ChuyêN ĐỀ VII một số VẤN ĐỀ VỀ CÔng tác tư TƯỞNG, tuyên giáo trong đIỀu kiện hiện nay ở việt nam


IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THÚC ĐẨY CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, TUYÊN GIÁO HIỆN NAY



tải về 300.18 Kb.
trang2/3
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích300.18 Kb.
#29725
1   2   3

IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THÚC ĐẨY CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, TUYÊN GIÁO HIỆN NAY

1. Thực hiện tốt chức năng định hướng nghiên cứu lý luận chính trị và đầy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn

Thực tiễn trong công tác tham mưu của các ban Đảng đã cho thấy công tác nghiên cứu khoa học, lý luận có ỷ nghĩa và vai trò rất quan trong. Trước hết, nhu cầu nghiên cứu khoa học xuất phát từ nhiệm vụ của các ban Đảng trong việc tham mưu cho Bộ Chính trị và Ban Bí thư về các chủ trương chính sách của Đảng cả về phương diện vĩ mô lẫn vi mô. Để những vấn để tham mưu có sức thuyết phục và các chủ trương chính sách sau khi ban hành có thể đi ngay vào cuộc sống thì việc đầu tiên là các cán bộ tham mưu phải nắm được đúng tình hình thực tiễn. Muốn có được bằng chứng, những người tham mưu chính sách phải tiến hành điều tra những gì đang diễn ra trong xã hội mà có liên quan đến những chính sách đó. Vì vậy, điều tra thực tiễn là một hình thức nghiên cứu khoa học rất phổ cập của các cán bộ tham mưu.

Thông qua nghiên cứu khoa học, lý luận, cán bộ tham mưu mới có cơ hội nắm bắt những kiến thức hiện đại, không bị lạc hậu trước sự tiến bộ kiến thức của nhân loại theo thời gian. Đối với những cán bộ làm công tác tham mưu trong các ban Đảng cần am hiểu ở một mức độ nhất định về kiến thức chuyên ngành. Vì vậy, nghiên cứu khoa học cũng sẽ giúp có được những kiến thức hoặc những hiểu biết quý báu đó. Ngoài ra, những kinh nghiệm trước của các quốc gia khác nhau về cách xử lý đối với các vấn đề kinh tế - xã hội cũng rất đa dạng và có nhiều kinh nghiệm có ý nghĩa cho việc tham mưu. Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước và việc rút ra những bài học từ sự thành công cũng như thất bại sẽ có thể giúp một quốc gia rút ngắn con đường xây dựng đất nước.

Vì vậy, cán bộ tuyên giáo cần đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, lý luận và tổng kết thực tiễn để nhận thức toàn diện, sâu sắc về cách mang Việt Nam, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, từ đó giải đáp có sức thuyết phục, có tính khoa học những vấn đề do thực tiễn Việt Nam và thế giới đương đại đặt ra. Từ đó kiên trì xây dựng và từng bước triển khai triết lý phát triển của Việt Nam trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường lối đổi mới của Đảng.

Thực sự quan tâm đến công tác lý luận chính trị theo tinh thần "không có lý luận cách mạng thì không có cách mạng vận động". Để vận dụng đúng đắn các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, trước hết cần trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, tránh cả hai xu hướng cơ hội, xét lại hay giáo điều, bắt chước. Cần nhận thức rõ tác hại của sự lạc hậu về lý luận, lý luận không đủ sức giải đáp những yêu cầu của thực tiễn, đi sau thực tiễn để từ đó có sự quan tâm đúng mức đến công tác lý luận chính trị. Trong nghiên cứu lý luận, cần phát huy dân chủ, phát huy trí tuệ trong Đảng và xã hội coi trọng công tác tổng kết thực tiễn.

Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lý luận chính trị trong giai đoạn 2010-2020 xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và yêu cầu của cách mạng; kết hợp công tác giáo dục lý luận chính trị với công tác giáo dục văn hoá, khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ: kết hợp giáo dục có hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin với quan điểm, đường lối của Đảng và những vấn để thực tiễn có tính thời sự chính trị đang diễn ra. Kết hợp việc cập nhật, nâng cao những kiến thức lý luận, chính trị, kinh tế với nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng; phát huy tác dụng của việc phê bình và tự phê bình. Quan tâm đến đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận chính trị, trước hết là phát huy năng lực tư duy sáng tạo, ý thức cống hiện qua việc bảo đảm quyền tự do tư tưởng, tôn trọng lắng nghe, khuyến khích, tạo điều kiện cho việc nghiên cứu lý luận chính trị và giảng dạy lý luận chính trị.

Chỉ đạo việc tổ chức lại toàn bộ lực lượng nghiên cứu lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn theo hướng tinh gọn, chất lượng, có tính hệ thống và mối liên hệ chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị nghiên cứu. Xây dựng và nâng cao chất lượng trong hoạt động nghiên cứu lý luận, tăng cường thảo luận, tranh luận khoa học, bảo đảm cho việc sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể khoa học.

2. Tích cực góp phần trực tiếp cho công tác xây dựng Đảng

Công tác xây dựng Đảng được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực về chính trị, tư tưởng, đạo đức và văn hoá, gắn chặt nhiệm vụ chỉnh đốn đảng với cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, chống suy thoái về tư tướng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

Công tác tư tưởng, tuyên giáo tập trung cho nhiệm vụ nói trên cần chú trọng đồng thời cả bốn nội dung: chính trị, tư tưởng, đạo đức và văn hoá trong hoạt động xây dựng Đảng, trong đó đặc biệt tập trung cho việc "Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết TW 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

Để thực hiện nhiệm vụ này cần triển khai các giải pháp lớn như: Trên cơ sở các kết quả mới trong nghiên cứu lý luận, cần tổ chức việc học tập, vận dụng những nhận thức mới vể chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đáng viên và nhân dân; xây dựng và thực hiện cơ chế giám sát đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; có chính sách bảo đảm việc sử dụng các sản phẩm, giá trị văn hoá, văn nghệ trong hoạt động tư tưởng nâng, cao hiệu quả giáo dục đảng viên; triển khai thường xuyên, bảo đảm thực chất, hiệu quá phương châm phê và tự phê bình, “xây và chống” trong sinh hoạt Đảng, chú trọng nêu gương tốt và các biểu hiện xấu để khẳng định và phê phán trong công tác xây dựng Đảng và trên các phương tiên thông tin đại chúng.



3. Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền về đường lối đổi mới của Đảng

Tích cực tuyên truyển, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tự giác, sáng tạo thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, để nhân dân có niềm tin tất thắng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng và chủ nghĩa xã hội.

- Nâng cao hiệu quả việc "Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", đưa cuộc vận động ngày càng đi vào chiều sâu, xuất hiện ngày càng nhiều những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiên học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác. Cán bộ lãnh đạo các cấp phải là những tấm gương trong Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", lời nói gắn liền với việc làm, "học tập" phải đi đôi với "làm theo". Gắn kết quả việc học và làm theo Bác với việc thực hiện Nghị quyết TW 4 khóa XI, “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

- Tuyên truyền kiến thức về quốc phòng an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Nâng cao cảnh giác cách mạng tiến hành kiên quyết, phối hợp đồng bộ nhằm đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của chiến lược "diễn biến hòa bỉnh" trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng văn hóa. kinh tế - xã hội...; ngăn chặn, đầy lùi những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa.

- Công tác tuyên giáo cần phải nâng cao tính định hướng, tính chiến đấu, tính thuyết phục, tính hiệu quả. Phải thường xuyên bám sát thực tiễn, tăng cường tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; chủ động nắm bắt, đánh giá, dự báo, kịp thời giải quyết những diễn biến tư tưởng tâm trạng của nhân dân. Tập trung xử lý các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân, nhất là những vấn để liên quan đến nạn tham nhũng lãng phí, quan liêu, mất dân chủ, thiếu kỷ cương, ức hiếp nhân dân của cán bộ, đảng viên

- Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước; cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân phát huy tính tự lực, tự cường, nỗ lực vượt qua mọi thử thách, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội. Tích cực thực hiện phong trào xóa đói, giảm nghèo và phấn đấu ngày càng có nhiều người giàu. Nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, thực hiện phương châm "lấy cái đẹp dẹp cái xấu". Nhân rộng tạo sức lan tỏa lớn các gương điển hình, nhân tố mới; giữ gìn những giá trị nhân văn cao đẹp trong cuộc sống



4. Chủ động góp phần trực tiếp và đạt hiệu quả thiết thực trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội

Cần khẳng định, công tác tuyên giáo phải trở thành một bộ phận, một thành tố hữu cơ, gắn chặt với toàn bộ quá trình triển khai các hoạt động kinh tế - xã hội, văn hoá và các lĩnh vực khác như giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân, nhất là những vấn để tồn tại từ lâu và những vấn để nảy sinh trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, cần triển khai các giải pháp lớn như: Thường xuyên bám sát, nắm chắc các nhiệm vụ lớn của đất nước- Nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng, tạo sự gắn kết chặt chẽ với công tác tuyên giáo trong từng thời kỳ, từng nhiệm vụ; tập trung tuyên truyền, cổ vũ, khẳng định những nhân tố mới, các giá trị mới, điển hình tiên tiến, đồng thời kiên quyết, kịp thời phê phán, lên án cái xấu xa, tiêu cực...; huy động sức mạnh, ưu thế của tất cả các loại hình công tác tuyên giáo như thông tin đại chúng, xuất bản, văn hoá, văn nghệ tuyên truyền, cổ động... tham gia thực hiện nhiệm vụ trên; kịp thời phát hiện những vấn đề bức xúc trong đời sống nhân dân, phối hợp giải quyết đúng và có hiệu quả, đáp ứng được lòng tin, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Cùng với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 7 khoá X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, ở đây, chỉ xin nhấn mạnh một số nội dung đối với ngành tuyên giáo:

- Tuyên truyền và chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết 27 khóa X về trí thức, Kết luận của Hội nghị TW 6 khóa XI về Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, Nghị quyết Hội nghị TW 6, khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ ...là cơ sở quan trọng để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức đông vể số lượng, mạnh về chất lượng, phục vụ tốt quá trinh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng của Đảng và Nhà nước khẩn trường xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ, nghiên cứu lý luận, giáo dục và đào tạo, văn hoá và văn nghệ; bổ sung hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để trí thức tự khẳng định phát triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh.

- Bồi dưỡng lòng yêu nước và lý tưởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên nhận rõ trách nhiệm và bổn phận trước Tổ quốc và dân tộc, không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyện môn, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển của đất nước và bảo vệ Tổ quốc

- Xây dựng một nền y tế theo hướng "công bằng", "hiệu quả", "phát triển" để thực sự góp phần vào bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân, đồng thời góp phần tích cực vào an sinh xã hội.



5. Nghiên cứu, tổng kết, xây dựng và truyền bá rộng rãi những giá trị mới của con người việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Nhiệm vụ này gắn với việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc, cốt cách dân tộc, đồng thời có kế hoạch cơ bản triển khai cuộc đấu tranh chống sự lai căng vọng ngoại, lệ thuộc nước ngoài, đặc biệt chú trọng công tác giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ, nhất là học sinh, sinh viên về bản lĩnh chính trị, văn hóa của con người Việt Nam.

Xây dựng và thực hiện hệ giá trị của nhân cách con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các chuẩn mực đạo đúc - văn hoá phù hợp với từng đối mong triển khai sâu rộng nhiệm vụ xây dựng chuẩn mực đạo đức đối với các tầng lớp xã hội; thực hiện tốt chiến luợc phát triển giáo dục và đào tạo, dạy nghề, khoa học công nghệ, y tế, thể dục thể thao, văn hoá, văn học, nghệ thuật; xây dựng cơ chế, chính sách huy động sức mạnh văn hoá, văn nghệ, tham gia củng cố phát triển đạo đức xã hội; chỉ đạo đưa Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây đựng đời sống văn hoá” đi vào chiều sâu, hiệu quả thiết thực. Kiên trì tổ chức cuộc đấu tranh đẩy 1ùi, khắc phục sự thoái hoá, biến chất, những biện tiêu cực trong lối sống đạo đức của cán bộ, đảng viên và quần chúng, đặc biệt quan tâm thế hệ trẻ.

6. Đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc và vững chắc nội dung, phương thức công tác tuyên giáo của Đảng theo định hướng cơ bản là tăng cường tính thuyết phục, hiệu quả, nâng cao tính chủ động và tính chiến đấu

Đổi mới phương thức công tác tuyên giáo của Đảng theo định hướng cơ bản là tăng cường tính thuyết phục, hiệu quả, nâng cao tính chủ động và tính chiến đấu, tạo bằng được sự gắn bó với nhân dân và thực tiễn đất nước. Có kế hoạch rà soát lại theo yêu cầu đổi mới tất cả các lĩnh vực của công tác tuyên giáo, xây dựng lộ trình thực hiện đổi mới cho từng nội dung, từng lĩnh vực để đến năm 2015 tạo bằng được diện mạo mới, chất lượng và hiệu quả mới của công tác tuyên giáo; tổ chức lại lực lượng báo chí, truyền thông đại chúng phát huy mạnh mẽ tính tích cực, vai trò phản biện và giám sát của báo chí, các phương tiện truyền thông đại chúng. Tiếp tục phát triển sự nghiệp báo chí, xuất bản đi đôi với tăng cường công tác lãnh đạo và quản lý trong lĩnh vực này. Tổ chức nghiên cứu đổi mới sâu sắc công tác lãnh đạo, quản lý và bản thân hoạt động báo chí, xuất bản xác lập nhiệm vụ khảo sát, điều tra dư luân xã hội là một cơ sở khách quan có tính bắt buộc khi thực hiện các nhiệm vụ của công tác tư tưởng; chuyển hướng mạnh mẽ từ thông tin một chiều, định hướng từ trên xuống sang chú trọng phương châm thông tin hai chiều, tăng cường đối thoại, lắng nghe, đặc biệt thông tin từ cơ sở lên, nhằm định hướng đúng trên cơ sở nắm vững thực tiễn, thông tin chuẩn xác; xây dựng các chương trình học tập, tuyên truyền, giáo dục cho từng đối tượng cụ thể theo trình độ nghề nghiệp, giới, vùng, miền; nghiên cứu nội dung và phương pháp phối hợp để phát huy sức mạnh tổng hợp của công tác tuyên giáo, đặc biệt trong các hoạt động có quy mô lớn, trọng điểm, nhân các ngày kỷ niệm; Nghiên cứu và thực hiện đổi mới căn bản các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn theo hướng thiết thực gắn với nhu cầu văn hoá, nguyện vọng của nhân dân, từng bước xây dựng các lễ hội mới, lễ hội cách mạng do nhân dân làm chủ, tự quản. Nhằm bảo đảm cho quá trình đổi mới công tác tuyên giáo đạt hiệu quả vững chắc từ Trung ương đến cơ sở, cần chú trọng xây dựng và thực hiện các chính sách mới đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác tư tưởng trong thời kỳ mới.



7. Triển khai đồng bộ, chủ động cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch, chống phá Đảng và Nhà nước

Để thực hiện nhiệm vụ nói trên cần phải làm thất bại âm mưu, thủ đoạn "diễn hiện hoà bình" của các thế lực thù địch nhằm thực hiện đa nguyên chính trị, bạo loạn, lật đổ, đồng thời tỉnh táo phòng chống nguy cơ "tự diễn biến” có khả năng tiến triển nhanh trước tình thế mới của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.

Phản bác kịp thời những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng của bọn phản động thù địch; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của toàn xã hội.

Chú trọng nghiên cứu một cách khách quan các khuynh hướng tư tưởng lý luận của các thế lực thù địch làm cơ sở chủ động tiến công, phản bác; tổ chức lại lực lượng tham gia cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận; tạo diễn đàn tranh luận những vấn đề lý luận đang có nhiều ý kiến khác nhau.



8. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tuyên giáo

Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tuyên giáo một cách đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực: tư tưởng lý luận, tuyên truyển, giáo dục và đào tạo dạy nghề, thông tin đại chúng, văn hoá, văn nghệ, điểu tra dư luận xã hội và đối với hai loại hình cán hội lãnh đạo quản lý và chuyên viên, chuyên gia.

Mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tuyên giáo là tập trung cho đội ngũ kế cận để trong khoảng 5, 10 năm tới sẽ có một chủ thể mới đảm đương chủ yếu công tác tư tưởng của Đảng. Đó là thế hệ cán bộ trẻ hiện nay đang công tác và được đào tạo một cách hệ thống bài bản, chính quy trong thời gian tới.

Một số nhiệm vụ cụ thể:

- Quy hoạch đội ngũ, bảo đảm có các loại hình, các thế hệ cán bộ tuyên giáo nối tiếp nhau vững chắc: cán bộ lãnh đạo, quản lý, chuyên gia đầu ngành, đội ngũ kế cận và đội ngũ trẻ để tạo nguồn.

Tổ chức đánh giá toàn diện thực trạng đội ngũ cán bộ tuyên giáo từ Trung ương đến cơ sở, dự kiến nhu cẩu, khả năng tạo nguồn và phát triển đội ngũ, chủ động xây dựng và thực hiện nghiêm túc mô hình tổ chức, bộ máy của các ban tuyên giáo từ Trung ương đến cấp xã, phường, thị trấn và của các bộ, ngành, đoàn thể chính trị - xã hội. Nghiên cứu xác định rõ mô hình cán bộ tuyên giáo cấp xã, phường, thị trấn. Đặc biệt quan tâm tới phương thức riêng, phù hợp với đặc trưng nghề nghiệp cán bộ tuyên giáo để chủ động tạo được nguồn cán bộ tuyên giáo.

- Lập kế hoạch dài hạn và hàng năm, khẩn trương thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tuyên giáo. Thực hiện nhiệm vụ đào tạo nhằm bảo đảm cán bộ chuyên trách tuyên giáo phải được đào tạo bài bản, chính quy, có khả năng phát triển lâu dài bằng nghề nghiệp và tạo nguồn cho cán bộ của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị.

Xác định nguồn đào tạo cán bộ tuyên giáo từ việc lựa chọn các sinh viên tốt nghiệp đại học ớ trình độ khá trở lên trong các trường đại học có ngành nghề gắn với các lĩnh vực nghiệp vụ tuyên giáo và trong các trường Đại học sư phạm có phẩm chất đạo đức tốt đã qua một thời gian công tác, có năng khiếu phù hợp với đặc trưng nghề nghiệp tuyên giáo, đồng thời chú trọng lựa chọn số cán bộ trẻ đang công tác trong tổ chức đoàn thanh niên các cấp, trong lực lượng vũ trang và trong hệ thống chính trị.

Đổi mới căn bản, xây dựng mới chương trình, nội dung đào tạo cán bộ ngành Tuyên giáo theo hướng nâng cao trình độ và kiến thức tổng hợp gắn chặt với các yêu cầu nghề nghiệp, kết hợp giữa học lý luận và thực hành nghiệp vụ. Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hô Chí Minh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền khẩn trương xây dựng kế hoạch chương trình, nội dung đào tạo theo hướng chỉ đạo trên bảo đảm sau 5 năm có được mô hình ổn định về đào tạo cán bộ tuyên giáo các cấp

- Cùng với công tác đào tạo chính quy, ngành Tuyên giáo ở Trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải tăng cường và có kế hoạch định kỷ bồi dưỡng tập huấn đội ngũ cán bộ tuyên giáo về lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt rèn luyện cán bộ qua hoạt động thực tiễn, đồng thời bảo đảm nâng cao trình độ chính trị theo yêu cầu nghệ nghiệp, trình độ sủ dụng ngoại ngữ và tin học cho cán bộ đang công tác, đặc biệt đối với đội ngũ kế cận, đội ngũ trẻ.

- Xây dựng và thực hiện một số chính sách chế độ mới đối với cán bộ chuyên trách công tác tuyên giáo, trong đó chú ý những yêu cầu đặc thù về nghề nghiệp; xây dựng các tiêu chuẩn cụ thể đánh giá kết quả hoạt động của từng loại hình cán bộ tuyên giáo; nghiên cứu, đề xuất chế độ, chính sách đào tạo và bồi dưỡng đối với cán bộ tuyên giáo; cán bộ lãnh đạo, quản lý, chuyên gia về nghiệp vụ nhằm khuyến khích, tạo điểu kiện cho cán bộ phát triển lâu dài về nghề nghiệp; nghiên cứu các hình thức phù hợp tôn vinh căn bộ tuyên giảo có thành tích xuất sắc, có cống hiến lớn đối với ngành Tuyên giáo

V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGHIỆP VỤ TUYÊN GIÁO

5.1. Công tác giáo dục lý luận chính trị

5.1.1. Khái niệm

Công tác giáo dục lý luận chính trị là một bộ phận cơ bản trong công tác tư tưởng của Đảng, thực hiện việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác giáo dục lý luận chính trị nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhận thức tư tưởng, bản lĩnh chính trị, niềm tin và năng lực hoạt động thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ phát triển của đất nước.

5.1.2. Vai trò công tác giáo dục lý luận chính trị

Công tác giáo dục lý luận chính trị có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, xuất phát từ những yếu tố sau:



Thứ nhất, vai trò của lý luận chính trị đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định vai trò của lý luận chính trị đối với vận động của cách mạng. Để lật đổ được chế độ xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới, cần có sự lãnh đạo của một đảng được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết mang bản chất khoa học và cách mạng, học thuyết vừa phản ánh đúng đắn những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, vừa chỉ ra mục tiêu, con đường, lực lượng, chiến lược, sách lược, phương pháp đấu tranh cách mạng.

Chính đảng của giai cấp công nhân không ra đời một cách tự phát. Đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước là cơ sở vật chất, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở tinh thần cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, không có sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân thì không thể có sự ra đời của Đảng.

Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp giai cấp công nhân hiểu được quy luật phát triển của xã hội, là cơ sở lý luận khoa học để các đảng cộng sản đề ra đường lối, chính sách và những giải pháp cụ thể nhằm giải quyết đúng đắn những vấn đề nảy sinh trong quá trình cách mạng. Vì vậy, các đảng cộng sản phải coi trọng công tác giáo dục lý luận chính trị cho đảng viên cũng như tất cả các lực lượng cách mạng.

Đối với Đảng ta, chủ nghĩa Mác - Lênin được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vận dụng và phát triển sáng tạo trong quá trình truyền bá vào Việt Nam và trực tiếp lãnh đạo cách mạng nước ta, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Nội dung chủ yếu của công tác giáo dục lý luận chính trị là giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng.

Thứ hai, công tác giáo dục lý luận chính trị giữ vai trò quan trọng trong mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Trước khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào nước ta thì các cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống chủ nghĩa thực dân và phong kiến luôn bị thất bại vì chưa có đường lối cứu nước đúng đắn. Sự bế tắc ấy chỉ được khắc phục khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin - chân lý của thời đại và truyền bá, phát triển sáng tạo trong điều kiện nước ta. Từ đó, nhân dân ta theo Đảng thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giành được những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử .

Công tác giáo dục lý luận chính trị trang bị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm xây dựng cho mọi người nhận thức đúng đắn và niềm tin vững chắc vào lý tưởng cộng sản, vào con đường và biện pháp do Đảng vạch ra để thực hiện lý tưởng đó. Chủ nghĩa xã hội là kết quả hoạt động cách mạng tự giác của hàng triệu người lao động. Chính công tác giáo dục lý luận chính trị góp phần quan trọng trong việc nâng cao trình độ giác ngộ của quần chúng, thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị cụ thể mà các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội giao phó.

Từ khi ra đời đến nay, công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc làm cho lý luận cách mạng thâm nhập vào quần chúng, trở thành “lực lượng vật chất” đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.



Thứ ba, công tác giáo dục lý luận chính trị có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng, xây dựng con người mới.

Thông qua giáo dục lý luận chính trị để nâng cao trình độ lý luận chính trị trong toàn Đảng, là cơ sở quan trọng để Đảng ta hình thành nên đường lối chính trị đúng đắn. Thông qua công tác giáo dục lý luận chính trị đã góp phần làm cho toàn Đảng thống nhất mục tiêu lý tưởng, cương lĩnh, đường lối, khắc phục mọi biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng. Thông qua công tác giáo dục lý luận chính trị góp phần nâng cao ý thức tự giác tu dưỡng đạo đức cách mạng, khắc phục chủ nghĩa cá nhân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, giáo dục lý luận chính trị cũng góp phần vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo gồm những người kiên định lập trường, có năng lực tổ chức, tập hợp, động viên, giáo dục, thuyết phục quần chúng; có năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn.

Chính vì vậy, công tác giáo dục lý luận chính trị có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng Đảng từ Trung ương đến cơ sở.

5.1.3.Yêu cầu, nhiệm vụ công tác giáo dục lý luận chính trị trong thời kì mới

Hiện nay toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới hết sức nặng nề. Bên cạnh những thuận lợi chúng ta còn phải đương đầu với không ít khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động rất phức tạp. Trong khi đó, không ít những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá trình đổi mới đất nước chưa được tổng kết kịp thời hoặc chưa đủ sáng tỏ, còn những ý kiến khác nhau cả trên vấn đề cụ thể cũng như trên một số vần đề cơ bản.

Mặt khác, các lực lượng thù địch đang tăng cường chống phá cách mạng nước ta trên cả lĩnh vực lý luận và thực tiễn. Chúng triệt để sử dụng kinh tế làm điều kiện ép ta thay đổi về chính trị; tìm cách móc nối với các đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn trong nước; lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”, “chống tham nhũng, tiêu cực” để kích động chống đối, chia rẽ nội bộ, xuyên tạc, phủ định mục tiêu lý tưởng, con đường của cách mạng Việt Nam, phủ định sự lãnh đạo của Đảng.

Trong tình hình ấy, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn vững vàng về tư tưởng chính trị, thống nhất nhận thức, ý chí và hành động trên nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng. Công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên và toàn dân phải không ngừng được nâng cao chất lượng và hiệu quả.



a. Yêu cầu của công tác giáo dục lý luận chính trị trong thời kỳ mới

Một là, tạo ra sự nhất trí cao đối với đường lối của Đảng, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, đẩy mạnh sự nghiệp cụng nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Hai là, xây dựng con người Việt Nam đủ khí phách bản lĩnh, phẩm chất, đạo đức và kiến thức trong thời kỳ mới, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa, "dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh".

Ba là, phát huy tinh thần cách mạng tiến công, giữ vững và tăng cường chủ động trên trận địa tư tưởng, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn và hành động “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá của các thế lực thù địch.

b. Nhiệm vụ của công tác giáo dục lý luận chính trị trong thời kì mới

Một là, tiếp tục giáo dục trong Đảng và nhân dân kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghiã Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng, làm cho ý chí kiên định đó trở thành lập trường chính trị không thể lay chuyển, kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, ngăn ngừa ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc. Kiên định nhưng phải sáng tạo, phát triển không ngừng.

Hai là, tiếp tục giáo dục sâu rộng trong Đảng và nhân dân đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Giai đoạn hiện nay cần tập trung quán triệt quan điểm cơ bản của Đảng như: Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011), Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội 2011-2015, các quan điểm, đường lối phát triển đất nước trên những lĩnh vực khác…tập trung sức nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.



Ba là, giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức và năng lực thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân dân, thực hiện thắng lợi việc "Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", Nghị quyết TW 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Bốn là, giáo dục, nâng cao cảnh giác, chống các âm mưu, thủ đoạn và hành động “diễn biến hoà bình” gây bạo loạn, lật đổ và răn đe quân sự của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.

Giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ bản chất và mức độ nguy hiểm của chiến lược “diễn biến hoà bình”, động viên nhân dân tích cực tham gia chống lại âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình” bảo vệ chế độ, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đồng thời, phải tăng cường phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc, không ngừng củng cố mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.



5.2. Công tác tuyên truyền, cổ động

5.2.1. Khái niệm

Tuyên truyền, cổ động theo nghĩa rộng là hoạt động có mục đích của một chủ thể nhằm truyền bá những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đến đối tượng, biến những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đó thành nhận thức, niềm tin, tình cảm, cổ vũ đối tượng hành động theo những định hướng do chủ thể tuyên truyền đặt ra. Cùng với công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động là ba bộ phận hợp thành của công tác tư tưởng.

Tuyên truyền và cổ động là hai hình thái của công tác tư tưởng, có mối quan hệ, gắn bó mật thiết với nhau. Tuy phương thức tiến hành có sự khác nhau, nhưng tuyên truyền và cổ động đều nhằm mục đích phổ biến, truyền bá tri thức, giáo dục nhận thức, vận động, tổ chức, cổ vũ, động viên quần chúng tự giác tham gia phong trào hành động cách mạng.

Về tuyên truyền, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là "đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó là tuyên truyền thất bại ” 1.

Về cổ động, cần hiểu là thông qua những phương thức, công cụ riêng, chủ yếu là các biện pháp trực quan, tác động trực tiếp vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm, của quần chúng nhân dân, lôi cuốn họ vào những hoạt động theo mục tiêu đã định.



5.2.2. Vai trò của công tác tuyên truyền, cổ động

Tuyên truyền, cổ động là những bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng. Trong điều kiện bùng nổ thông tin, công tác tuyên truyền, cổ động càng trở nên quan trọng để định hướng thông tin, làm cho cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tiếp nhận các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách đầy đủ, đúng đắn.

Vai trò quan trọng của công tác tuyên truyền, cổ động thể hiện tập trung ở các khía cạnh sau:

- Là phương tiện quan trọng để phổ biến, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những vấn đề thời sự lớn của đất nước và quốc tế, những vấn đề mới đặt ra trong sự nghiệp đổi mới, qua đó nâng cao nhận thức chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân; động viên mọi người thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị trong mỗi thời kỳ. Là công cụ để định hướng tư tưởng, hướng dẫn suy nghĩ và hành động của toàn xã hội. Góp phần quan trọng để xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.

Qua tuyên truyền, cổ động để phát huy vai trò làm chủ, tính tích cực, sáng tạo của quần chúng, trước hết là ở cơ sở trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.

- Góp phần tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường sự đồng thuận trong xã hội.

- Là công cụ sắc bén trong đấu tranh bảo vệ chân lý, chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; phê phán các quan điểm sai trái, lệch lạc nảy sinh trong cán bộ, đảng viên và nhân dân trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước.

5.2.3. Những hình thức chủ yếu của tuyên truyền, cổ động

Hình thức tuyên truyền, cổ động rất đa dạng, nhưng tập trung vào mấy loại hình sau đây:



  1. Tuyên truyền

- Tuyên truyền miệng. Đây là hình thức tuyên truyền đặc biệt quan trọng, nhất là ở cơ sở, được thực hiện chủ yếu bởi đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, thông qua các hình thức giao tiếp trực tiếp, như nói chuyện thời sự, tọa đàm, hội thảo, kể chuyện gương người tốt, việc tốt ...

- Tuyên truyền thông qua các ấn phẩm viết, như sách, báo (báo in, báo điện tử), bản tin, khẩu hiệu, biểu ngữ, truyền đơn, tờ gấp….

- Tuyên truyền qua nghe, nhìn, như phát thanh, truyền hình, phim ảnh, triển lãm, tham quan.., trong đó vai trò của truyền hình ngày càng trở nên quan trọng do tính phổ cập, nhanh chóng và rộng rãi trong toàn xã hội.

- Tuyên truyền bằng các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông qua các hoạt động của ngành văn hóa, nghệ thuật...

- Tuyên truyền tổng hợp, kết hợp cổ động, tuyên truyền miệng, phim ảnh, thơ ca, hò, vè... (tuyên truyền lồng ghép).

  1. Cổ động

- Cổ động miệng qua hệ thống loa, phát thanh, truyền thanh, v.v.

- Cổ động bằng panô, áp phích, các khẩu hiệu.

- Cổ động bằng và trên các phương tiện thông tin đại chúng.

- Cổ động bằng tuần hành, mít tinh...

Mỗi hình thức tuyên truyền, cổ động nêu trên đều quan trọng và có ưu thế riêng. Việc quyết định sử dụng hình thức nào phải xuất phát từ nội dung, tính chất và yêu cầu cụ thể của từng vấn đề, từng đợt tuyên truyền, đối tượng và khả năng kinh tế của địa phương, cơ sở.

5.2.4. Nguyên tắc cơ bản của công tác tuyên truyền, cổ động

Công tác tuyên truyền, cổ động có các nguyên tắc cơ bản sau:



a. Tính đảng

- Tính đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản của công tác tuyên truyền, cổ động. Nguyên tắc tính đảng đòi hỏi việc xem xét, lý giải mọi hiện tượng, sự kiện của đời sống xã hội đều phải dựa trên lập trường, quan điểm, của giai cấp công nhân, vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

- Nguyên tắc tính đảng trong công tác tuyên truyền, cổ động đòi hỏi người làm công tác tuyên truyền, cổ động phải có niềm tin vững chắc vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Nội dung tuyên truyền, cổ động phải định hướng xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan cách mạng cho quần chúng.

- Phải nêu cao tính chiến đấu trong công tác tuyên truyền, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, phản động, các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân.



b. Tính khoa học, thực tiễn

- Tính khoa học đòi hỏi công tác tuyên truyền, cổ động phải phân tích, đánh giá, tìm ra mối liên hệ giữa các hiện tượng và lý giải đúng đắn bản chất sự việc, và hiện tượng trên cơ sở khoa học.

- Công tác tuyên truyền phải xuất phát từ thực tiễn và phục vụ thực tiễn ở cơ sở, tham gia giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra.

- Nội dung, hình thức tuyên truyền, cổ động phải phù hợp với từng đối tượng cụ thể.



c. Tính chân thực

- Tính chân thực là nguyên tắc quan trọng của công tác tuyên truyền. Tính chân thực đòi hỏi việc tuyên truyền, cổ động phải giải thích những thành tựu cũng như những sai lầm, thiếu sót trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội một cách trung thực, khách quan.

- Tính chân thực không mâu thuẫn với việc cân nhắc cái gì nên nói, cái gì có thể đưa công khai, cái gì cần thông tin nội bộ. Vấn đề cơ bản là nội dung tuyên truyền, cổ động đưa ra phải chân thực, đúng đắn, có tác động tích cực đến tư tưởng của các tầng lớp nhân dân, không được nói dối, nói quá, thổi phồng, bao che, xuyên tạc sự thật...

d. Tính chiến đấu

- Tính chiến đấu chính là bản chất của công tác tuyên truyền, cổ động chính trị. Tính chiến đấu biểu hiện ở sự nhạy bén chính trị, tinh thần tiến công cách mạng trong thực hiện tuyên truyền, cổ động.

- Trong mỗi sự việc cần phân biệt rõ ràng sai - đúng, phải - trái, phù hợp - không phù hợp, biểu dương, phê phán kịp thời.

- Tính chiến đấu còn thể hiện ở việc kiên quyết phê phán các luận điệu tuyên truyền phản động, phản khoa học, trái với quan điểm, đường lối của Đảng.



e. Tính phổ thông, đại chúng

Tính phổ thông, đại chúng trong công tác tuyên truyền đòi hỏi:

- Tuyên truyền, cổ động phải đến với toàn dân, muốn vậy cách nói, cách làm trong tuyên truyền phải bám sát từng đối tượng để chọn ra phương pháp phù hợp.

- Phải động viên nhiều người, nhiều lực lượng cùng tham gia vào công tác tuyên truyền.

- Tuyên truyền phải gắn liền với phong trào. Tuyên truyền còn để tổ chức, hướng dẫn phong trào.

- Hình thức, nội dung tuyên truyền phải linh hoạt, sáng tạo, phù hợp phong tục tập quán, truyền thống của từng dân tộc, từng vùng, từng địa phương.



5.2.5. Phương châm công tác tuyên truyền, cổ động

a. Bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng, phát huy tinh thần cách mạng của các tầng lớp nhân dân

- Nội dung công tác tuyên truyền, cổ động ở mỗi thời kỳ, thời điểm đều phải dựa vào nhiệm vụ chính trị của Đảng, bám sát sự chỉ đạo của các cấp ủy cấp trên và phải gắn chặt với nhiệm vụ chính trị do cấp ủy cơ sở đề ra.

- Tuyên truyền, cổ động phải nhằm củng cố, giữ vững lòng tin của quần chúng với Đảng, đẩy lùi được tâm trạng hoài nghi, hoang mang, dao động.

b. Công tác tuyên truyền, cổ động phải kịp thời, nhạy bén, nội dung chính xác, có tính chiến đấu cao

- Phổ biến kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các vấn đề thời sự quốc tế, trong nước, địa phương cho các tầng lớp nhân dân biết để làm theo.

- Nội dung tuyên truyền, cổ động phải đúng sự thực, không tô hồng, bôi đen, nhưng cũng không rơi vào chủ nghĩa tự nhiên, thiếu định hướng. Phải tỏ rõ chính kiến trước những sự kiện, hiện tượng tiêu cực của xã hội cũng như phê phán những luận điệu của các thế lực thù địch, ảnh hưởng tới lợi ích của quốc gia, dân tộc.

c. Kết hợp tuyên truyền, cổ động nâng cao nhận thức tư tưởng với hướng dẫn hành động và cổ vũ phong trào

Mục tiêu của tuyên truyền, cổ động không chỉ dừng lại ở việc nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân. Trái lại, từ nhận thức phải hướng quần chúng tới hành động cách mạng và phải tiếp tục cổ vũ cho phong trào cách mạng để thúc đẩy phong trào phát triển, mở rộng, lôi cuốn ngày càng đông đảo mọi người tham gia.

d. Kết hợp giữa biểu dương và phê phán

Biểu dương và phê phán là hai mặt không thể thiếu được trong tuyên truyền, cổ động. Hai mặt này gắn bó mật thiết với nhau, hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhau. Khắc phục khuynh hướng chỉ nhấn mạnh một mặt, xem nhẹ mặt kia, vì cả hai khuynh hướng này đều hạn chế hiệu quả tuyên truyền, thậm chí có thể gây ra phản tác dụng tuyên truyền.



e. Tuyên truyền, cổ động phải cụ thể, thiết thực, sinh động

- Cụ thể thiết thực, trước hết cần nắm vững tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân để tuyên truyền đúng đối tượng.

- Trong tuyên truyền phải sử dụng cách nói dễ hiểu, đơn giản, bằng ngôn ngữ của quần chúng để nói với quần chúng, tránh những từ hoa mỹ, trống rỗng. Sử dụng những hình thức phù hợp với đối tượng ở cơ sở.

- Những nhiệm vụ đặt ra phải cụ thể, thiết thực, quần chúng có thể làm được.



f. Phối hợp tốt các mặt hoạt động của công tác tuyên truyền, cổ động

Kết hợp các lực lượng và hình thức tuyên truyền. Kết hợp tuyên truyền thường xuyên với tuyên truyền theo chủ đề, từng thời gian. Kết hợp tuyên truyền với cổ động.



5.2.6. Một số thao tác nghiệp vụ của người cán bộ tuyên truyền miệng

Tuyên truyền miệng là hoạt động tuyên truyền chủ yếu và có hiệu quả nhất ở cơ sở. Hiệu quả tuyên truyền miệng phụ thuộc trực tiếp vào trình độ nghiệp vụ, nghệ thuật tuyên truyền miệng của báo cáo viên. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền miệng, cần chú ý một số vấn đề nghiệp vụ sau đây:



  1. Tìm hiểu tâm lý và đặc điểm đối tượng

Đối tượng tuyên truyền miệng ở cơ sở rất đa dạng, có đặc điểm tâm lý, nghề nghiệp và điều kiện sống khác nhau và có nhu cầu, sự quan tâm đến các vấn đề khác nhau. Vì vậy, am hiểu đặc điểm và tâm lý đối tượng là yêu cầu đầu tiên để tiến hành có hiệu quả công tác tuyên truyền miệng.

Muốn nắm được tâm lý, đặc điểm đối tượng ở cơ sở cần nghiên cứu, tìm hiểu trước, thông qua thông báo, trao đổi của các cơ quan, tổ chức. Nắm tâm lý, đặc điểm đối tượng qua nắm bắt tư tưởng và dư luận xã hội, trao đổi với đội ngũ cán bộ chính quyền, đoàn thể ở cơ sở. Qua việc quan sát trực tiếp phong trào quần chúng ở cơ sở, điều tra bằng phiếu hỏi, quan sát trong các buổi báo cáo để thấy được thái độ, phản ứng của người nghe. Khi nắm được thái độ, đặc điểm của đối tượng phải lựa chọn nội dung, phương pháp tuyên truyền cho phù hợp để đạt hiệu quả cao.



b. Lựa chọn nội dung và chất lượng thông tin

Nhu cầu nhận thức của con người rất phong phú, đa dạng. Chỉ khi đáp ứng được nhu cầu, thoả mãn những mong đợi, khát khao của họ thì nội dung thông tin mới được họ tiếp thu tích cực, tự giác. Vì vậy, lựa chọn nội dung tuyên truyền cần chú ý đến những yêu cầu thông tin của đối tượng.

Khi trình bầy các vấn đề, sự kiện, báo cáo viên cần phân tích, khai thác các khía cạnh của bản chất sự kiện, tổng hợp, khái quát định hướng suy nghĩ và hành động, thoả mãn nhu cầu nhận thức, trí tuệ và tình cảm của người nghe, để từ đó mà đạt được mục đích của tuyên truyền.

Chất lượng thông tin phụ thuộc vào mức độ “sâu” và mức độ “mới” của nó. Những thông tin được phân tích trên cơ sở khoa học và thực tiễn sâu sắc, chỉ rõ bản chất, quy luật, dự báo xu hướng phát triển sẽ giải đáp trúng những vướng mắc của người nghe. Đó là những thông tin có giá trị soi sáng về tư tưởng, hướng dẫn dư luận và hướng dẫn hành động.

Giá trị thông tin mới rất quan trọng, nên cần chú ý cập nhật thông tin và khai thác để tuyên truyền. Tuy nhiên, với các thông tin cũ, sự phân tích sâu sắc, nhận xét, bình luận tinh tế, dự báo có cơ sở khoa học, liên hệ thực tiễn gần gũi, sống động, phương pháp trình bầy hấp dẫn, lôi cuốn... cũng có thể được coi là mới với người nghe. Vì vậy, đổi mới cách trình bầy phù hợp với đối tượng là yêu cầu quan trọng của tuyên truyền miệng.

c. Chuẩn bị đề cương bài nói

Hoạt động tuyên truyền miệng bao gồm xây dựng nội dung và trình bầy bài nói. Sự chuẩn bị chu đáo bài nói, đáp ứng được yêu cầu tuyên truyền và yêu cầu của người nghe sẽ góp phần lớn vào thành công của buổi nói chuyện. Đề cương tuyên truyền có thể là đề cương khái quát hoặc đề cương chi tiết, thậm chí là một bài viết hoàn chỉnh, thường có những phần sau:



- Phần mở đầu, có tính chất giới thiệu vấn đề và làm quen, có tác dụng tạo ra sự thân mật, gần gũi giữa người nói và người nghe. Mở đầu cần định hướng sự theo dõi, chú ý của người nghe vào nội dung tuyên truyền, giới thiệu những phần chính sẽ trình bầy, thời gian sẽ kết thúc và phương thức tiến hành để người nghe chủ động theo dõi.

Mở đầu cần ngắn gọn, súc tích, tránh dài dòng, có thể mở đầu trực tiếp, bắc cầu, tương phản, dẫn câu của lãnh tụ, danh nhân v.v...



- Phần nội dung, đây là phần quan trọng nhất của bài nói. Chuẩn bị từng vấn đề, từng sự kiện, theo lôgic, tầm quan trọng hoặc tiến trình lịch sử, có nguồn gốc, nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp; những nét diễn biến chính, xu hướng vận động, ý kiến đánh giá bình luận; thái độ và biện pháp xử lý. Kết thúc mỗi vấn đề cần tóm tắt, chốt lại những ý chính. Cấu trúc của bài nói phải đảm bảo tính logíc chặt chẽ, hợp lý.

Với từng vấn đề, cần phải dùng các luận điểm, luận cứ, luận chứng, các ví dụ xác đáng, tiêu biểu, rõ ràng để giải thích và chứng minh. Giữa các phần có chuyển ý để cho người nghe thấy liền mạch trong suy nghĩ. Dẫn chứng các câu nói phải trung thực, có xuất xứ. Tuỳ theo từng loại bài nói mà ta chú ý đến các nội dung lý luận, tính thực tiễn, phù hợp với đối tượng.



- Phần kết luận có giá trị khái quát những điều đã trình bầy, nhấn mạnh điểm chính, khêu gợi suy nghĩ và cổ vũ hành động, định hướng tư tưởng để người nghe nâng cao niềm tin và xác định rõ trách nhiệm của mình trong thực hiện nhiệm vụ được giao.

d. Sử dụng ngôn ngữ và phong cách trong buổi nói chuyện

Ngôn ngữ là công cụ chủ yếu của người tuyên truyền miệng. Ngôn ngữ còn là biểu hiện của nhân cách, đạo đức, năng lực trí tuệ, khí chất và thể lực của người nói. Cùng với lời nói, các biểu hiện của nét mặt, nụ cười, ánh mắt, cử chỉ... cũng có tác dụng quan trọng, tạo nên thành công của buổi nói chuyện. Nói chuyện tin vui, nói chuyện buồn, thông báo việc quan trọng... phải có thái độ khác nhau. Thông qua những biểu hiện của người nói, người nghe hiểu được thái độ, tình cảm, niềm vui, nỗi buồn, sự xót xa, sự mỉa mai phê phán, thái độ kiên quyết ủng hộ, tình yêu thương, niềm tin vào lẽ phải của người nói. Những biểu hiện ngoài lời nói của tuyên truyền miệng được hình thành ổn định, trở thành phong cách riêng của mỗi người. Biểu cảm và phong cách cùng với lời nói làm cho nội dung tuyên truyền càng trở nên hấp dẫn hơn. Điều chủ yếu của việc thể hiện phong cách, biểu cảm là phải chân thực, không giả tạo, không mang tính biểu diễn, để khỏi gây ức chế cho người nghe.



e. Chủ động xử lý các tình huống trong lúc nói chuyện

Với tinh thần hướng về cơ sở, tăng cường đối thoại, người nói nên chuẩn bị tinh thần sẵn sàng trao đổi với người nghe. Dù câu hỏi ở dạng nào cũng cần chủ động, trao đổi chân tình, không lảng tránh hoặc tỏ ra lúng túng, gây phản ứng với người nghe.

Khi tiến hành buổi nói chuyện, người nói là “vai chính”, vì vậy, cần phải chủ động xử lý các tình huống có thể xảy ra:

- Lựa chọn cách mở đầu và các bước tiếp theo một cách hợp lý, nhằm cuốn hút người nghe theo chủ đề, làm tăng sự hưng phấn, sự chú ý của người nghe.

- Lựa chọn phương thức tiến hành phù hợp với đối tượng và vấn đề cần trình bầy.

- Chú ý quan sát và phát hiện các quá trình tâm lý diễn ra ở người nghe khi trình bầy để điều chỉnh nội dung, cách nói, nhịp điệu và thời gian cho phù hợp. Thậm chí phải kích thích người nghe, tạo ra nhu cầu mới cho họ, dẫn dắt họ theo định hướng của mình, hứa hẹn đáp ứng nhu cầu mới trong dịp khác. Biết nghỉ giải lao, biết dừng câu chuyện, biết kết thúc bài nói đúng lúc. Không kết thúc sớm quá, và tốt nhất là không quá giờ, không kết thúc đột ngột mà có sự chuẩn bị trước về nội dung và ngữ điệu để kết thúc đúng lúc, kết thúc có hậu bằng sự hứa hẹn gặp lại, cảm ơn sự chú ý.



5.3. Nắm dư luận xã hội và xử lý tình huống, “điểm nóng” ở cơ sở

5.3.1. Khái quát chung về dư luận xã hội

a. Khái niệm dư luận xã hội

Trong đời sống xã hội hiện nay, không chỉ trên các phương tiện thông tin đại chúng, mà cả trong các văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước, xuất hiện ngày càng nhiều khái niệm "dư luận xã hội", như là sự bày tỏ thái độ, tình cảm (nhận xét, đánh giá, ý nguyện, ý chí...) của các nhóm, các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau đối với các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội. Trên thế giới và trong nước ta hiện nay vẫn có rất nhiều cách hiểu khác nhau, có nhiều định nghĩa khác nhau về dư luận xã hội. Cách hiểu đơn giản nhất là coi dư luận xã hội, hay còn gọi là công luận, là ý kiến của quần chúng nhân dân. Một cách khái quát hơn, có thể định nghĩa như sau về dư luận xã hội: "Dư luận xã hội là tập hợp các luồng ý kiến cá nhân trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng hay các quá trình xã hội". Định nghĩa trên mang một số nội dung cần chú ý sau:



Một là, mỗi luồng ý kiến là một số ý kiến cá nhân giống nhau.

Hai là, dư luận xã hội có thể bao gồm nhiều luồng ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

Ba là, luồng ý kiến có thể rộng (tuyệt đại đa số, đa số, nhiều ý kiến) hoặc hẹp (một số ý kiến).

Chỉ có những sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội có tính thời sự (động chạm đến lợi ích, các mối quan tâm hiện có của nhiều người) mới có khả năng tạo ra dư luận xã hội.



b. Dư luận xã hội và tin đồn

Tin đồn là những thông tin từ những nguồn thông tin không chính thức, thường là những thông tin thất thiệt, không đúng sự thật và rất khó kiểm chứng, được dựng lên, hoặc nguỵ tạo nên bởi những mục đích hay dụng ý nào đó.

Giữa tin đồn và dư luận xã hội có những điểm khác biệt cơ bản sau đây: Một là, nguồn thông tin của tin đồn bao giờ cũng xuất phát từ người khác (tôi nghe người này nói, người kia nói); nguồn thông tin của dư luận xã hội lại xuất phát từ chính là bản thân người phát ngôn (theo ý kiến của tôi thì...).

Hai là, tin đồn loang càng xa thì càng có nhiều biến thái, do nó không ngừng được thêm thắt. Ngược lại, lúc ban đầu dư luận xã hội thường rất phân tán, nhưng sau đó, thông qua sự trao đổi, tranh luận, tính thống nhất của dư luận xã hội thường tăng lên.

Ba là, tin đồn thường có tính "thất thiệt" (mặc dù có những tin đồn về cơ bản là sự thật). Dư luận xã hội phản ánh trung thực về những suy nghĩ, tình cảm, thái độ của chủ thể.

Tuy nhiên, giữa dư luận xã hội và tin đồn không có sự ngăn cách tuyệt đối. Tin đồn thường có nguyên nhân là do công chúng, nhân dân thiếu thông tin cộng với tính tò mò, đưa chuyện của một bộ phận công chúng. Tin đồn thường xuất hiện khi người ta thiếu (hoặc thừa) thông tin, dựa vào kinh nghiệm của bản thân, dựa vào những yếu tố chủ quan mà phán đoán, nảy sinh những thông tin, những câu chuyện thường là hoang đường. Nhưng tin đồn cũng ẩn chứa những suy nghĩ và tình cảm của công chúng.



5.3.2. Chức năng của dư luận xã hội

Dư luận xã hội thực hiện những chức năng cơ bản sau đây:



a. Chức năng đánh giá

Dư luận xã hội thể hiện thái độ phán xét đánh giá của công chúng đối với các sự kiện, hiện tượng, sự vật, vấn đề cuộc sống. Dư luận xã hội có vai trò quyết định trong việc hình thành thang bậc giá trị xã hội.



b. Chức năng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội

Dư luận xã hội chính là "luật bất thành văn", thực hiện chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội thông qua việc tác động đến hành vi và các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau; của cá nhân với nhóm xã hội; trong tập thể, hay giữa các nhóm, các tập thể với nhau.



c. Chức năng giáo dục của dư luận xã hội

Dư luận xã hội góp phần chuyển giao các giá trị tinh thần, nhất là các giá trị đạo đức, luân lý từ thế hệ này sang thế hệ khác, như ý thức về "phải - trái", "đúng - sai", "thiện - ác", "đẹp - xấu". Dư luận xã hội có tác dụng giáo dục và răn đe đối với mỗi cá nhân, góp phần vào việc giáo dục ý thức trách nhiệm của cá nhân đối với nhiệm vụ chung. Dư luận xã hội giáo dục luân thường, đạo lý trong xã hội thông qua việc đồng tình hay lên án một hành vi nào đó.

Tuy nhiên, cũng có nơi, có lúc dư luận xã hội có tác động tiêu cực, bảo thủ, kìm hãm hành vi tích cực và sự sáng tạo. Thông thường, con người rất sợ những dư luận nói chung, nhất là dư luận tiêu cực, giống như câu tục ngữ: "trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ".

d. Chức năng giám sát

Dư luận xã hội luôn thể hiện lập trường rõ ràng đối với vấn đề mà nó quan tâm, với mục đích đòi hỏi được đáp ứng những yêu cầu của nó. Thông qua sự phán xét, đánh giá, dư luận xã hội giám sát các hoạt động của các tổ chức xã hội, các cơ quan nhà nước, đòi hỏi các cơ quan này phải làm việc phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Dư luận xã hội về tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí hiện nay có tác dụng giám sát và gây sức ép lên hoạt động của Nhà nước và các tổ chức xã hội.



e. Chức năng tư vấn, phản biện

Trước những vấn đề nan giảI trong xã hội, dư luận xã hội có thể đưa ra những khuyến nghị sáng suốt mà các cơ quan tham mưu cho chính quyền có thể chưa nghĩ ra được. Dư luận xã hội cũng là người phản biện có uy tín đối với các quyết định của các cơ quan đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội.



f. Chức năng giải toả tâm lý - xã hội

Sự giãi bày, bày tỏ thành lời với cơ quan trách nhiệm, cơ quan thông tin hay trong sinh họat ở địa phương có thể giải toả nỗi bất bình, uất ức của con người, nhóm xã hội, làm cho tâm lý của con người, nhóm xã hội trở lại vị trí thăng bằng. Bị oan ức mà nói ra được người ta sẽ cảm thấy nhẹ nhõm.



5.3.4. Các yếu tố tác động đến chất lượng công tác nắm bắt dư luận xã hội

Nắm bắt dư luận xã hội là công việc rất khó khăn, phức tạp, rất dễ bị sai lệch do tác động của nhiều yếu tố.



a. Tính chất đa dạng, phức tạp của các loại quan điểm, thái độ trong xã hội

Lợi ích và nhận thức là một trong những cơ sở rất quan trọng quyết định tâm trạng, tư tưởng của các tầng lớp xã hội để hình thành nên dư luận xã hội. Trước một hiện tượng, sự kiện, vấn đề nào đó, những người có lợi ích và nhận thức khác nhau có thể có tâm trạng, tư tưởng, cách phán xét, đánh giá khác nhau. Một quyết định rất đúng đắn của chính quyền cũng có thể gây ra những phản ứng dư luận xã hội rất khác nhau. Người có hiểu biết về cơ sở của quyết định này (những người có đầy đủ thông tin) thì đánh giá đó là một quyết định rất cần thiết và hợp lý. Nhưng những người thiếu thông tin hoặc nhận được những thông tin sai lệch có thể phê phán gay gắt, coi đó là một quyết định sai trái, bất hợp lý.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong xã hội ta hiện nay, sự phân hoá lợi ích, phân hoá giàu nghèo, về trình độ học vấn, trình độ nhận thức cũng đang tăng lên. Do vậy, sự khác biệt, mâu thuẫn, xung đột ý kiến trước các sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội cũng có chiều hướng tăng lên.

b. Mức độ dân chủ, cởi mở trong xã hội

Nơi nào tinh thần dân chủ được coi trọng, thì ở nơi đó cán bộ, đảng viên và nhân dân có thể bày tỏ thẳng thắn thái độ, suy nghĩ đích thực của mình, ít có những dư luận âm ỉ.

Ngược lại, ở đâu quy chế dân chủ ở cơ sở bị vi phạm thì ở đó cán bộ, đảng viên và nhân dân thường không nói ra những suy nghĩ thật của mình và sẽ tạo nhiều luồng dư luận khó kiểm soát. Không ít trường hợp, cán bộ làm công tác tư tưởng đi cơ sở “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với dân, nhưng cũng không nắm được thực chất tình hình tâm trạng, tư tưởng của dân. Ở những nơi này, nếu không có kinh nghiệm, không có biện pháp thích hợp thì rất khó có được các thông tin chân thực.

c. Bệnh thành tích, sợ khuyết điểm

Xuất phát từ các lợi ích cục bộ, bản vị, cán bộ lãnh đạo các cơ quan, ban ngành, địa phương có thể báo cáo sai tình hình tâm trạng, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân nơi mình quản lý; những bức xúc của cán bộ, đảng viên và nhân dân thường bị che dấu, bệnh thành tích đã phát triển khá phổ biến. Ở một số cơ quan, ban, ngành, địa phương, những nơi bệnh thành tích phát triển, nếu chỉ nghe các cấp uỷ đảng và chính quyền báo cáo, chúng ta khó có thể thu được một bức tranh trung thực về tâm trạng, tư tưởng của dân.



d. Chủ nghĩa cơ hội, thói "xu thời"

Biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, thói “xu thời” là thấy nhiều người nói như thế thì bản thân mình cũng nói như thế, mặc dù trong thâm tâm không nghĩ như vậy. Đây là một trong những hiện tượng tâm lý dễ xuất hiện ở những bộ phận xã hội không hoặc ít có nhu cầu tự khẳng định mình và muốn hoà nhập với cộng đồng. Đây cũng là một trong những nguyên nhân không nhỏ ảnh hưởng đến chất lượng của công tác nắm bắt tâm trạng, tư tưởng, nếu các cán bộ làm công tác tư tưởng không tính toán đến.



e. Sự hạn chế về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ làm công tác nắm bắt dư luận xã hội

Có thể coi đây là một trong những yếu tố cơ bản hạn chế chất lượng công tác nắm bắt tâm trạng, dư luận xã hội. Do không có khả năng phân tích các vấn đề tâm trạng, dư luận xã hội và thiếu hiểu biết về các phương pháp nắm bắt tâm trạng dư luận xã hội nên nhiều cán bộ làm công tác tư tưởng, dư luận xã hội không có khả năng phân tích sâu sắc và phản ánh khách quan, toàn diện thực trạng tình hình tâm trạng, tư tưởng, dư luận xã hội của các tầng lớp cán bộ, đảng viên và nhân dân.



5.3.5.Các hình thức nắm bắt tâm trạng, tư tưởng trong Đảng, trong dân

Có thể chia các phương pháp nắm bắt tâm trạng, tư tưởng trong Đảng, trong dân thành 2 loại: các phương pháp truyền thống và các phương pháp điều tra dư luận xã hội.



a. Nắm bắt theo các phương pháp truyền thống

Cách nắm bắt tâm trạng, tư tưởng trong Đảng, trong dân là một qui trình gồm 3 bước: 1) Thu thập cứ liệu; 2) Tổng hợp, phân tích, viết dự thảo báo cáo; 3) Xin ý kiến góp ý vào dự thảo báo cáo và hoàn thiện báo cáo.

- Thu thập cứ liệu: Các phương pháp thường sử dụng để thu thập cứ liệu là: nghe, quan sát, toạ đàm, phỏng vấn, thảo luận, phân tích tài liệu (đơn thư khiếu nại, tố cáo, ý kiến cử tri, biên bản các cuộc họp tổ dân phố, thôn, xóm...).

- Tổng hợp, phân tích, viết dự thảo báo cáo: Sau khi đã thu thập được các cứ liệu cần thiết, người viết báo cáo phải tổng hợp, phân tích các cứ liệu và đưa ra các nhận định, đánh giá về tình hình, tâm trạng, tư tưởng trong Đảng, trong dân. Các phân tích, tổng hợp có thể được viết thành báo cáo, lúc đầu là báo cáo dưới hình thức dự thảo.

- Xin ý kiến góp ý tổ chức thảo luận (hoặc xin ý kiến lãnh đạo, những người am hiểu) đối với dự thảo báo cáo; tiếp thu và sửa chữa, hoàn thiện dự thảo báo cáo, chuyển dự thảo báo cáo đã được hoàn thiện thành báo cáo chính thức.

Nếu quy trình này không được tuân thủ nghiêm ngặt thì chất lượng báo cáo có thể không đáng tin cậy.

Phương pháp nắm bắt tâm trạng, tư tưởng truyền thống dễ làm, cán bộ không cần phải đào tạo nhiều, ít tốn kém về thời gian và chi phí. Tuy nhiên, các thông tin thu được dễ mang tính chủ quan, phiến diện, thiếu rõ ràng về mặt định lượng (ví dụ, không thể xác định được có bao nhiêu % trong xã hội tán thành hoặc không tán thành một quan điểm nhất định nào đó).

b. Nắm bắt bằng phương pháp điều tra dư luận xã hội

Điều tra dư luận xã hội là hình thức phỏng vấn một lượng người nhất định, được lựa chọn theo những cách thức khoa học, do vậy chỉ cần điều tra (phỏng vấn) một lượng người không lớn (ví dụ một vài nghìn người), nhưng kết quả thu được cũng gần giống như kết quả điều tra toàn bộ cộng đồng. Các phương pháp điều tra dư luận xã hội cho phép khắc phục những điểm hạn chế của các phương pháp truyền thống nêu trên. Tuy nhiên, các phương pháp điều tra dư luận xã hội cũng có những điểm yếu như chi phí lớn, cán bộ phải được đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ, phải có những kiến thức nhất định về xã hội học, tâm lý học.

Phương pháp này sẽ được trình bày kỹ trong phần “Cách nắm bắt dư luận xã hội”.

5.3.6. Cách nắm bắt dư luận xã hội

a. Các phương pháp nghiên cứu nội dung dư luận xã hội (cách gọi khoa học là các phương pháp nghiên cứu định tính)

Bản chất của nghiên cứu nội dung dư luận xã hội là tìm hiểu xem trong cộng đồng xã hội mà chúng ta nghiên cứu, trước mỗi sự kiện, hiện tượng, vấn đề cuộc sống, dư luận xã hội bao gồm mấy loại ý kiến, nội dung mỗi loại ý kiến là gì.

Phương pháp nghiên cứu nội dung dư luận xã hội có thể phân thành hai loại: Các phương pháp nghiên cứu trực tiếp và các phương pháp nghiên cứu gián tiếp.

Nghiên cứu trực tiếp

Nghiên cứu trực tiếp bao gồm hai phương pháp chủ yếu là phỏng vấn nhóm và phỏng vấn cá nhân.

- Phỏng vấn nhóm là loại phỏng vấn nhằm vào các đối tượng là những nhóm nhỏ (thông thường từ 8 đến 12 người, lớn hơn hoặc nhỏ hơn sẽ thiếu tập trung, hoặc tẻ nhạt). Mục đích chính của phỏng vấn nhóm là phát huy thế mạnh của sự trao đổi, thảo luận, tranh luận tập thể để làm rõ các “góc cạnh” của vấn đề nghiên cứu (có bao nhiêu loại tâm trạng, thái độ, quan điểm trước một vấn đề, sự kiện mà người nắm dư luận xã hội quan tâm). Trong phỏng vấn nhóm, người phỏng vấn có thể tuỳ cơ ứng biến để đặt ra các câu hỏi cho mọi người. Các cuộc giao ban dư luận xã hội với số lượng người tham gia ít (từ 8 đến 12 người), trong đó, người chủ trì giao ban đặt ra các câu hỏi để người tham dự giao ban trả lời có thể được coi là hình thức phỏng vấn nhóm.

- Phỏng vấn cá nhân (gọi chính xác hơn là phỏng vấn sâu) là hình thức trao đổi “tay đôi” giữa người phỏng vấn và cá nhân được phỏng vấn. Trong phỏng vấn cá nhân, người nêu câu hỏi được phép tuỳ cơ ứng biến khi nêu câu hỏi. Thế mạnh của phỏng vấn sâu là bằng các câu hỏi có tính gợi mở, người phỏng vấn có thể làm rõ mọi ngóc ngách suy nghĩ, thái độ, tâm trạng, tình cảm của người được phỏng vấn đối với vấn đề mà mình quan tâm.



Nghiên cứu gián tiếp

Nghiên cứu trực tiếp bao gồm chủ yếu là các phương pháp sau đây:



- Phương pháp liên tưởng: Đây là hình thức nắm bắt ý kiến của đối tượng thông qua phản ứng tức thì của người được phỏng vấn trước câu hỏi của người phỏng vấn. Hình thức liên tưởng phổ biến nhất là liên tưởng ngôn ngữ. Trong liên tưởng ngôn ngữ, cán bộ làm công tác nghiên cứu dư luận xã hội đề nghị đối tượng cho biết ý nghĩ xuất hiện tức thì trong đầu họ mỗi khi cán bộ làm công tác nắm bắt dư luận xã hội đề cập đến một khái niệm, một chủ đề nhất định nào đó. Phương pháp này cho phép nắm bắt trung thực suy nghĩ của đối tượng đối với những vấn đề tế nhị, nhạy cảm. Bởi vì, đối với những vấn đề tế nhị, nhạy cảm, người được hỏi ý kiến thường có phản ứng phòng vệ, xuất hiện “hàng rào tâm lý” khiến họ không nói thật suy nghĩ của mình. Phương pháp liên tưởng đòi hỏi người trả lời phải nói nhanh, “hàng rào tâm lý” chưa kịp xuất hiện.

- Phương pháp bổ khuyết: người nghiên cứu có thể tổng hợp sơ bộ tình hình dư luận xã hội về một vấn đề, sự kiện, hiện tượng nào đó và đề nghị đối tượng nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện. So với phương pháp liên tưởng ngôn từ, phương pháp bổ khuyết có khả năng cung cấp một lượng thông tin nhiều hơn về suy nghĩ và thái độ của người trả lời.

- Phương pháp người thứ ba (người khác): Đối tượng được hỏi cần cho biết người khác có phản ứng (suy nghĩ, thái độ) như thế nào đối với một vấn đề sự kiện, hiện tượng nhất định nào đó. Người thứ ba đó có thể là bạn bè, là hàng xóm, là đồng nghiệp ... của đối tượng. Trong các suy đoán về thái độ và cảm tưởng của người thứ ba này phản ánh chính các cảm tưởng, thái độ của đối tượng. Phương pháp này cũng nhằm ngăn chặn sự xuất hiện “hàng rào tâm lý”, “phản ứng đề phòng” của người trả lời. Nó thích hợp trong việc nắm bắt dư luận xã hội đối với những vấn đề tế nhị, nhạy cảm.

b. Các phương pháp nghiên cứu định lượng (số lượng những người có cùng loại ý kiến)

Dư luận xã hội cần phải được làm rõ không chỉ về nội dung mà còn về số lượng người có loại ý kiến tương ứng (đa số? số đông? một số? bao nhiêu %?). Các phương pháp nghiên cứu định lượng phổ biến trong nghiên cứu dư luận xã hội là:



Phương pháp phân tích tài liệu

Phân tích tài liệu (báo chí, biên bản các cuộc họp, đơn thư khiếu nại, tố cáo, góp ý của nhân dân...) đòi hỏi các kỹ thuật nhất định, như phân loại các nội dung mà các tài liệu này đề cập, tính số lần được đề cập của mỗi nội dung.

Ví dụ, chúng ta có thể dùng phương pháp này để làm rõ ở một xã (phường) nhất định nào đó, hàng tháng có bao nhiêu đơn thư tố cáo, nội dung chủ yếu của đơn thư tố cáo là gì và mỗi nội dung được bao nhiêu đơn thư đề cập...

Phương pháp điều tra xã hội học

Dư luận xã hội có thể được nắm bắt chính xác (cả về mặt định tính và mặt định lượng) thông qua điều tra xã hội học. Hình thức điều tra xã hội học phổ biến là phỏng vấn một tập hợp người (gọi là mẫu điều tra) theo các bảng (phiếu câu hỏi) đã được chuẩn bị trước. Mỗi cuộc điều tra xã hội học đều phải trải qua các bước sau đây: 1) Xác định chủ đề, mục đích điều tra; 2) Xây dựng phiếu câu hỏi; 3) Chọn mẫu điều tra; 4) Xử lý phiếu điều tra; 5) Viết báo cáo.



- Xác định chủ đề, mục đích điều tra.

Để tiến hành một cuộc điều tra xã hội học, trước hết phải làm rõ chúng ta điều tra vấn đề gì, các nội dung thông tin cần có để làm rõ vấn đề nghiên cứu là những nội dung gì.



  • Xây dựng phiếu câu hỏi.

Có thể chia cấu trúc của một phiếu câu hỏi thành 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần các đặc điểm xã hội của đối tượng.

+ Phần mở đầu: giới thiệu mục đích nghiên cứu và hướng dẫn cách trả lời, khẳng định nguyên tắc khuyết danh (người trả lời không phải ghi tên mình vào phiếu câu hỏi mà mình trả lời) để người trả lời có thể trả lời thành thực, không e ngại.

+ Phần nội dung: Câu hỏi có thể phân chia thành hai loại: câu hỏi kín, câu hỏi mở.

Câu hỏi kín: là câu hỏi có kèm sẵn các phương án trả lời khác nhau dựa trên một cơ sở phân chia nhất định. Người trả lời chỉ cần đánh dấu vào phương án nào phù hợp với suy nghĩ của mình. Có loại câu hỏi kín đơn giản và câu hỏi kín phức tạp. Câu hỏi kín đơn giản là loại câu hỏi chỉ có hai phương án trả lời kiểu "có - không" hoặc “tán thành - không tán thành).

Câu hỏi mở: là loại câu hỏi không có sẵn các phương án trả lời, người trả lời phải tự viết ý kiến của mình ra.

Còn có loại câu hỏi vừa kín vừa mở: Đó là loại câu hỏi có một số phương án trả lời cho sẵn và một phương án trả lời là câu hỏi mở. Câu hỏi này được sử dụng khi vấn đề được hỏi có thể chứa đựng rất nhiều phương án trả lời mà chúng ta khó có thể lường hết được. Phương án mở nhằm mục đích bao quát hết các loại ý kiến trả lời mà chúng ta chưa liệt kê.

+ Phần đặc điểm của đối tượng điều tra: Ở cuối mỗi bảng câu hỏi, chúng ta thường có những câu hỏi về lứa tuổi, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, giới tính… Phần này có tác dụng lớn trong việc phân tích và so sánh kết quả thu được.

- Chọn mẫu điều tra. Để nắm ý kiến của một cộng đồng xã hội nào đó, tốt nhất chúng ta phỏng vấn tất cả các thành viên trong cộng đồng. Đó là kiểu điều tra tổng thể. Nhưng trên thực tế, điều tra tổng thể chỉ thực hiện được đối với các nhóm người có số lượng ít, vài ba trăm người trở xuống, còn với số lượng của nhóm người điều tra lớn (hàng chục vạn, hàng triệu người) thì có rất nhiều khó khăn, tốn phí rất nhiều công sức, tiền của và thời gian.

Để giải quyết các khó khăn này, người ta đã dùng phương pháp chọn mẫu, chỉ cần chọn lấy một số người đại diện trong tổng thể (số người này được gọi là mẫu điều tra) để điều tra mà kết quả vẫn không bị sai lệch nhiều.




tải về 300.18 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương