ChuyêN ĐỀ 2 MỘt số VẤN ĐỀ VỀ ĐẢng và CÔng tác xây dựng đẢng hiện nay


Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát



tải về 241.12 Kb.
trang3/3
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích241.12 Kb.
#25813
1   2   3

7. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát

- Tập trung kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng, các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng trên các lĩnh vực; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; việc thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí; việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, nhất là những vụ án nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận xã hội; kiểm tra, giám sát việc tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ.

- Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

- Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra của Chính phủ, công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan hành pháp, tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm quyền của mỗi cơ quan, tổ chức.



8. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

Điểm mới căn bản trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội khi trở thành Đảng cầm quyền là có Nhà nước - một công cụ mạnh mẽ, sắc bén để thực hiện nội dung lãnh đạo.

Vì vậy, mục tiêu cao nhất trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là làm cho Nhà nước mạnh lên, Nhà nước mạnh thì quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm và phát huy; Đảng gần với dân và được dân tin yêu. Vì vậy, cần tập trung thực hiện một số nội dung sau:

- Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh và ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng bao biện làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo cơ quan quản lý nhà nước.

- Tích cực đổi mới phong cách, lề lối làm việc, tác phong công tác của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Thực hiện tốt chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ động và trách nhiệm cá nhân. Phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng, đảng viên hoạt động trong cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

- Đổi mới cách ra nghị quyết và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp; sâu sát thực tế cơ sở, nói đi đôi với làm.


Phần thứ tư

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG TỪ ĐẠI HỘI XI ĐẾN NAY

I. CÁC NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG KHÓA XI

Để cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, từ Đại hội đến nay, Ban Chấp hành Trung ương đã họp 7 kỳ với các nội dung chủ yếu sau:

1. Hội nghị Trung ương 1

Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tiến hành ngày 17/01/2011, trong thời gian diễn ra Đại hội để bầu các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương gồm: Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương.



2. Hội nghị Trung ương 2

- Thông qua Quy chế làm việc của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XI; Quy chế làm việc của Ủy ban kiểm tra Trung ương khoá XI;

- Thông qua Chương trình làm việc toàn khoá của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI;

- Chủ trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992;

- Chủ trương kiện toàn bộ máy các cơ quan nhà nước và giới thiệu nhân sự cấp cao của Nhà nước nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII.

3. Hội nghị Trung ương 3

- Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2011 – 2015)...

- Ban hành Nghị quyết về “Đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc lại nền kinh tế”;

- Ban hành Quy định thi hành Điều lệ Đảng; Quyết định ban hành hướng dẫn về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Quy định những điều đảng viên không được làm.



4. Hội nghị Trung ương 4

- Ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”;

- Ban hành Nghị quyết về “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.

5. Hội nghị Trung ương 5

- Tổng kết việc thi hành Hiến pháp 1992 và định hướng việc bổ sung, sửa đổi Hiến pháp 1992;

- Tổng kết Nghị quyết Trung ương 7 (khoá IX) về “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” và định hướng việc bổ sung, sửa đổi Luật đất đai;

- Ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề về chính sách xã hội từ 2012 đến 2020”;

- Một số vấn đề về tiền lương và định hướng cải cách tiền lương đến năm 2020;

- Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng”. Ban Chấp hành Trung ương quyết định: Chuyển Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng trực thuộc Chính phủ sang trực thuộc Bộ Chính trị do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng Ban Chỉ đạo; thành lập lại Ban Nội chính Trung ương với chức năng là một ban đảng Trung ương đồng thời là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng Trung ương.



6. Hội nghị Trung ương 6

- Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận, cho ý kiến về Đề án “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”.

- Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận, cho ý kiến về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét, thảo luận về Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” và Đề án “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

- Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét, thảo luận Đề án “Quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016 – 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo”.

- Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét, thảo luận, cho ý kiến về kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình tập thể và cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

- Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét và quyết định thành lập Ban Kinh tế Trung ương theo đề nghị của Bộ Chính trị. Cũng tại Hội nghị này, lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương thực hiện chất vấn và trả lời chất vấn rất thẳng thắn, sôi nổi, trách nhiệm.

7. Hội nghị Trung ương 7

- Nghị quyết “tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”;

- Nghị quyết về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; tăng cường bảo vệ tài nguyên, môi trường”

- Kết luận một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.

- Kết luận về việc tiếp thu ý kiến nhân dân, hoàn thiện bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992;

- Kết luận một số vấn đề về tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020;

- Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét, cho ý kiến về các phương án và nhân sự quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016 - 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo;

- Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận, cho ý kiến về Báo cáo sơ kết 1 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay";

- Ban Chấp hành Trung ương đã bầu bổ sung các đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ vào Bộ Chính trị; bầu bổ sung đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng vào Ban Bí thư.

Từ chương trình, nội dung các kỳ họp của Trung ương, nổi lên một số điểm đáng chú ý sau:

(1). Ban Chấp hành Trung ương luôn quan tâm và tập trung chỉ đạo thực hiện hai nhiệm vụ lớn của cách mạng là phát triển kinh tế và xây dựng Đảng. Điều đó thể hiện sự quán triệt sắc quan điểm của Đảng được xác định trong Cương lĩnh là: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”.

(2). Ban Chấp hành Trung ương chỉ ban hành nghị quyết đối với những vấn đề mới; những vấn đề đã có nghị quyết thì chỉ đạo sơ kết, tổng kết và ban hành Kết luận để tiếp tục thực hiện nghị quyết.

(3). Các quy định, hướng dẫn về thực hiện Điều lệ Đảng được nâng cấp về thẩm quyền ban hành (Quy định 45-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, Hướng dẫn 01-HD/TW của Ban Bí thư Trung ương…).

(4). Vừa mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng, vừa tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng.

II. NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4 “MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY”

Trong những ngày cuối tháng 12/2011, Hội nghị Trung ương 4 đã ban hành hai Nghị quyết số 12-NQ/TƯ về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Đây là một Nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đặc biệt quan tâm, theo dõi và kỳ vọng ngay từ khi chuẩn bị đề án trình Trung ương; trong khi họp Trung ương, sau khi Trung ương ban hành nghị quyết cho đến quá trình triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết hiện nay.



1. Lý do ban hành Nghị quyết

(1). Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam là bài học kinh nghiệm được rút ra qua hơn 82 năm hoạt động thực tiễn của Đảng. Đảng ta là một Đảng duy nhất cầm quyền, nên vừa có thuận lợi, vừa có nguy cơ, nhất là sự suy thoái của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

(2). Khi thực hiện sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và chủ động hội nhập quốc tế thì nhiệm vụ đặt ra đối với Đảng càng nặng nề, càng khó khăn, phức tạp. Do đó, đòi hỏi Đảng ta phải thật sự vững mạnh và vươn lên ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới (phẩm chất, trí tuệ, năng lực, đạo đức, lối sống…).

(3). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, bên cạnh những ưu điểm, Đảng ta cũng có nhiều khuyết điểm, yếu kém kéo dài qua nhiều năm, nhiều nhiệm kỳ nhưng chậm được khắc phục.

(4). Sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta bằng thủ đoạn “Diễn biến hoà bình” tinh vi, thâm độc, xảo quyệt; chúng muốn làm cho Đảng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.

2. Nội dung Nghị quyết

Nghị quyết Trung ương gồm 4 phần: Tình hình và nguyên nhân; mục tiêu, phương châm; giải pháp và tổ chức thực hiện. Sau khi có Nghị quyết Trung ương, Bộ Chính trị có Chỉ thị số 15-CT/TW và Kế hoạch số 08-KH/TW; các Ban đảng Trung ương có các hướng dẫn thực hiện, đặc biệt là Hướng dẫn số 11-HD/BTCTW về việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình trong Đảng.



2.1. Về đánh giá tình hình và nguyên nhân

Bên cạnh việc khẳng định những ưu điểm và chuyển biến tiến bộ trong công tác xây dựng Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ ra những mặt yếu kém, khuyết điểm lớn của công tác xây dựng Đảng hiện nay là:

- Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tuỳ tiện vô nguyên tắc.

- Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng chưa được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương, chưa thực hiện ở cấp Trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong việc bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp bố trí chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan lãnh đạo.

- Nguyên tắc“tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi có khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuỷến khích người đứng đầu có nhiệt tình tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho cachs làm việc tắc trách, trì trệ hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu cho lợi ích cá nhân.

Tình hình trên có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do các nguyên nhân chủ quan chính sau đây:

- Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quyên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng đảng ở một số nơi chưa đến nơi, đến chốn; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm.

- Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho việc kiểm tra, giám sát. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật thích ứng chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể.

- Việc đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ; chưa chú trọng phát hiện và có cơ chế để trọng dụng những người có đức, có tài; không kiên quyết thay thế những người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực kém.

- Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống ở nhiều nơi còn hình thức. Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh với những vi phạm còn nể nang, không nghiêm túc.

- Vai trò giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa được phát huy, hiệu quả chưa cao.



2.2. Nhiệm vụ cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay

(1). Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

(2). Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.

(3). Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.



Trong 03 vấn đề cấp bách nêu trên thì vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất.

2.3. Mục tiêu và phương châm

- Mục tiêu: Phải tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

- Phương châm:

+ Phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan, không nể nang, né tránh. Những cán bộ, đảng viên có khuyết điểm nhưng tự giác, quyết tâm sửa chữa thì có thể xem xét, giảm nhẹ hoặc không xử lý; nếu những người có khuyết điểm mà không tự giác thì phải xử lý nghiêm khắc.

+ Có các giải pháp phải đồng bộ; tiến hành có trọng tâm, trọng điểm; kết hợp “chống để xây”, “xây để chống”; thực hiện nói đi đôi với làm; tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, trì trệ nhất;

+ Phải bình tĩnh, tỉnh táo, không nóng vội, cực đoan; đồng thời không để rơi vào trì trệ, hình thức; giữ đúng nguyên tắc, không để các thế lực thù địch và phần tử cơ hội lợi dụng, kích động, xuyên tạc, đả kích, gây rối nội bộ.



2.4. Giải pháp thực hiện

Nghị quyết đề ra 4 nhóm giải pháp đồng bộ để thực hiện là:



(1). Nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của cấp trên, theo trình tự từ trên xuống dưới:

- Tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư kiểm điểm trước; từng đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Bí thư kiểm điểm sau, từ đồng chí Tổng Bí thư của Đảng đến các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư khác.

- Mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo 03 nội dung nêu trong Nghị quyết.

- Trước khi kiểm điểm tập thể và cá nhân có các hình thức phù hợp để lấy ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên, nhân dân và những nơi có vấn đề nổi cộm thì cấp trên có gợi ý để tập trung kiểm điểm, làm rõ.

- Sau khi cấp trên kiểm điểm có thông báo kết quả bằng hình thức phù hợp để cấp dưới học tập, noi gương làm theo.

(2). Nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng:

- Phát huy dân chủ trong Đảng; thực hiện Quy chế chất vấn trong đảng, nhất là việc chất vấn trong các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương và cấp ủy các cấp.

- Đổi mới cách lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá cán bộ theo hướng mở rộng đối tượng tham gia. Những người không đủ năng lực, tín nhiệm thấp cần sắp xếp cho phù hợp, không chờ đến hết nhiệm kỳ.

- Thực hiện việc luân chuyển, bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt không phải là người địa phương;

- Tiếp tục thực hiện một số chủ trương thí điểm về công tác cán bộ;

- Định kỳ tổ chức để nhân dân góp ý xây dựng Đảng thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.



(3). Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách:

- Rà soát, loại bỏ những cơ chế chính sách không còn phù hợp; xây dựng, ban hành cơ chế chính sách để đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ.

- Rà soát cơ chế chính sách và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để quản lý, kiểm soát chặt chẽ vốn, tài sản của Nhà nước.

- Tích cực cải cách hành chính nhà nước và hành chính trong Đảng.

- Đẩy nhanh việc cải cách, thực hiện chế độ tiền lương, nhà ở; khắc phục tính bình quân, cào bằng và chống đặc quyền, đặc lợi; gắn tinh giản biên chế với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ.

- Có cơ chế giám sát của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội; cơ chế để MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

(4). Nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị tư tưởng:

- Tiếp tục đẩy mạnh việc Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị và Kế hoạch 03 của Ban Bí thư (khoá XI);

- Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống cho cán bộ, đảng viên gắn với kiểm điểm, tư phê bình, phê bình trong Đảng;

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; cập kiến thức mới cho cán bộ chủ chốt các cấp, nhất là ở Trung ương;

- Chấn chỉnh hoạt động thông tin, tuyên truyền; quản lý báo chí; nêu gương người tốt, việc tốt, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực;

- Cán bộ chủ chốt các cấp phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại với nhân dân. Chủ động đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong Đảng; giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.



3. Những điểm mới trong chỉ đạo thực hiện Nghị quyết

Việc thực hiện Nghị quyết lần này có nhiều nội dung, cách làm mới, thể hiện quyết tâm chính trị cao của Trung ương vào việc thực hiện Nghị quyết. Cụ thể là:

(1). Sau khi có Nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị có Chỉ thị và Kế hoạch thực hiện Nghị quyết; các ban đảng Trung ương có các Hướng dẫn cụ thể theo chức năng, nhiệm vụ của từng ban để thực hiện;

(2). Bộ Chính trị tổ chức các hội nghị với cán bộ lão thành, cán bộ cao cấp đã nghỉ hưu ở hai khu vực (tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) để quán triệt và lấy ý kiến góp ý cho tập thể, cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư;

(3). Tổ chức Hội nghị cán bộ chủ chốt toàn quốc với hơn 1.400 cán bộ tham dự; đồng chí Tổng Bí thư trực tiếp quán triệt nghị quyết và giải đáp những thắc mắc; các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy viên Trung ương Đảng tham dự đầy đủ.

(4). Phân công nhiệm vụ cho các ban, cơ quan đảng Trung ương cụ thể hoá nội dung nghị quyết bằng các quy định, quy chế, hướng dẫn để thực hiện;

(5). Thành lập Bộ phận Thường trực của ở Trung ương để theo dõi, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết; thành lập Tổ giúp việc Bộ phận Thường trực ở Trung ương;

(6). Tiến hành tự phê bình và phê bình từ trên xuống dưới; từ người đứng đầu của Đảng đến đảng viên; kiểm điểm tập thể trước, cá nhân kiểm điểm sau. Việc tiến hành tự phê bình, phê bình có trọng tâm, trọng điểm và phải bình tĩnh, thận trọng,làm đến đâu chắc đến đó, không nóng vội, hình thức.

(7). Trước khi kiểm điểm tập thể và cá nhân ở các cấp, có lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức, cá nhân liên quan bằng các hình thức phù hợp;

(8). Nơi nào có vấn đề nổi cộm, dư luận bất bình thì cấp trên cần có gợi ý kiểm điểm để tập trung làm rõ;

(9). Sau khi kiểm điểm có thông báo kết quả để cán bộ, đảng viên, nhân dân biết và giám sát bằng hình thức phù hợp;

(10). Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền kết quả trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết./.



4. Kết quả sơ kết 1 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 sơ kết 1 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay". Cụ thể kết quả như sau:

Trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, với nỗ lực, trách nhiệm và quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng, nhìn chung, các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 một cách nghiêm túc, với một khối lượng công việc lớn, phức tạp và đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng, tạo được sự chuyển biến trong việc ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, khắc phục một số hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ và trong việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

Qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình, lắng nghe ý kiến góp ý của cán bộ, đảng viên, nhân dân, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và từng cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn ưu điểm, khuyết điểm; phân tích, làm rõ nguyên nhân của các yếu kém, khuyết điểm, nhất là những khâu, những mặt kéo dài qua một số nhiệm kỳ để đề ra phương hướng, giải pháp sửa chữa, khắc phục. Đã tạo được một số chuyển biến tích cực, bước đầu làm rõ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, tăng cường kỷ luật, kỷ cương và xử lý nghiêm những vụ việc phức tạp, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã góp phần thúc đẩy thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, hoàn thành cơ bản các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững trật tự an toàn xã hội; chủ động hội nhập, nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của đất nước.

Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm. Trong quá trình chuẩn bị kiểm điểm, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng và tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị góp ý cho cấp trên (nhất là cho cá nhân), chất lượng còn hạn chế. Một số đồng chí chưa nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình trước những hạn chế, khuyết điểm trong lĩnh vực được giao phụ trách, còn nể nang, né tránh, ngại va chạm. Trên một số vấn đề, qua kiểm điểm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, vẫn chưa làm rõ được thực chất, mức độ nghiêm trọng của tình hình, xảy ra ở đâu, ai chịu trách nhiệm. Một số quy định, quy chế để triển khai thực hiện Nghị quyết chậm được ban hành, một số vụ việc phức tạp, gây bức xúc trong nhân dân chậm xử lý. Một số nội dung trong nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị tư tưởng đang trong quá trình chuẩn bị, triển khai nên kết quả còn hạn chế.

Những khuyết điểm, hạn chế nêu trên chủ yếu là do các vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay là những vấn đề quan trọng, khó và đã kéo dài nhiều nhiệm kỳ, đòi hỏi phải có thời gian, kiên trì thực hiện mới có thể khắc phục, giải quyết được, trong khi thời gian thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 mới được hơn 1 năm.



Ban Chấp hành Trung ương xác định: Các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở cần nghiêm túc, tự giác và có kế hoạch, biện pháp phù hợp để khắc phục, sửa chữa ngay những yếu kém, khuyết điểm đã được kết luận qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình. Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thực hiện những việc cần làm ngay sau kiểm điểm, nhất là việc xử lý, giải quyết có hiệu quả, nghiêm minh những vấn đề bức xúc, nổi cộm. Tiếp tục đổi mới lề lối, phong cách làm việc trong Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và làm tốt công tác xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa X và Kết luận Hội nghị Trung ương 5 khóa XI. Thực hiện kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 gắn với việc kiểm điểm và lấy phiếu tín nhiệm hằng năm. Khẩn trương hoàn thành các đề án còn lại về triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 bảo đảm chất lượng. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; thực hiện nghiêm túc trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp. Tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, công tác tuyên truyền, công tác tư tưởng trong Đảng và toàn xã hội.




tải về 241.12 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương