Chuyển sang ebook


Chương 19: Nghĩa vụ lao khổ



tải về 1.34 Mb.
trang15/19
Chuyển đổi dữ liệu01.12.2017
Kích1.34 Mb.
#34907
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   19

Chương 19: Nghĩa vụ lao khổ


Tôi đến New York với chỉ một hướng dẫn - địa chỉ và điện thoại của một ngôi chùa Trung Hoa ở Bronx, mà nhiều năm trước đó ở Malaysia, một vị sư đã cho tôi, và mời tôi đến thăm họ nếu có bao giờ tôi đến Mỹ.

Tôi lang thang quanh phi trường Kennedy cho đến khi tôi thấy một máy điện thoại công cộng.

Tôi bước đến, cầm ống nghe lên và quay con số chùa trên tấm danh thiếp. Tôi thấy lỗ bỏ tiền xu trên điện thoại nhưng lúc đó tôi không biết đó là gì. Mà nếu như có biết, tôi cũng chưa có đồng xu Mỹ nào, chỉ có tiền giấy.

Trong suốt ít nhất cũng là bốn mươi lăm phút, tôi quay đi, quay lại số điện thoại mà cũng chẳng được gì. Tôi không hiểu tại sao lại không có gì xảy ra. Và tôi cũng không thể hiểu lời hướng dẫn đã ghi âm sẵn trong máy bảo tôi phải bỏ mười xu vào.

Cuối cùng tôi bỏ cuộc. Tôi thấy một phụ nữ trẻ ngồi ở một nơi giống như bàn hướng dẫn. Tôi tiến đến và cố gắng phát âm tiếng Anh với hết khả năng của mình, để hỏi cô cách sử dụng điện thoại.

Cô ta không trả lời. Cô chỉ trố mắt nhìn tôi. Tôi lặp lại câu hỏi của mình. Cô ta nhìn tôi như thể bị hớp hồn. Tôi nghĩ có thể cô ta không hiểu tôi. Hay cách tôi phát âm tiếng Anh quá nặng.

Rồi tôi chợt hiểu ra: Cô gái trẻ này chưa bao giờ thấy ai giống như tôi. Một người đàn ông nhỏ thó với cái đầu trọc, mình lại quấn y vàng. Có thể cô ta đã nghĩ tôi là một loại hippy tâm thần, mặc y phục của người Ấn Độ -dầu gì đây cũng là thời kỳ của những năm sáu mươi.

Chán nản, tôi quay đi, kéo lê hai chiếc va-li nặng nề của mình. Tôi cảm thấy mệt mỏi và buồn ngủ. Cho tới lúc này, tôi đã lang thang trong phi trường ít nhất là một giờ. Trong tuyệt vọng, tôi bắt đầu hỏi bất cứ ai đi ngang thử xem họ có biết đường đến chùa Trung Hoa ở Bronx. Tôi chặn bất cứ ai lại, tất cả mọi người.

Dĩ nhiên, sau này tôi mới biết, đó là điều mà bạn không nên làm ở Queens.

Người ta nhìn tôi như thể tôi điên. Hoặc họ chỉ phớt lờ tôi, lướt qua mà chẳng để ý đến câu hỏi của tôi.

Cuối cùng, có người cảm thấy tội nghiệp cho tôi. Ông ta bảo tôi ra cửa phi trường, lấy taxi về Bronx.

Tôi làm theo lời ông, rồi chẳng bao lâu sau tôi đứng đợi trong một hàng dài với các hành khách khác, ở trạm taxi.  Khi đến phiên tôi, vì lý do gì đó, người tài xế taxi từ chối không chở tôi. Chiếc kế tiếp và kế tiếp nữa cũng vậy. Không ai muốn chở tôi.

Tôi hoàn toàn bối rối. Vẻ bề ngoài của tôi đáng sợ đến thế sao? Tôi có thể nói tiếng Anh, tôi cũng có tiền để trả họ mà. Nhưng không ai muốn chở tôi.

Cuối cùng, một bác tài đồng ý cho tôi lên xe. Ông có vẻ chẳng thích thú gì khi ông vứt hành lý tôi vào thùng xe.  Khi xe vừa tách khỏi lề đường, ông hỏi tôi muốn đi đâu.

“Chùa Phật giáo Trung Hoa ở Bronx,” tôi trả lời.

Bác tài lập tức tấp lại bên đường và thắng mạnh. Ông ta nhảy ra khỏi xe.

“Ra khỏi xe đi,” ông ra lệnh.  “Tôi không đi Bronx.”

Chán nản và hoang mang, tôi kéo hành lý trở lại sắp hàng chờ taxi khác. Lần nữa, cũng cảnh chán nản đó tái diễn: Khi tôi cuối cùng đến được đầu hàng, thì người tài xế này đến người tài xế khác đều từ chối chở tôi.

Lúc đó trời đã tối và đã khuya lắm rồi. Tôi bắt đầu hoảng sợ. Tôi sẽ làm sao qua đêm nếu không có bác tài nào chịu cho tôi lên xe? Tôi đã tưởng Mỹ là một nơi thân thiện, cởi mở, nhưng giờ ở đây tôi đã bị đối xử với sự nghi ngờ, thô lỗ.

(Dĩ nhiên, mãi sau này, tôi mới hiểu rằng đi đến Bronx vào đêm khuya như thế không an tòan. Cộng thêm với vẻ bề ngoài lạ lùng của tôi, có lẽ đã khiến cho các bác tài xế taxi phải lo sợ.)

Mãi đến hơn 10 giờ 30 tối, khi hành khách đã thưa đi, các bác tài mới chịu đi xa một chút, cuối cùng một người bằng lòng chở tôi đến Bronx. Tôi thật sự hoàn hồn.

Khi đến nơi, chúng tôi thấy chùa tối đen nhưng khi tôi nhấn chuông, đèn ngoài hiên bật sáng. Tôi tự giới thiệu mình và sau đó cửa mở, để lộ ra gương mặt của một tu sĩ người Trung hoa. Ông không nói tiếng Anh, nhưng nhận thấy tôi mặc y áo, nên để tôi vào. Ông mang cho tôi một ly trà xanh ngút khói và đưa vào một căn phòng ấm áp để ngủ.  Cuối cùng thật là tuyệt vời để có một chỗ ngả lưng.

Sáng hôm sau, sau bữa điểm tâm, một phụ nữ Mỹ trẻ xuất hiện. Cô có mái tóc đen, cắt ngắn và mang kính gọng sừng. Cô tự giới thiệu là Martha Sentnor, một Phật Tử ở chùa này.

Khi tôi nói rằng tôi đến Mỹ để sống ở chùa Phật Giáo Washington, cô nở rộng nụ cười.

“Tôi là một thành viên của chùa,” cô nói.” Tôi đã đến đó nhiều lần rồi.”

Tôi kể lại những phiền phức mà tôi gặp ở phi trường cho cô nghe.

“Ồ, Bhante,” cô nói, dùng thuật ngữ để gọi một cách thân mật, có nghĩa là thưa đại đức, "đó là chuyện bình thường trong một thành phố lớn như New York. Người ta có thể rất bất lịch sự. Sư có thể coi như may mắn là đã không bị mugged (trấn lột).”

Cô phải giải thích cho tôi nghe từ mugged nghĩa là gì.

Những ngày sau đó, Martha tử tế chở tôi đi quanh thăm các điểm du lịch ở Manhattan: Tượng nữ thần tự do, tòa Empire State, cảng Nữu Ước. Không gian, sự hối hả và tiếng ồn của thành phố choáng ngợp tôi. Tôi chưa bao giờ kinh nghiệm thứ gì giống như vậy. Tưởng chừng như đây là một thế giới khác với thế giới của ngôi làng nhỏ bé của tôi ở Henepola.

Một tuần lễ sau, tôi bay từ Nữu Ước đến Washington, chặng cuối cùng của cuộc hành trình của tôi. Tôi đặt chân đến phi trường National vào ngày 26 tháng 9.  Có hai người chờ đón tôi ở đó:  Đại đức Dickwela Piyananda và Michael Roehm, một thanh niên Mỹ, Phật tử chùa Phật giáo Washington.

Nơi trú ngụ mới của tôi là một ngôi nhà bằng gạch, ba tầng đã xuống cấp, nằm trên đường số 16 Tây Bắc.  Một bên chùa là nhà thờ Cơ Đốc Hy Lạp, bên kia là một nhà tư nhân. Cuối đường là tòa Đại sứ Nga và Canada.

Chùa Phật giáo Washington là chùa Phật Giáo Nguyên thủy đầu tiên ở Mỹ, do hội Sasanasevaka ở Ceylon thành lập.

Năm 1965 một tu sĩ trẻ người Sinhala, tên là đại đức Bope Vinita sang Mỹ để học ở trường Harvard Divinity nhờ vào học bổng của Quỹ Tài Trợ Á châu.  Trong khi sống và học ở Boston, đại đức Vinita thấy rằng người Mỹ rất thích nghiên cứu về các tôn giáo phương Đông. Đó là khoảng thời gian của Jack Kerouac, các nhà thơ trường phái Beat, Alan Watts và Thiền, và Richard Alpert tự là Ram Dass.

Khi đại đức Vinita trở về Ceylon, ông trình lại điều này với đại sư Madihe Pannasiha Mahanayaka, hội trưởng Hội Sasanasevaka. Một năm sau đó, năm 1966, Đại sư Pannashiha tự thân hành đến Mỹ, và đã đi thăm viếng nhiều thành phố. Ông cũng thấy có nhiều người rất thích tìm hiểu Phật Giáo. Khi trở lại Ceylon, đại sư thuyết phục Hội quyên tiền để xây chùa ở Mỹ.

Với số tiền $16,500 đô trong tay, đại đức Vinita trở lại Mỹ vào đầu năm 1967, và tham khảo ý kiến của Oliver Weerasinghe, Đại sứ của Ceylon ở Mỹ lúc đó.

“Tại sao không xây dựng ngôi chùa mới đó ngay tại đây ở Washington?” Weerasinghe đề nghị. Sau đó hai người tìm được một tòa nhà thích hợp trước kia là tòa đại sứ của Thái, đang cần bán. Trong lúc họ đang thương lượng với chính phủ Thái để mua ngôi nhà, thì một tu sĩ người Sinhala khác cũng đến Mỹ, đại đức Dickwela Piyananda. Ông và đại đức Vinita sống chung trong một căn phòng nhỏ bé trên đường Harvard ở Washington.

Cuộc thương lượng phải mất nhiều tháng. Cuối cùng khi việc ngã giá bán mua gần hòan tất, chính phủ Thái cho phép Đại đức Piyananda dọn vào tòa nhà, dầu giấy tờ mua bán chưa ký xong. Đại đức Vinita ở lại căn phòng thuê.

Ngay khoảng thời gian đó, vào mùa thu năm 1968 tôi đến.

Ngay buổi tối đầu tiên của tôi ở chùa, đại đức Piyananda bảo tôi, “Tôi là một người già cả ở đây. Nhưng sư còn trẻ, đầy nhiệt huyết và có nhiều kinh nghiệm. Nơi này rất nhiều việc, và tôi muốn sư đảm trách công việc này. Tôi sẽ là người chủ trì ở đây, để cố vấn sư khi nào sư cần giúp đỡ.  Nhưng tôi muốn sư đảm trách các công việc.”

Đại đức Piyananda không già đến thế, còn chưa đến sáu mươi, nhưng tôi nghĩ ông không quen với công việc chân tay. Ý nghĩ phải tái tạo lại tòa nhà đã xuống cấp này khiến ông ái ngại. Vì thế, ông rất mừng được có một tăng sĩ trẻ đến góp tay.

Vì thế tôi bắt đầu làm việc một mình. (Đại đức Vinita đã trở lại Ceylon ngay khi tôi vừa đến Mỹ).

Tòa nhà rộng mênh mông:  Tám phòng ngủ, bốn nhà tắm, một tầng hầm và một căn gác. Tòa đại sứ Thái đã chứa các sinh viên đại học ở đó, mà những sinh viên này có thể đã không nương tay với tòa nhà. Các cửa sổ, cửa ra vào đều hỏng. Nhiều phòng, giấy dán tường loang lổ. Trần nhà của căn hầm vôi vữa ra. Nhiều cửa không có khóa. Mái nhà cũng xuống cấp. Vườn tuợc thì giống như một khu rừng rậm.

Máy nước nóng bị nhiễu, toilet cũng vậy. Trong một phòng tắm, vòi sen tắm giống như chỉ được gắn đại vào.  Khi vặn vòi, nước sẽ chĩa lên trần nhà, vì thế chúng tôi đã gắn một miếng kiếng trên đó để nước dội trở lại. Để tắm được bằng vòi sen, nếu bạn có thể gọi như thế, tôi phải ngồi dưới vòi nước chảy ngược lại đó.

Nói đến việc tu sửa, tôi cũng không biết tôi đang làm gì? Tôi không có kinh nghiệm xây dựng gì cả, vì thế tôi đi đến một tiệm bán đồ gia dụng gần nhất, cách chùa khoảng một dặm và bắt đầu bằng nhiều câu hỏi. Đối với những công trình tu sửa lớn, tôi phải đợi đến khi có đủ tiền cúng dường để trả cho vật liệu xây dựng. Sau đó, tôi phải khiêng vác bất cứ vật liệu nào tôi mua, kể cả gỗ.

Sau một thời gian tôi được một vài người Thái  đến chùa giúp đỡ. Rồi dần dần, một số gia đình người Burma, Việt Nam cũng đến góp tay. Chúng tôi đập tường ở tầng dưới ra, ghép mấy phòng nhỏ thành một phòng lớn, dùng làm chánh điện.  Rồi chúng tôi bắt tay vào sửa sang phòng ngủ để có thể ở được.

Tôi đóng đinh, mài dũa, dựng cột, thọc các ống thông hơi -làm tất cả mà không đeo mặt nạ. Tôi nghĩ tất cả những bụi bặm và mảnh vụn mà tôi hít thở trong những tháng ngày này đã khiến tôi phát sinh bịnh dị ứng, mà vẫn còn cho đến ngày nay.

Tôi cũng phụ trách luôn các việc thường nhật ở chùa –đi chợ, dọn dẹp, cắt cỏ, công việc văn phòng, thâu tiền cúng dường, và dạy các lớp giáo lý. Để kêu gọi thêm nhiều thành viên, tôi đã quyết định in một tờ tin hàng tháng. Tôi làm báo trên một máy in quay bằng tay.  Số đầu tiên rất đơn giản: tôi viết về hành trình đến Washington của tôi và công việc trùng tu sửa Chùa. Tôi cũng kêu gọi sự hỗ trợ về tài chánh để trả nợ tiền mua lại tòa nhà.

Phần lớn thời gian, tôi mệt nhoài.  Ngày của tôi bắt đầu từ 5 giờ sáng đến 11 giờ đêm, với những công việc không dừng dứt. Và nếu có khách đến thăm Chùa, tôi phải bỏ tất cả công việc đang làm để tiếp họ.

Dĩ nhiên vì đang ở Mỹ, chúng tôi không thể đi khất thực. Khất thực ở cửa nhà người có thể khiến chúng tôi phải đi tù. Một vài gia đình là đệ tử chùa mang đồ ăn đến như là một hành động của dana, hay cúng dường, nhưng việc đó chắc chắn không thể xảy ra mỗi ngày. Vì thế tôi phải tự học nấu ăn.

Là một tăng sĩ ở Á châu, tôi luôn được phục vụ. Chưa bao giờ tôi nghĩ là khi đến Mỹ tôi phải lao động chân tay, làm đầu bếp, thợ sửa nhà.

Thú thật, tôi khá muộn phiền.

Nhưng dĩ nhiên là tôi không thể quay về, trở lại Á châu. Không có nơi nào để trở về, và tôi đã dự định là ở lại Mỹ luôn. May mắn thay, sự vận động tay chân và các nỗ lực trong việc sửa chữa chùa đã giúp tôi thật sự “giải tỏa” sự sân hận của mình.

Dần dần, tôi bắt đầu yêu thích công việc mình làm. Học được nhiều kỹ năng cũng thú. Và cuối cùng tôi nhận ra rằng sân hận không có gì hơn là một sự lãng phí năng lượng – năng lượng mà tôi rất cần để dán giấy lên tường!

Tuần thứ 3 của tháng mười, chưa đầy một tháng sau khi tôi đến, Sư Piyananda về Ceylon nghỉ phép hai tháng. Giờ thì tôi thật sự quản lý, và tôi chỉ có một mình.

Vào một ngày cuối tháng 10 khoảng giờ ăn tối, chuông cửa vang lên.

Tôi mở cửa trước ra và thấy một đám trẻ đứng ở đó, mang những mặt nạ dễ sợ. Những chú quỷ nhỏ, ma cà-rong, và phù thủy đang trố mắt nhìn tôi. Đây có thể là một trong những “kẻ cướp” mà Martha Sentnor đã nói với tôi chăng?

"Các cháu là ai?” tôi hỏi một cách lo lắng.

“ TRICK OR TREAT!”, lũ trẻ la lên.

“Xin lỗi?” tôi hỏi. Tôi hoàn toàn không hiểu tại sao lũ trẻ la hét với tôi.

Một trong những đứa lớn, tròn mắt lên giải thích là chúng muốn kẹo. Nếu tôi không cho chúng, chúng sẽ liệng trứng vào nhà chúng tôi.

Tôi vẫn không hiểu, nhưng tôi nghĩ tốt hơn hết là làm vừa lòng những đứa trẻ này. Tôi vào nhà bếp và tìm thấy một vài hộp bánh do các đệ tử Chùa để lại. Tôi trở ra cửa trước, chia cho mỗi đứa trẻ một cái bánh. Tôi thở phào, khi đám trẻ nhận bánh rồi chạy đi.

Vài phút sau đó, chuông cửa lại vang lên. Tôi không thể tin được: Lại thêm nhiều đứa trẻ nữa, lại đòi kẹo! Lần nữa tôi lại mang bánh ra cho chúng.

Cứ như thế suốt buổi tối. Ngày hôm sau tôi kể chuyện lại với một thành viên người Mỹ của Chùa. Tôi nghĩ ông sẽ không tin câu chuyện khó tưởng tượng của tôi. Nhưng ông ngồi xuống và giải thích với tôi về lễ Halloween. Chúng tôi được một bữa cười no bụng. (ND: Lễ Halloween của Mỹ rơi vào ngày cuối tháng 10, khi trẻ con hóa trang đi từ nhà để xin kẹo bánh).

Tháng 12, vào ngày sinh nhật thứ 41 của tôi, việc mua tòa nhà cuối cùng đã kết thúc. Ngôi chùa Phật giáo Washington, với giá bán là $33,000, chính thức thuộc về chúng tôi.

---o0o---

Chương 20: Bị lầm là phụ nữ


Trong những năm đầu ở chùa, chúng tôi lúc nào cũng chỉ có vừa đủ tiền để trả cho các thứ. Tiền nhà là một trăm bảy mươi hai đồng một tháng. Và các chi phí khác -điện thọai, điện, gas- tổng cộng chi phí đến $500 hay $600 đô một tháng. Dĩ nhiên, tất cả đều từ tiền cúng dường của Phật tử.

Mỗi lần đến viếng chùa, các Phật tử sẽ bỏ một hay hai đồng vào thùng phước xương. Khi chúng tôi đến nhà để tụng kinh, họ thường cúng dường một số tiền nhỏ, có thể là mười hay mười lăm đô. Mỗi tháng chúng tôi được khỏang $600 hay $700 đô.

Không biết sao, bao giờ chúng tôi cũng dư chút ít. Chỉ chút ít.

Chúng tôi bắt đầu thu nhận những người muốn làm thành viên chính thức của chùa. Chúng tôi lập ra ba loại thành viên - suốt đời, hàng năm và sinh viên– rồi in ra các thẻ hội viên. Tờ tin ngắn của tôi tiếp tục lôi cuốn thêm nhiều thành viên, nhờ thế chùa phát triển dần dần. Chúng tôi đã có thể hoàn thành những công việc trùng tu lớn cho chùa chỉ trong một vài năm.

Mỗi tuần ba buổi tối, tôi hướng dẫn lớp tu thiền. Chiều chủ nhật dành cho các nghi lễ tụng kinh. Chúng tôi in một quyển sách nhỏ với các bài kinh tụng tiếng Pali, gọi là Vandana, để Phật tử có thể đọc theo trong các buổi lễ.

Vào những ngày lễ Phật giáo, chúng tôi sẽ có những nghi lễ long trọng, theo truyền thống Sinhala. Đến ngày lễ Vesak, chúng tôi tổ chức lễ Phật Đản, Phật thành đạo và Phật Nhập diệt. Mỗi sự kiện rơi vào ngày rằm trong tháng Ấn Độ của Visakh, khoảng tháng tư hay tháng năm. Để chuẩn bị cho lễ Vesak, người ta dọn dẹp, và trang hoàng Chùa, làm lồng đèn bằng những cọng tre và giấy mỏng, và nấu rất nhiều thức ăn - thường là món chay. Đến ngày lễ, các Phật tử đều mặc màu trắng, đến chùa ở suốt ngày, gặp gỡ, chuyện trò, ăn uống và lắng nghe quý sư tụng kinh. Đó thật là một ngày lễ hội Phật giáo nhộn nhịp nhất trong năm.

Kathina, một nghi lễ quen thuộc khác, đánh dấu sự chấm dứt của 'mùa an cư' truyền thống. Trong ba tháng (từ giữa tháng Bảy đến giữa tháng Mười), quý sư ở trong chùa, không đi ra ngoài. Truyền thống này được bắt đầu từ thời Phật còn tại thế, khi ngài và các đệ tử thực hành ba tháng an cư 'mùa mưa' trong năm, suốt thời gian đó tăng đoàn không đi ra ngoài, mà ở một chỗ cho đến hết mùa mưa.

Hiện nay, lễ Kathina được tổ chức vào tháng mười. Trong thời gian đó cư sĩ thường dâng cúng y áo mới và các thứ vật dụng cần thiết cho tăng sĩ.  Những chồng quà tặng trong chánh điện gồm có bàn chải đánh răng, thuốc súc miệng, thuốc cạo râu, xà bông và giấy vệ sinh.

Nhưng món quà quý nhất trong tất cả, là y Kathina. Một mảnh vải vàng may bằng tay được xếp rất khéo, bọc trong bao plastic, rồi được dâng cúng một cách tượng trưng cho cả tăng đoàn. Các sư sẽ quyết định ai là người đặc biệt được nhận món quà ấy. Đôi khi đó là vị sư nhiều tuổi nhất, hay người y áo bị sờn rách nhiều nhất. Hay một vị sư đến từ một địa phương hẻo lánh nơi có thể không có các cư sĩ cúng dường y áo.

Suốt trong những năm đầu ở chùa Washington, tôi phải hội nhập vào đời sống ở Mỹ, và nước Mỹ cũng hội nhập theo tôi.

Tôi khá nhỏ người, chỉ cao khoảng một thước rưỡi, quấn y, đầu cạo nhẵn. Vào những năm sáu mươi, hình ảnh đó thật quá sức tưởng tượng đối với người dân Mỹ.

Nhiều lần, khi tôi hỏi nhà vệ sinh công cộng, người ta chỉ vào phòng dành cho phụ nữ.

Một ngày kia trên đường đi chợ về, tay tôi ôm đầy giỏ bị, và tôi đi ngang qua một người đàn ông đang rửa xe trong sân nhà. Con chó nhà ông chạy theo tôi sửa.  Anh ta la chó: “Đừng có làm phiền bà ấy!”

Ngay cả người gặp tôi hàng ngày cũng lầm tưởng tôi là phụ nữ. Trong suốt hai mươi năm tôi sống ở Washington, mỗi ngày người phát thư vui tính bao giờ cũng chào tôi: “Đây là thư của bàø, thưa bà”.

Vào một buổi chiều tháng hai, năm 1969, một người đàn ông nhấn chuông chùa và lễ phép xin được sử dụng thư viện của chúng tôi. Tôi rất vui vì có người thích tìm hiểu về Phật giáo, vì thế, dĩ nhiên là tôi đồng ý.

Sau đó, người này đến gần như mỗi ngày, bồng một em bé và mang theo một cái nôi nhỏ.  Khi con ngủ, ông ngồi đọc sách về Phật giáo. Ông gần như không trao đổi gì với tôi, nên tôi cũng không phiền đến ông.

Vào tháng 5, khi chúng tôi tổ chức lễ Vesak, người đàn ông nhập vào với một nhóm nhỏ các cư sĩ áo trắng và ở lại chùa suốt ngày hôm đó tu bát quan trai và tọa thiền.

Michael Roehm, một trong những thành viên người Mỹ ở chùa, thấy ông.

“Tiến sĩ Rodier làm gì ở đây vậy?” anh ta hỏi tôi.

"Ai là tiến sĩ Rodier?” tôi hỏi.

Michael bảo với tôi là người đàn ông đó tên là David Rodier, và ông là giáo sư triết ở đại học American, chỉ cách chùa vài dặm.

Ngày hôm sau tôi nôn nóng chờ tiến sĩ Rodier đến thư viện vào buổi chiều như thường lệ. Khi ông đến, tôi tiến lại gần ông.

“Thưa, ông có phải là giáo sư ở đại học American?” tôi hỏi.

Ông gật đầu, mỉm cười.

Tôi thưa với ông rằng tôi rất muốn được tiếp tục việc học của mình. Tôi kể với ông về những trường tôi đã học ở Ceylon và Ấn Độ, cố gắng chắp vá việc học của mình. Tôi cũng kể với ông về việc tôi đã đậu kỳ thi ngọai khóa của Cambridge, nhưng không vào được đại học ở Malaysia.

Ông Rodier khuyên tôi bảo đại học Cambridge gửi điểm thi của tôi đến trường đại học American.

Rodier cũng đề nghị tôi dự thính lớp của ông để có thể thực tập tiếng Anh.

Hàng tháng trời, mỗi ngày tiến sĩ Rodier đều đến chùa chở tôi đến trường đại học, để tôi có thể dự thính lớp triết học của ông. Được đi học trở lại, thật là một cảm giác tuyệt vời!

Khoảng thời gian đó, tôi bắt đầu cảm thấy đau lại ở thận trái. Dần dần tôi phải đi bác sĩ, và được chuyển qua bác sĩ nội tiết. Vị này giống như vị bác sĩ ở Malaysia, cũng bảo tôi bị sỏi thận nhưng lần này phải giải phẫu.

May mắn thay, đại đức Piyananda và tôi đều được bảo hiểm qua chương trình bảo hiểm tập thể ở tòa đại sứ Ceylon. Tôi nằm trong bệnh viện mười ngày. Bảo hiểm trả 80 phần trăm viện phí và Michael Roehm, với tâm rộng lượng, đã trả phần còn lại cho tôi.

Năm 1971, ở tuổi bốn mươi ba, tôi được nhận vào trường đại học American làm sinh viên năm thứ nhất. Michael Roehm trả học phí cho tôi, lại còn cúng dường tiền cho tôi mua sách vở. Bên cạnh đó, tôi cũng dành dụm được chút ít từ số tiền ăn một trăm đồng hàng tháng mà chính phủ Ceylon cung cấp để trang trải cho chi phí học tập.

Vì các Phật sự ở chùa, mỗi khóa học, tôi chỉ có thời gian học hai lớp. Những năm sau đó, tôi vừa quản lý chùa, vừa là sinh viên đại học, và cũng đến các đại học khác để thuyết giảng về Phật giáo. Tôi đi khắp nơi, từ Miami đến Saint John, Newfoundland. Một số nơi biết tôi qua trường đại học American; các nơi khác thì qua mẫu quảng cáo nhỏ của chúng tôi đăng trên tờ Washington Post, về các hoạt động của chùa, cũng như các lớp giáo lý.

Năm 1972 tôi bắt đầu hướng dẫn một lớp thiền ở đại học American. Hơn hai mươi sinh viên ghi danh học. Vị tuyên úy ở trường đại học dành cho chúng tôi một phòng rộng trong nhà nguyện. Chúng tôi trang bị phòng với những chiếc tọa cụ êm ái.

Khoảng một tuần sau khi lớp học khai giảng, một ngày kia tôi đến lớp sớm hơn thường lệ, thì thấy ai đó đã dùng dao rạch nát các tọa cụ.  Bông gạo trắng trong tọa cụ vung vẩy khắp trên sàn nhà như là tuyết. Tôi thật thất vọng!  Vị tuyên úy sắm lại cho chúng tôi những tọa cụ khác, nhưng chúng tôi đã nhận ra một thông điệp qua hành động trên: có ai đó muốn phản đối việc chúng tôi làm.

Cũng khoảng thời gian đó, chùa cần một số giấy văn phòng có in tên chùa. Tôi đến một nhà in, đưa cho họ coi mẫu huy hiệu chùa của chúng tôi để đặt hàng. Tuần sau, khi tôi đến nhận hàng, một người khác đang làm việc trong phòng in -là chủ tiệm in.

“Đi ngay!” ông ta hét lên, ngay khi tôi vừa nói tên chùa. “Tôi không nhận bất cứ đơn hàng nào có chữ Buddhist (Phật giáo) trong đó."

Đó là một số kinh nghiệm đầu tiên của tôi về vấn đề phân biệt tôn giáo, theo kiểu Mỹ. Trước đó, tôi đã có một cái nhìn rất sách vở về Hiệp chủng quốc như là một mảnh đất tự do được thành lập nên bởi những người yêu nước can đảm, muốn đem lại tự do cho tất cả mọi người. Tôi đã được đọc về George Washington và Abraham Lincoln.  Tôi biết rằng lịch sử Mỹ là lịch sử của cuộc chiến đấu cho sự bình đẳng. Tôi đã nghĩ rằng là ở đây, bất cứ ai cũng được tự do để tin theo bất cứ tôn giáo nào mà họ chọn lựa.

Nhưng vấn đề không đơn giản như thế.

Năm 1973 đại học American cử tôi làm vị tuyên úy Phật giáo tại trường, một chức vị mới được tạo ra vì tôi. Trường đã có các vị tuyên úy thuộc các tôn giáo khác, nhưng chưa bao giờ có tuyên úy Phật giáo. Đúng ra, tôi nghĩ đó là trường đại học đầu tiên ở Mỹ đã chỉ định một vị tuyên úy Phật giáo. Tin đó được đăng trên tờ báo trường. Lập tức có người viết thơ đến viện trưởng trường, đòi phải được giải thích tại sao ông lại chọn một kẻ 'ngoại đạo' làm tuyên úy.

Có khoảng thời gian đôi ba năm, cứ mỗi tháng một lần tôi đều đến một nơi trong vùng ngoại ô của Nữu Ước, gọi là Trung tâm Hướng dẫn Truyền giáo. Họ mời tôi đến để thuyết giảng về Phật giáo. Tôi thường đi cùng với Richard Stoneham, một thành viên của chùa, sống ở Nữu Ước.

Mỗi khi thuyết giảng ở đó, tôi cẩn thận không so sánh Phật với bất cứ một vị lãnh đạo tâm linh của tôn giáo nào.  Tôi muốn tỏ sự tôn trọng đối với các tôn giáo khác. Tuy nhiên, một ngày kia sau buổi giảng của tôi, khi một phụ nữ trẻ phát biểu: "Thật tuyệt vời! Trước đây tôi không biết tí gì về Đức Phật."

Một vị mục sư lớn tuổi trong hàng thính giả lên tiếng.  "Tuy nhiên, Chúa Jesus vẫn cao siêu hơn Đức Phật," ông nói một cách chắc nịch.

"Trên phương diện nào?" Richard hỏi.

Vị mục sư đứng lên.

"Tôi đã sống ở Thái Lan tám năm," ông tuyên bố. "Tôi đã nhìn thấy Đức Phật này chỉ ngồi xếp chân trong các căn phòng được trang hoàng đẹp đẽ, không làm gì hết. Tôi đã thấy những người đàn ông mặc áo vàng đi xin ăn ngoài đường. Họ không làm gì cho thế giới cả. Chúa Jesus đã hy sinh cả đời cho nhân loại."

Richard và vị mục sư bị cuốn vào một cuộc tranh cãi qua lại. Tôi chỉ im lặng. Cuối cùng, người phụ nữ trẻ bắt đầu khóc. Cô nói: "Chúng ta mời vị tăng sĩ này đi từ Washington đến đây để giảng cho chúng ta biết về Phật giáo, về tôn giáo mà ông tin tưởng. Đây có phải là cách chúng ta tiếp khách không?"

Khi bài giảng buổi chiều kết thúc, vị giám đốc trung tâm đến hỏi tôi có điều gì xảy ra chăng. Tôi bảo không có gì, mọi việc đều tốt đẹp. Rồi tôi hướng về phía vị mục sư lớn tuổi, nói thẳng với ông.

"Thưa ông, ông đã bảo rằng Đức Phật chỉ ngồi trong các phòng trang hoàng đẹp đẽ mà không làm gì cả. Những gì ông được thấy là các hình tượng của Đức Phật, không phải là vị Phật bằng xương thịt. Đức Phật xưa kia rất năng động. Ngài đã hy sinh ngai vàng, vương quốc, tài sản, và cả gia đình -chỉ để sống một cuộc đời đơn giản. Ngay cả sau khi đã đạt được giác ngộ, ngài chỉ ngủ hai tiếng mỗi ngày. Ngài bận rộn thuyết pháp cứu độ chúng sinh. Vì chúng sinh Ngài đã làm việc hai mươi hai tiếng mỗi ngày, trong bốn mươi lăm năm, cho đến khi ngài tịch diệt.

Còn những người mặc áo vàng đi khất thực mà ông thấy là các tu sĩ đã nguyện sống đời đơn giản, theo như Đức Phật.  Họ không phải là người xin ăn như ông nghĩ; họ được người khác kính trọng vì cuộc sống tâm linh mà họ đã chọn lựa. Các cư sĩ cúng dường họ thực phẩm, y áo, nơi ở và thuốc men. Đáp lại, các vị tu sĩ này ban cho họ những thức ăn tinh thần. Các vị tu sĩ này chỉ nhận một ít thực phẩm từ mỗi nhà. Như thế, họ không là gánh nặng cho ai."

Có lẽ tôi không thể thuyết phục được ông, nhưng có thể tôi đã giải được một số hiểu lầm của ông.

Vào những năm đầu của thập niên 70 là thời kỳ của chiến tranh Việt Nam, thời của 'những đứa con của hoa' (flower children), và những người phản chiến.

Nhiều lần khi tôi đến giảng tại các trường cộng đồng và trường đại học, sinh viên sẽ hỏi tôi, Phật giáo quan niệm về vấn đề tự tử như thế nào, vì họ đã nghe tin tức về các nhà sư Việt Nam tự thiêu để chống chiến tranh.

Tôi luôn trả lời rằng tự tử không được chấp nhận trong giáo lý của Đức Phật. Đúng ra Đức Phật hoàn toàn chống việc này. Giới luật thứ ba của Patimokkha, các giới luật dành cho người tu, dạy rằng bất cứ vị tu sĩ nào phạm tội hay tham gia vào việc mưu sát, đều lập tức bị loại trừ ra khỏi tăng đoàn. Tự tử cũng giống như giết hại bất cứ chúng sinh nào khác, cũng được coi là một trong những trọng tội.  Nhưng khi người ta ở trong những hoàn cảnh bị đàn áp tôn giáo hay áp bức trong xã hội, họ phải bỏ qua những giới luật tôn giáo.

Những người đang cầm quyền Việt Nam lúc bấy giờ đã lạm dụng quyền hạn của họ một cách quá đáng. Phần lớn Phật tử bị chính quyền theo Thiên Chúa giáo của ông Ngô Đình Diệm đối xử tàn tệ. Người Phật tử không được quyền tổ chức những buổi nói chuyện công cộng hay những nghi lễ tôn giáo, và bị gán là Cộng sản, để chính phủ Mỹ chống lại họ. Căn bản là ông Diệm đã lợi dụng sự sốt sắng chống Cộng của chính quyền Mỹ để đàn áp Phật giáo ở Việt Nam. Đó là một chiến thuật tinh vi nhưng khá độc ác.

Vì quá tuyệt vọng, các nhà sư Việt Nam đã phải tự thiêu để nói cho thế giới biết những gì đang xảy ra trên quê hương họ. Hành động của họ không liên quan gì đến Phật giáo, mà chỉ là những hành động yêu nước.

Để làm rõ, tôi cố gắng giúp các sinh viên hiểu ý nghĩa thục sự của Phật giáo. Phật giáo, tôi bảo với họ, là một tôn giáo hòa bình.

---o0o---


Каталог: downloads -> sach -> quoc-te
quoc-te -> LƯỢc sử thời gian (a brief History of Time) Tác Giả:-Steven Hawking
quoc-te -> ĐƯỜng mây qua xứ tuyếT
quoc-te -> Tâm Lý Và Triết Học Phật Giáo Áp Dụng Trong Đời Sống Hằng Ngày Nguyên tác: "Abhidhamma in daily life"
quoc-te -> Những Chuyện Luân Hồi Hiện Đại tt. Thích Tâm Quang Dịch o0o Nguồn
quoc-te -> ÐẠi thừa và SỰ liên hệ VỚi tiểu thừa nguyên tác: Nalinaksha Dutt ht. Minh Châu Dịch, Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh 1999
quoc-te -> LƯỢc sử thời gian (a brief History of Time) Tác Giả:-Steven Hawking
quoc-te -> SẮc tưỚng và thật tưỚng vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái của Phật Giáo Prof. Guy Newland, Ph. D
quoc-te -> Con đƯỜng đẾn tĩnh lặng -tuệ Giác Hằng Ngày
quoc-te -> Ba phưƠng diện chính của con đƯỜng giác ngộ

tải về 1.34 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương