thể gọi Ngài bằng một danh xưng khác…

Ngài là Đấng duy nhất chúng con không thể gọi tên.
Ở cuối đoạn thơ đầu tiên của Bài Ca Anh Mặt Trời chúng ta không khỏi ngạc nhiên thấy bài hát của Phanxicô chìm trong thinh lặng. Cái nhìn của thánh nhân dường như thoát ra khỏi trần thế để đánh mất chính mình hoàn toàn khi hướng về Đấng Tối Cao.

3
TÌNH BẰNG HỮU VŨ TRỤ


Bài Ca Thọ Tạo trên hết là một sự tuôn trào lời tán dương dâng về Đấng Tối Cao. Nhưng với cái nhìn đầu tiên, sự thôi thúc này xem ra nhấc cao nhiều điều rời xa mặt đất; cách đặc biệt, ở đây, chúng ta thấy một sự hiệp thông huynh đệ giữa các thọ tạo: “Lạy Thiên Chúa của con, mọi thọ tạo tán dương Ngài”. Đây là sự tinh tế của bài ca. Để tán dương Thiên Chúa, Phanxicô không cảm thấy cần làm giảm giá trị những thọ tạo của mình. Không phải qua việc rêu rao tính tầm thường của sự vật và tìm cách tránh né chúng để rồi ngài đến với Thiên Chúa. Đúng ra là điều ngược lại: Ngài dẫn chính mình đến với Đấng Tối Cao bằng cách hiệp thông chính mình với mọi thọ tạo ở mức độ sâu sắc nhất bằng cách suy tư về vạn vật. Lời tán dương Đấng Tối Cao của ngài cũng là lời tán dương của mọi thọ tạo. Tính cách mới mẻ trong thông điệp của Phanxicô Assisi “là sự khẳng định cao nhất vốn được hình thành từ giá trị của con người và cuộc sống như thể chúng ta đã lãnh nhận tất cả từ chính tay Thiên Chúa”, Louis Lavelle viết.


Tính độc đáo này càng nổi trội hơn khi chúng ta nhận ra rằng, một dòng chảy linh đạo mạnh mẽ hướng những con người nhiệt huyết nhất vào thời đó theo một chiều hướng hoàn toàn ngược lại. Chúng ta biết hậu quả của học thuyết Catharist trong Kitô giáo thời Trung Cổ. Nhân danh một đức tin tinh tuyền, học thuyết này đặt Thiên Chúa và thọ tạo vật chất vào thế đối lập. Thế giới vật chất bị xem là vương quốc của tâm hồn tội lỗi: một lãnh địa của bóng đêm vốn phải bị bỏ lại đằng sau để bước vào ánh sáng của thần khí Thiên Chúa. Phanxicô Assisi tuân theo một sự linh ứng hoàn toàn khác biệt. Ở chính trọng tâm của những thực tại vật chất, ngài khám phá con đường ánh sáng dẫn đến Đấng Tối Cao.
Khi làm vậy, Phanxicô đặt mình vào truyền thống Thánh Kinh, truyền thống của Thánh Vịnh và các ngôn sứ, những người tán dương Thiên Chúa trong các tác phẩm của mình. “Cũng như trước đây”, Thomas Celano viết, “ba chàng trai trẻ trong lò lửa mời mọi yếu tố ca tụng và tán dương Đấng Tạo Thành của vũ trụ; cũng thế, Phanxicô, đầy thần khí Thiên Chúa, không ngừng chúc tụng, khong khen và ca ngợi Tạo Hoá và Chủ muôn loài vì các yếu tố và mọi thọ sinh”.8
Với Phanxicô, bài ca của ngài mang một giọng điệu thực sự mới mẻ và riêng tư cùng với sự linh hứng có tính Thánh Kinh. Ngài hài lòng không chỉ với việc ca khen Thiên Chúa vì thọ tạo của Ngài, nhưng còn trở nên anh em với chúng. Đây là điểm mới mẻ. Điều nổi trội nhất trong toàn bộ bài ca của ngài thực sự là mỗi yếu tố vũ trụ được gọi là anh là chị. Phanxicô không hiểu rõ thế nào là mặt trời, là gió, là nước, lửa, v.v.. nhưng ngài gọi “Anh Mặt trời”, “Anh Gió”, “Chị Nước”, “Anh lửa”. Đối với ngài, đây không phải là một lối nói phúng dụ đơn giản. Trong cuộc sống thường nhật, Phanxicô thực sự cảm nhận một tình huynh đệ với các thụ tạo vật chất nhất. Ở đây, một loại hình nhạy cảm mới mẻ thấy được ánh sáng ban ngày.
Tình huynh đệ vũ trụ đã bén rễ sâu trong Phanxicô. Trước tiên, nó liên kết niềm tin rất sống động của ngài vào vai trò làm cha vũ trụ của Thiên Chúa. Ngài “đã leo lên đến tận Nguồn Cội đầu tiên của mọi sự”, thánh Bonaventure viết, “Phanxicô cảm nhận một tình bạn tuôn trào đối với chúng, và thậm chí gọi những thọ tạo thấp bé nhất là “anh” là “chị” vì ngài biết rằng, ngài và chúng đều phát xuất từ một nguyên lý, một cội nguồn duy nhất”.9 Cái nhìn thần học - và có thể nói - siêu hình này ở chính trọng tâm của tình bằng hữu vũ trụ của Phanxicô. Yves Congar phát biểu chí lý rằng, “Chính theo nghĩa thần học mạnh nhất của từ ngữ, không chỉ trong chức năng của một bài thơ vui tươi, mà Phanxicô nói về chim chóc, lửa, mặt trời… về chính cái chết như anh chị em của mình”.
Tuy nhiên, trực giác sâu sắc này của ngài không bị giảm thiểu thành một nhãn quan thuần tuý tri thức. Thực ra, trước tiên nó không phải như thế. Sự nhiệt thành và thể thơ trữ tình sáng tạo khó có thể tuôn trào từ một ý tưởng thuần tuý. Tình huynh đệ vũ trụ của Phanxicô không thể tách khỏi một kinh nghiệm cảm thông và sự tham gia đầy cảm xúc với mọi thọ tạo sống động và hiện hữu. Trước tiên ở mức độ này mà nó được cảm nhận. Như một quà tặng đặc biệt mà riêng ngài nhận được, Phanxicô được ơn cảm thông. Thomas Celano và Thánh Bonaventure nhận ra điều này, “Những cảm xúc hoàn toàn tự nhiên của tâm hồn đủ để làm cho Phanxicô trở nên huynh đệ với mọi thọ tạo”.10 Nhận xét này thật quan trọng. Ai không có những tâm tình đầy cảm xúc trong tương quan giữa con người, với sự vật và thọ tạo thì những tuyên bố đẹp nhất của họ về tình bằng hữu sẽ lạc điệu khi rung lên.
Tuy nhiên, sẽ sai lầm khi giảm thiểu kinh nghiệm cảm xúc này là một cảm xúc thuần tuý. Điều chúng ta có ở đây thật sự sâu sắc và mênh mông hơn nhiều. Cảm xúc lay động toàn hữu thể của Phanxicô trước sự hiện diện của thọ tạo nhỏ bé nhất chính là sự nhận thức giá trị. Phanxicô trực tiếp và đánh giá cao giá trị của mọi vật sống và mọi hữu thể như những biểu hiện của tình yêu sáng tạo. Chính ở chiều kích này mà làn sóng dao động giữa ngài và các thọ tạo được thiết lập. Trong sự cảm thông dành cho thọ tạo, ngài rung một nhịp với chúng và mở lòng mình ra để đón lấy hơi thở sự sống và hữu thể ban sơ. Từ đó phát xuất lòng tôn trọng và kính cẩn trước mọi điều hiện hữu. Cũng từ đây, khơi lên cái nhìn thẩm thấu vốn cho phép ngài khám phá sức sống tươi mới ở chính trung tâm của mọi hữu thể. Thomas Celano viết, “Ngài gọi mọi thọ tạo là anh là chị; và theo một cách thức khác thường mà người khác không biết. Nhờ vào sự nhạy bén của tâm hồn, ngài biết cách thẩm thấu vào trong sự mật thiết sâu xa nhất của mỗi thọ tạo”.11
Những gì Bergson nói về một tình yêu huyền nhiệm được xác minh đầy đủ ở đây, “Nó không theo cảm giác hay lý lẽ. Nó rõ ràng là cái này hay cái kia, và thực tế nhiều hơn thế. Vì như mọi cảm nhận khác, chính một tình yêu như thế thì ở tận gốc của cảm giác và lý trí. Trùng hợp với tình yêu Thiên Chúa dành cho thọ tạo của mình, một tình yêu làm nên mọi sự, nó mang cho Ngài bí mật của thọ tạo đó. Nó mang tính siêu hình nhiều hơn là luân lý… Hướng của nó là hướng của một đà sống; chính đà sống này, liên kết khắn khít với một số người được ưu tiên”. Chính trong sự cảm thông với đà sáng tạo này mà Phanxicô trở nên anh em thân thiết với mọi thọ tạo.
Ngày nay, dường như sự hiện diện bằng hữu với thế giới có nguy cơ khó thực hiện. Nhiều người sẽ xem nó như một giấc mơ kỳ lạ. Thái độ của chúng ta trước những thực tại thiên nhiên, thực ra, được đánh dấu bởi sự tuân thủ của mỗi người trước một cảm hứng hoàn toàn khác biệt. Nền văn minh công nghiệp được xây dựng hoàn toàn trên ý tưởng rằng con người là “chủ và là người sở hữu thiên nhiên”; nó dựa trên ý muốn cai trị thiên nhiên. Con người không ngừng gia tăng quyền hạn của mình trên thiên nhiên bằng cách phát minh những phương tiện hành xử ngày càng hoàn hảo và hiệu quả hơn. Đối mặt với một quyền lực như vậy, thiên nhiên không là gì ngoại trừ một đống vật thể phải được thống trị và khai thác, hoặc một kho dự trữ năng lượng phải được xâm chiếm và rút ra hết, con người trong thời đại công nghiệp đã tách mình khỏi thiên nhiên, đã cố ý đặt mình trên thiên nhiên. Giữa con người và thiên nhiên, giờ đây, đã có một nền công nghệ cao vốn không dành chỗ cho bất cứ một sự thông hiệp nào vì chỉ dành cho ý muốn thống trị mà thôi. Được củng cố bởi quyền lực của mình, con người bắt thiên nhiên trong mọi lĩnh vực phải thuần phục một cách đối xử gây sốc thực sự để buộc nó phải sản xuất tối đa.
Nhưng hôm nay, chúng ta khám phá những giới hạn của một thái độ như vậy. Các nhà sinh thái trên toàn thế giới băn khoăn tự hỏi con người sẽ như thế nào nếu nó tiếp tục lao mình xâm chiếm và cướp phá thiên nhiên, con người đang huỷ hoại môi trường tự nhiên của mình. Nước và không khí ngày càng trở nên ô nhiễm, đất hoang phế, các loài cây và động vật đang trên đà tuyệt chủng, một sự cân bằng toàn thể đang bị đảo lộn. Trái lại, ngay khi thiên nhiên bị xem chỉ như một công cụ sản sinh năng lượng, thì nó trở nên một vật cầm cố trong cuộc chiến giữa những con người đi tìm năng nượng. Bằng cách đó, các mối tương quan giữa con người bị xuyên tạc và đảo lộn sâu sắc, vì tất cả chỉ nhắm đến chiếm hữu và quyền lực. Từ chối tình bằng hữu với thiên nhiên thì chắc chắn làm cho mình không thể trở nên anh em với người khác.
Chính vì lý do này mà một thái độ như thái độ của Phanxicô đối với những thực tại của thiên nhiên không thể bị xem nhẹ. Có lẽ giờ đây, hơn bao giờ hết, chúng ta phải tái khám phá tinh thần của tình huynh đệ vũ trụ này.
Nhưng trước hết, hãy tẩy sạch bầu khí hiểu lầm. Trở nên huynh đệ với những thọ tạo nhỏ bé hơn thì không tránh khỏi từ bỏ việc sử dụng chúng hay từ bỏ việc đặt chúng phục vụ những nhu cầu của chúng ta. Phanxicô nhận ra công dụng của sự vật: chúng là anh em trong chính công dụng của chúng. Anh Mặt Trời cho chúng ta ánh sang, “anh mang lại ngày”. Anh Gió, bằng hơi thở mạnh mẽ của mình, tiếp sức cho mọi sinh vật sống. Chị Nước rõ ràng được ca ngợi là “hữu ích”. Anh Lửa chiếu sáng đêm tối của chúng ta. Chị Mẹ Trái đất của chúng ta dưỡng nuôi chúng ta bằng cách sản sinh ra đủ loại trái trăng. Vì thế, không có chỗ cho việc đối nghịch tình bằng hữu thọ tạo với việc sử dụng chúng của con người. Quyền lực mà con người đạt được trên thiên nhiên nhờ vào tiến bộ khoa học và công nghệ, thậm chí có thể làm cho các yếu tố vũ trụ thân thiết với nhau hơn bằng cách giải thoát chúng khỏi tất cả những gì là mù quáng và huỷ hoại.
Vậy theo nghĩa tích cực, tình bằng hữu với mọi thọ tạo có ý nghĩa gì? Nó là một điều gì đó liên quan đến toàn thể nhân loại, và nó không dễ dàng. Nó giả định trước tiên một sự biến đổi thật sự trong nhãn quan và tâm hồn con người.
Cám dỗ của mọi quyền lực là bạo lực. Con người xâm phạm thiên nhiên khi chìm ngập trong sức mạnh của quyền lực trên thiên nhiên, con người bắt nó tuân theo ham muốn trục lợi của mình. Con người xâm phạm nó thậm chí nghiêm trọng hơn khi con người dùng cùng quyền lực này để buông lỏng ý muốn quyền lực chống lại thiên nhiên. Và điều đó có thể bị đẩy rất xa. Say men chinh phục, con người ngày nay muốn chiếm chỗ của Đấng Toàn Năng, sở hữu quyền năng sáng tạo cho chính mình, tái tạo thế giới theo cách thức của riêng mình và cuối cùng trở nên chủ sự sống và thọ tạo của mình. Giấc mơ của Prômêthêô thì cốt tại việc xâm chiếm thế giới, ý muốn quyền lực gia tăng để trở thành một ý muốn tự sáng tạo. Dự án này không được theo đuổi mà không có sự thù hằn hay bạo lực chống lại mọi thứ vốn nối kết con người với thiên nhiên, chống lại mọi thứ vốn biến chúng ta thành những hữu thể phụ thuộc được nối kết với một thực tại và một lịch sử vượt xa chúng ta.
Dự án này căn bản là một cuộc nổi dậy chống lại điều kiện thọ tạo của chúng ta và vì thế, chống lại sự siêu việt của Thiên Chúa. Sự khước từ cội rễ của chúng ta luôn là sự xem thường tính siêu việt.
Con người một khi thân thiện với thiên nhiên, sẽ từ bỏ cuộc nổi loạn này. Con người nhận ra chính mình như một thọ tạo và tái gia nhập vào một gia đình lớn hơn của thọ tạo. Chào đón những yếu tố huynh đệ hèn mọn nhất như anh và chị là thừa nhận những ràng buộc gia đình trực tiếp tồn tại giữa chúng và chính mình, những ràng buộc dẫn con người và tạo vật trở về lại một nguồn cội siêu việt và phổ quát.
Trước Đấng Tối Cao, Đấng mà “không ai đáng gọi tên”, Phanxicô đặt mình giữa các thọ tạo với “lòng khiêm tốn lớn lao”. Khi làm thế, Ngài nhận ra rằng, chỉ Thiên Chúa là Thiên Chúa và đáng được như vậy. Hiệp thông huynh đệ với các thọ tạo là một phần hướng đến sự thờ phượng của ngài.
Khi hành động như vậy, Phanxicô thực sự được sinh ra cho thế giới và cho chính mình. Không gì có thể ngăn cản những trực giác về sự cảm thông và lòng nhân hậu của ngài phát triển đầy đủ. Không mặc cảm tự tôn nào có thể ngăn cản chúng. Không gì còn lại nơi một con người, về mặt này thì khép mình trong sự thù hằn, hay mặt kia thì xa lạ và căm phẫn. Chỉ có công trình của Thiên Chúa là duy nhất cách sâu sắc. Phanxicô khám phá chính mình ở chính trọng tâm của sự hiệp nhất thọ tạo. Làn sóng cảm thông vốn nối kết ngài với những hữu thể khác tháp nhập ngài vào trong chính tình yêu sáng tạo. “Trong mỗi thọ sinh, cũng như trong rất nhiều dòng suối nhỏ”, thánh Bonaventure viết, “với lòng trắc ẩn đặc biệt, ngài cảm nhận cái duy nhất phát xuất từ sự tốt lành của Thiên Chúa”.12 Ngài không chỉ nhận ra sự tốt lành tinh tế này mà còn tham gia vào đó nữa. Từ con người thân thiện này, người bạn của mọi thọ tạo, toả chiếu một sức mạnh và một hơi ấm vốn đi vào trong sự vật, làm cho chúng phong phú hơn, sáng lạn hơn và vui vẻ hơn. “Không nghi ngờ gì nữa, chưa bao giờ có ai hiến dâng trọn vẹn hơn khi hiến dấng sự hiện diện và toàn bộ bản ngã của mình như là quà tặng, một quà tặng mà họ ý thức là chính Thiên Chúa đã làm từ chính bản thân mình ở mọi khoảnh khắc và cho mọi cá nhân”.13
Dưới ánh sáng đời sống như đời sống của Phanxicô Assisi, rõ rang, không phải bằng cách xâm phạm và bắt thiên nhiên làm nô lệ thì con người mới có thể tăng cường giá trị sống của mình; trái lại, bằng cách hợp tác với công việc sáng tạo, trong đó, mọi sinh vật sống cùng tham gia. Say men quyền lực mới, con người của xã hội công nghiệp đã cư xử như một ông vua chuyên chế đối với thiên nhiên. Bây giờ trong một thời gian dài con người đã tưởng tượng mình là Prômêthêô. Có lẽ bây giờ con người bắt đầu nhận ra rằng, sức mạnh đích thực của mình cốt tại việc xem mình như là một thọ tạo có trách nhiệm. Trách nhiệm và thân thiện.
Tình huynh đệ vũ trụ nhất thiết phải đi qua sự khiêm tốn để nhận ra thân phận thọ tạo của mình. Tình huynh đệ này sẽ không làm được gì nếu không có một sự từ bỏ tận căn mà Bài Ca Thọ Tạo ngân đi vang lại bằng cách ca khen những yếu tố hèn mọn nhất như anh chị em, bao gồm “Mẹ Trái đất của chúng ta”.
Bằng bảo vệ trái đất, với tất cả những gì sống động trong đó, Phanxicô đã hướng mình lên Đấng Tối Cao. Bài ca của ngài, trong sự chiếu rọi của trời xanh sáng rực, giữ lại sắc thái đường nét đầu tiên của nó.

4
ĐIỀU KỲ DIỆU



Trở nên bằng hữu với thọ tạo có nghĩa là sẵn sàng đặt mình ngang hàng với chúng và tái khám phá những tương quan với chúng. Điều này không thể thực hiện đơn thuần với sức mạnh ý chí. Chỉ khi nào ngạc nhiên trước những điều kỳ diệu, lúc đó con người mới có thể thoát ra khỏi sự cô lập huy hoàng của mình. Chính việc ngân nga thơ ca giải thoát con người khỏi tính tự mãn và đặt nó lại trong cuộc đời.
Phanxicô Assisi là con người của điều kỳ diệu. Ngài sở hữu một khả năng kinh ngạc khác thường. Đối với ngài, sự vật không đơn thuần là một cái cớ để ca tụng Chúa. Ngài thấy chúng đẹp, rất đẹp. Vẻ đẹp này cuốn hút ngài. Tính từ “đẹp” xuất hiện ba lần trong bài ca. Đáng chú ý, mỗi lần nó được quy về một yếu tố: mặt trời, các ngôi sao và lửa. Ánh sáng có khả năng chiếu toả một sự hứng khởi trong tâm hồn ngài. Thomas Celano viết, “Chiêm ngắm mặt trời, mặt trăng, bầu trời và tất cả các ngôi sao, Phanxicô cảm nhận một niềm vui không thể tàn lụi trào dâng trong tâm hồn mình”.14 Nhưng sự kỳ thú của ngài vươn đến mọi thọ tạo, “Toàn bộ linh hồn của ngài rộng mở biết bao khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của sự vật. Phanxicô không còn thuộc về chính mình nữa. Ở giữa các thọ tạo là một sự huy hoàng đích thực đối với ngài”. “Chúng tôi, những người sống với ngài”, những người bạn đầu tiên của ngài viết, “đã thấy ngài mừng rỡ bên trong và bên ngoài trước mọi thọ tạo, đến nỗi khi chạm chúng hoặc thấy chúng, tinh thần ngài dường như không ở trên đất, nhưng trên trời”.
Chúng tôi muốn phân tích khả năng kỳ diệu của Phanxicô và xem nó trở thành một phần kinh nghiệm tu trì của ngài về thế giới thế này.
Chúng tôi đã chỉ ra những món quà tự nhiên của sự cảm thông và nhân hậu ở tận gốc rễ của tình yêu huynh đệ mà Phanxicô dành cho thọ tạo. Tương tự, trên nền tảng của khả năng kỳ thú của mình là sự nhạy bén của người nghệ sĩ và nhà thơ. Từ thời thanh niên, Phanxicô đã nhạy bén trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Đáng chú ý là lần đầu tiên khi đi ra ngoài, tiếp đến là ngã bệnh trên đường trở về từ việc bị bắt ở Perugia, ngài đi ra ngoài để chiêm ngắm vùng quê xung quanh: ngài muốn tìm lại sự say mê ánh sáng, màu sắc và đường nét. Tuy nhiên, lần này, Phanxicô không tìm thấy sự cuốn hút nào. Dẫu vậy, sự thất vọng của ngài vẫn chấp nhận một tình bằng hữu đã được thiết lập.
Sự nhạy bén trước vẻ đẹp của thế giới đã đào sâu và lớn lên nhờ kinh nghiệm, nhưng nó luôn phô bày một tính cách vốn hiện diện từ sự khơi dậy đầu tiên của nó: một sự bộc trực thực sự trước các sự vật. Cái nhìn kỳ thú của Phanxicô là một cái nhìn ngây thơ. Ngài bỏ qua những gì là thần thoại mà người xưa dùng để giải thích những yếu tố thiên nhiên, ngài cũng bỏ qua những phúng dụ uyên bác của các giáo sĩ. Cái nhìn của ngài hướng đến chính sự vật, trong thực tại tức thời và có thể chạm đến của nó. Những vì sao và bông hoa mà Phanxicô chiêm ngắm là sao và hoa thật. Sao và hoa được lột bỏ chiếc áo thần thoại và khôi phục sự chân thật tự nhiên và tươi mát ban đầu của chúng. Sao và hoa đáng được chiêm ngắm vì chúng. Vì như vậy, thế giới sẽ có thể phục hồi những giá trị trong chính nó.
Ngoài ra, tất cả những điều mà Phanxicô ca ngợi thì ngài biết theo một cách thức rất trực tiếp và thực tế. Chúng là bạn đồng hành không trau chuốt của đời ngài như một người nghèo. Từ đó, Phanxicô bắt đầu tu sửa những ngôi nhà thờ nhỏ trong vùng quê Assisi sau khi ngài cải tâm, ngài sống thanh bần với đá, nước, mặt trời và gió. Khi ngài đi trên các con đường ở Ý trong mọi thời tiết hay khi tỉnh tâm trên núi để sống trong khổ hạnh buồn tẻ, ngài tiếp xúc vĩnh viễn với thực tại không được chế ngự của sự vật. Chính thực tại thực sự đơn giản và không trau chuốt này đã quăng ngài vào sự kỳ thú. Trong Fioretti có một chuyện minh hoạ trọn hảo điều này. Anh Phanxicô và Masseo đi khất thực trong một ngôi làng. Sau đó, họ tìm một nơi thanh vắng để ăn, nơi có con suối đẹp và kế nó là một tảng đá to duyên dáng có hình cái bàn. Họ đặt những mẫu bánh của mình trên tảng đá. Rồi Phanxicô, nhìn vào con suối, cái bàn bằng đá, bánh, và hô lên, “Hỡi anh Masseo, chúng ta không đáng nhận một kho báu như thế này!”. Sau khi nghe Phanxicô lặp lại lời này vài lần, thầy Masseo không thể cầm mình, “Thưa Cha, tại sao cha nói về kho báu ở một nơi khó khăn và thiếu thốn như thế này? Không khăn, không dao, thớt, bát, nhà, bàn…”. Phanxicô trả lời: “Đó đúng là điều mà tôi thấy như một kho báu lớn - không có điều gì ở đây được chuẩn bị bởi lao công con người. Mọi thứ là quà tặng của Thiên Chúa: bánh ăn xin được, bàn đá đẹp và nước suối trong”.15
Vẻ đẹp của vạn vật, như Phanxicô khám phá, không phải là một sắp xếp bên ngoài, một vẻ đẹp gây hiếu kỳ hay đơn thuần là một sự trang trí. Sự vật ở đó dưới cái nhìn của Phanxicô thì trần trụi nguyên sơ, như một cuộc thần hiện của hữu thể. Vẻ đẹp chính là sự huy hoàng bí mật được phát sáng bởi chính sự vật. Nó thật kỳ diệu như chính sự sống.
Tính thẩm mỹ của sự nghèo khó và khiêm hạ này tháp nhập chân lý của thọ tạo. Sự vật mà Phanxicô ca ngợi trong bài ca của mình được tô điểm bởi một sự đơn sơ gây bối rối. Không sự can thiệp nhân tạo nào khiến chúng phải biến dạng. Nhưng tất cả đều toả sáng. Chúng chiếu toả nhờ sức mạnh sự đơn sơ của chúng. Cái khiêm tốn nhất cũng như cái vĩ đại nhất. Chị Nước, rất gần gũi với đất, toả rạng như sao trên bầu trời. Mầu nhiệm này chính là ánh sáng: đây là điều mà bài ca công bố.
Chỉ một tâm hồn không còn gì để mất và trong suốt mới có được sự tinh tuyền vốn cho phép nó nhìn thấy sự huy hoàng này và nhận ra trong đó nét quyến rũ và biểu tượng vẻ đẹp vô hình của Tạo Hoá. “Phanxicô”, Thomas Celano viết, “biết cách chiêm ngắm Đấng Toàn Mỹ trong một sự vật đẹp”.16 Trong dòng nước lũ, Phanxicô nhìn thấy tận suối nguồn.
Chúng ta không thể tách rời cái nhìn kỳ thú của Phanxicô với đời sống nội tâm sâu sắc của ngài. Như những người hát rong vào thời đó, những người mà ngài sánh ví với chính mình, Phanxicô ca ngợi thiên nhiên bằng ngôn ngữ của tình yêu đang nung nấu tâm can ngài. Bài ca vũ trụ của ngài liên kết chặt chẽ với việc chiêm ngắm Đức Kitô. “Rất thường trong một chuyến đi, ngài suy gẫm và hát về Đức Giêsu”, Celano viết, “nên ngài quên cả những mệt nhọc khi rảo bước qua các nẻo đường và mời gọi mọi yếu tố sông nước cùng ca tụng Đức Giêsu với ngài”.17 Chúng ta không thể gợi lên quá nhiều sự chú ý đến sự kiện rằng, người hát Bài Ca Mặt Trời là người bị bêu xấu của xứ Alverna, người mang trong mình hình ảnh bốc cháy của một tình yêu nhập thể.
Mở đầu những bài hát của những người hát rong luôn luôn có hình ảnh của một tiết xuân bắt đầu nở hoa. Mùa xuân lộng lẫy những khóm hoa trong vườn cây ăn trái và tràn ngập tiếng chim, là hình ảnh tâm hồn của nhà thơ. Ông yêu và tâm hồn ông được biến đổi bởi tình yêu đó. Sự biến đổi sâu sắc này mang ông đến chỗ thấy những điều mới lạ; ngang qua điều kỳ thú, nó làm cho ông tham gia vào sự biến đổi của thế giới.
Điều mà tình yêu nhân loại tác động nơi những người hát rong thì nơi Phanxicô, chính tình yêu Thiên Chúa đã làm điều đó, nhưng chân thật và sâu sắc hơn nhiều. Thế giới chói lọi và thân thiện được chiêm ngắm và tán dương, Phanxicô khám phá bằng cách đi từ những gì ngài trải nghiệm trong chính mình, trong tương quan mật thiết của ngài với Đức Kitô. Đây là kinh nghiệm về một cuộc sáng tạo mới. Tình yêu sáng tạo lớn lao mà Phanxicô mở lòng đón lấy biến ngài thành một con người mới, con người của thế giới tương lai. Cái nhìn kỳ thú mà ngài phóng về phía thế giới là cái nhìn của một người khám phá mọi sự trong ánh sáng phục sinh. Đó là một cái nhìn sáng tạo và tiên tri. Thomas Celano viết với một sự tinh thông sâu sắc, “Vẻ Đẹp vốn là nguồn của mọi sự vốn một ngày kia, sẽ trở nên tất cả trong mọi sự nơi con mắt của thánh nhân”.18 Không phải mọi thọ tạo đã được giao hòa và tái kết huynh đệ trong Đức Kitô phục sinh sao?
Chính trong ánh sáng này mà những cách diễn đạt của bài ca mang lấy mọi ý nghĩa của chúng: Anh Mặt Trời, Chị Mặt Trăng, Anh Gió, Chị Nước, Anh Lửa… Những hình ảnh này, vốn thiết lập một mối quan hệ họ hàng trực tiếp giữa con người và thế giới, được định đoạt để diễn tả thực tại trong sự toàn vẹn và duy nhất của nó. Chúng xoá bỏ mọi ranh giới, khôi phục sự sung mãn của hữu thể vốn vượt xa mọi khái niệm. Những hình ảnh này tạo nên một sự dịch chuyển vượt xa bất kỳ xung đột hay đoạn giao nào ở chính trung tâm hữu thể. Chúng tạo nên sự thống nhất: sự thống nhất của con người và thiên nhiên, của tinh thần và cuộc sống, của tự do và nhu cầu. Chúng hát về một cuộc trở về nguồn của hữu thể, một cuộc trở về với tuổi thơ của thế giới.


tải về 330.73 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương