Câu 1: Đồng chí hãy cho biết Quốc dân Đại hội Tân Trào – Tiền thân của Quốc hội Việt Nam diễn ra như thế nào



tải về 0.67 Mb.
trang1/12
Chuyển đổi dữ liệu02.06.2022
Kích0.67 Mb.
#52207
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12
Tìm hiểu 75 năm Quốc hội Việt Nam word
Tìm hiểu đặc trưng dân số của một quốc gia

Câu 1: Đồng chí hãy cho biết Quốc dân Đại hội Tân Trào – Tiền thân của Quốc hội Việt Nam diễn ra như thế nào?

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã có truyền thống anh hùng bất khuất, không chịu khuất phục trước xiềng xích nô lệ và đã nhiều lần đánh đuổi được các kẻ thù hùng mạnh, tạo nên những trang sử oai hùng để tiếng vang muôn đời. Dân tộc ta còn có một nền văn hiến lâu đời, có tình đoàn kết thuỷ chung, có tình nghĩa đồng bào sâu nặng... Đó là một nét tiêu biểu trong bản sắc dân tộc của người Việt Nam.


Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lịch sử đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân tộc ta. Chúng ta có quyền tự hào về những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung v.v... Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị Anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng..."


Dựa vào dân, bồi dưỡng sức dân, động viên toàn dân, phát huy sức mạnh truyền thống và bản sắc dân tộc của người Việt nam là kế sâu, gốc bền của sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Vì thế, mỗi khi vận nước bị đe doạ, ngoại bang nhòm ngó và xâm lăng, cả nước đồng tâm, toàn dân tụ hợp, khi quân Nguyên Mông xâm lược triều đình đã cho mở Hội nghị "Diên Hồng", để lấy ý kiến của các bậc hương thân, phụ lão để cứu nước, cứu nhà. Đó là bí quyết thắng lợi, tạo nên những chiến công hiển hách trong lịch sử: Bạch Đằng, Chi Lăng, Xương Giang, Đống Đa...


Giá trị tinh thần truyền thống ấy đã được giữ gìn và phát triển từ thế hệ này qua thế hệ khác.


Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và thống trị nước ta. Ngay từ khi Pháp nổ súng xâm lược, nhân dân ta đã liên tục đứng lên kháng Pháp, kẻ trước ngã, người sau kế tiếp. Song, tất cả phong trào yêu nước chống Pháp lúc bấy giờ đã lần lượt thất bại.




Việt Nam đã trở thành một thuộc địa của Pháp. Dân ta bị áp bức và bóc lột nặng nề, dưới xiềng xích nô lệ dân ta bị mất hết quyền cơ bản của một con người. Phá ách áp bức, chặt xiềng nô lệ cho đồng bào, giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do là yêu cầu bức thiết nhất của toàn dân ta.

Sau nhiều năm bôn ba nơi đất khách quê Người, đi tìm chân lý của thời đại, đi tìm con đường cứu nước, cứu dân. Tháng 7 năm 1920, khi đọc Bản Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã phấn khởi, tin tưởng, coi đó là "cái cẩm nang cần thiết cho chúng ta", là con đường giải phóng đất nước.


Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của cả dân chúng, của toàn thể quốc dân đồng bào. Phải khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, tình nghĩa đồng bào, khối đoàn kết dân tộc, sĩ, nông, công, thương lấy công - nông làm gốc nhằm tạo nên sức mạnh dân tộc để chiến đấu và chiến thắng đế quốc, thực dân.


Tháng 2 năm 1930, Hồ Chí Minh đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và soạn thảo Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng. Đó là bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xác định chủ trương chiến lược làm cách mạng tư sản dân quyền để đi tới xã hội cộng sản. Đảng phải vận động thu phục cho được đông đảo quần chúng công dân, nông dân, ra sức lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông, tập hợp hoặc trung lập phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam nhằm thực hiện các nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến, trước mắt là chống đế quốc và tay sai, giành độc lập, tự do cho toàn thể nhân dân Việt Nam




Độc lập và tự do là tư tưởng chủ yếu trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.

Dưới ngọn cờ cách mạng của Đảng, một cao trào cách mạng đã bùng lên mạnh mẽ trong toàn quốc năm 1930 - 1931, mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh. Tiếp đến là cao trào Dân chủ rộng lớn và sôi nổi khắp cả ba miền Bắc, Trung, Nam trong những năm 1936 - 1939. Đây là các cuộc tổng diễn tập cho cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.


Tháng 9 tháng 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Đế quốc Pháp tham chiến. Phát xít Nhật xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp đầu hàng và dâng Đông Dương cho Nhật.


Nhật - Pháp cấu kết với nhau ra sức bóc lột, đàn áp nhân dân các dân tộc Đông Dương. Nhân dân ta oằn mình trước gót giày cướp bóc của thực dân Pháp và phát xít Nhật vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Vì vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11 năm 1939 d­ưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Văn Cừ và đặc biệt là Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5 năm 1941 do Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo, đã nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác lại nhiệm vụ cách mạng ruộng đất; thống nhất lực lượng cách mạng dân tộc của ba nước trên bán đảo Đông Dương; không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, tiểu tư sản, tư sản bản xứ, trung, tiểu địa chủ, ai có lòng yêu nước thương nòi đều tham gia vào một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, đánh Pháp, đuổi Nhật, giành quyền độc lập, tự do cho các dân tộc ở Đông Dương theo quan điểm thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Đối với Việt Nam, sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật sẽ lập nên một nước Việt Nam mới theo chế độ Dân chủ cộng hoà. Cách mạng Đông Dương hiện tại chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp là giải phóng dân tộc, vì nếu không đánh đuổi được Pháp - Nhật thì chẳng những vận mệnh của dân tộc phải chịu kiếp ngựa trâu muôn đời mà vấn đề ruộng đất cũng không sao giải quyết được. Do đó, tính chất của cách mạng Đông Dương lúc này là "cách mạng dân tộc giải phóng". Vì quyền lợi sinh tồn của dân tộc, phải khơi dậy mạnh mẽ chí khí cách mạng, tinh thần yêu nước bất khuất, đoàn kết, thống nhất các lực lượng yêu nước trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi lấy tên là Việt Nam Độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh.




Tháng 6 năm 1941, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào toàn quốc. Người viết: "Trong lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi, lửa nóng... Việc cứu quốc là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: Người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng...."

Ngày 25/10/1941, Việt Nam Độc lập đồng minh đã chính thức tuyên bố ra đời. Tuyên ngôn của Việt Minh nêu rõ: "Từ khi lập quốc, xét lịch sử nước ta, chưa bao giờ dân tộc ta nhục nhằn, đau khổ như lúc này... Nguy cơ diệt vong đã bày ra trước mắt. Hiện thời, chúng ta chỉ có một con đường mưu sống là đoàn kết thống nhất, đánh đuổi Nhật - Pháp, trừ khử Việt gian. Mở con đường sống ấy cho đồng bào, Việt Nam Độc lập đồng minh (Việt Minh) ra đời chào các bạn".




Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính, lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương, tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, xác định đây là điều kiện khách quan cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong cả nước đã chín muồi, "thời cơ ngàn năm có một" đã đến, trong lúc điều kiện chủ quan của ta hết sức thuận lợi, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị mở rộng và ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", vạch ra những nhiệm vụ và chủ trương, biện pháp cách mạng mới để chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước phù hợp với tình hình lúc này. Một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa đã phát triển trong toàn quốc. Phong trào chiến tranh du kích, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều địa phương, nhất là ở thượng du và trung du Bắc Kỳ. Hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Giang... được giải phóng.


Tháng 5 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Pắc Bó, Cao Bằng về Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang lãnh đạo cách mạng. Ngày 04/6/1945, Hội nghị Cán bộ Việt Minh đã quyết nghị thành lập khu giải phóng, gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận thuộc Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên và thành lập Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng. Uỷ ban có nhiệm vụ lãnh đạo toàn Khu về các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội. Chính sách chung của Uỷ ban lâm thời dựa vào ba điểm chính, đó là: Tổng động viên nhân dân trong khu để kháng Nhật; căn cứ vào điều kiện cụ thể và nhu cầu của cuộc kháng chiến mà thực hiện chương trình Việt Minh, kiến lập nền Dân chủ cộng hoà và ban bố các quyền phổ thông đầu phiếu, tự do dân chủ, dân tộc tự quyết, nam nữ bình quyền; cải thiện sinh hoạt cho nhân dân: Bỏ sưu, bỏ thuế thân, vận động sinh sản, v.v... Tân Trào được chọn là Thủ đô lâm thời của Khu giải phóng, là căn cứ địa chính của cách mạng cả nước, là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới. Hơn một triệu đồng bào trong Khu giải phóng bắt đầu được hưởng thành quả cách mạng. Tại Tân Trào, đồng chí Hồ Chí Minh chỉ thị phải gấp rút họp Đại hội đại biểu Quốc dân. Lúc bấy giờ, cao trào Kháng Nhật cứu nước đang cuồn cuộn dâng lên từ Nam chí Bắc. Toàn quốc đang mong đợi một Chính phủ lâm thời cách mạng của nước Việt Nam độc lập.Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Ngay đêm hôm đó, Uỷ ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng đã hạ lệnh khởi nghĩa. Uỷ ban khởi nghĩa cũng đã ra Quân lệnh số 1, kêu gọi đồng bào cả nước đứng dậy tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Sáng ngày 15/8/1945, được tin vua Nhật ra lệnh đầu hàng cho quân đội Nhật, đồng chí Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh thấy không thể chờ đợi cho thật đông đủ tất cả các đại biểu nữa nên đã quyết định khai mạc Đại hội đại biểu Quốc dân vào chiều ngày 16/8/1945 và tiến hành rất nhanh chóng để các đại biểu có thể mang lệnh khởi nghĩa về các địa phương. Hơn 60 đại biểu đại diện cho các Đảng phái chính trị, các Đoàn thể cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo, có cả đại biểu từ Nam bộ, miền Nam Trung Bộ và Việt Kiều ở Thái Lan, Lào về dự Đại hội họp tại Đình Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

Tại Đại hội, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương đã đọc bản báo cáo, trong đó nhấn mạnh hai vấn đề lớn: Tổng khởi nghĩa và bầu Ủy ban dân tộc giải phóng. Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi dậy tước vũ khí của Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, giành lấy chính quyền từ tay Nhật, lật đổ bọn bù nhìn tay sai của Nhật, đứng địa vị cầm quyền mà tiếp đón quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật trên đất Đông Dương. Trên cơ sở đó, Đại hội đã tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh; đồng thời nhất trí thông qua 10 chính sách của Việt Minh. Đại hội đã quyết định thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đồng chí Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch và các đồng chí Ủy viên. Đồng thời, Đại hội cũng quy định Quốc kỳ là cờ đỏ, sao vàng 5 cánh, Quốc ca là bài “Tiến quân ca” của Nhà nước Việt Nam.
Ngày 17/8/1945, Đại hội bế mạc trong không khí tổng khởi nghĩa sôi sục. Thay mặt Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời tuyên thệ: “Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, không lùi bước". Trước giờ phút đấu tranh quyết liệt và khẩn trương, đồng chí Hồ Chí Minh - Chủ tịch Uỷ ban dân tộc giải phóng đã gửi thư kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước, các đoàn thể cứu quốc nổi dậy giành chính quyền, gia nhập Việt Minh, làm cho Việt Minh lớn mạnh và chính sách của Việt Minh được thực hiện khắp cả nước, trong đó có đoạn viết: “...Hỡi đồng bào yêu quí! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên ! Tiến lên ! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên !...”.
Thực hiện nghị quyết tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Quốc dân Đại hội nhân dân cả nước, triệu người như một nhất tề nổi dậy với ý chí dù phải hy sinh đến đâu, cũng phải giành cho được chính quyền trong toàn quốc. Cuộc Tổng khởi nghĩa đã nhanh chóng giành được thắng lợi, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (19/8/1945), Huế (23/8/1945), Sài Gòn (25/8/1945)... Chính quyền trong cả nước đã thuộc về nhân dân. Vua Bảo Đại xin thoái vị để "được làm dân tự do của một nước độc lập". Với thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp, Nhật; lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Quốc dân Đại hội Tân Trào (tiền thân của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam) họp tại Đình Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang ngày 16, 17/8/1945 là Quốc dân Đại hội Tân Trào là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử cách mạng Việt Nam, phát động khởi nghĩa giành chính quyền một cách nhanh nhất, khẩn trương nhất, để cả đất nước Việt Nam đứng lên tự làm chủ vận mệnh mình và đất nước mình. Thắng lợi của Đại hội biểu hiện sự sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và thực thi từng bước tư tưởng dân quyền ngay trong tiến trình đấu tranh giành quyền độc lập dân tộc bằng hình thức tổ chức Quốc dân Đại hội để thông qua quyết sách chuyển xoay vận nước bằng Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, xóa bỏ chế độ cũ, thi hành 10 chính sách của Việt Minh, đặt cơ sở mang tính pháp lý cách mạng đầu tiên cho một chế độ mới của dân, do dân và vì dân khi ra đời…
Quốc dân Đại hội Tân Trào là một tiến bộ lớn trong lịch sử đấu tranh giải phóng của dân tộc ta, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng đánh giá. Đây là một Đại hội mang tầm vóc lịch sử của một Quốc hội, một cơ quan quyền lực nhà nước lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Uỷ ban dân tộc giải phóng (tức Chính phủ cách mạng lâm thời) của nước Việt Nam được Quốc dân Đại hội bầu ra ngày 16 tháng 8 năm 1945 là người đại diện chân chính, hợp pháp duy nhất của nhân dân Việt Nam để thực hiện những quyết sách lớn của công cuộc cứu nước và kiến quốc. Đây là thắng lợi lớn của nghệ thuật chớp đúng thời cơ của Tổng bộ Việt Minh, của Chủ tịch Hồ Chí Minh; là sự sáng tạo độc đáo của Người trong việc vận dụng và thực thi từng bước tư tưởng dân quyền ngay trong tiến trình đấu tranh giành quyền độc lập.
Quốc dân Đại hội Tân Trào là mốc son trong lịch sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam và như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Vừa đây, Việt Minh lại triệu tập "Việt Nam quốc dân đại biểu Đại hội", cử ra Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam để lãnh đạo toàn quốc nhân dân kiên quyết đấu tranh kỳ cho nước được độc lập. Đó là một tiến bộ rất lớn trong lịch sử tranh đấu giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay. Đó là một điều khiến cho đồng bào ta phấn khởi và riêng tôi hết sức vui mừng".
Câu 2: Đồng chí hãy cho biết từ khi thành lập đến nay, Quốc hội Việt Nam đã trải qua mấy kì bầu cử? Kết quả, ý nghĩa của cuộc Tổng tuyển cử năm 1946 và cuộc Tổng tuyển cử năm 1976?
Từ khi thành lập đến nay, Quốc hội Việt Nam đã trải qua 14 kì bầu cử, bắt đầu từ năm 1946 đến nay là năm 2020.

tải về 0.67 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương