Chú Giải Kinh Kim Cang Và Chánh Pháp Chưa Từng Có ht. Huyền VI


PHẦN 2: ĐỨC PHẬT NÓI KINH CHÁNH PHÁP CHƯA TỪNG CÓ



tải về 1.4 Mb.
trang21/30
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích1.4 Mb.
#5475
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   ...   30

PHẦN 2: ĐỨC PHẬT NÓI KINH CHÁNH PHÁP CHƯA TỪNG CÓ

QUYỂN THỨ I


Xứ Tây Thiên, tam tạng dịch kinh, triều đình ban cho chức Đại Phu Thí Hồng Lô Khanh, truyền thọ Đại sư, hiệu là Pháp Thiên, vâng chiếu chỉ phiên dịch.

Tôi nghe như vầy2, một thuở nọ Đức Phật ngự tại thành Vương Xá3 , trên pháp hội Linh Sơn4, cùng chúng đại tỳ kheo, một muôn hai ngàn năm trăm vị (12,500). Lúc bấy giờ có các đại Bồ Tát, số tới tám muôn bốn ngàn người (84,000), từ các cõi Phật đến câu hội. Các Bồ Tát ấy đều đủ đại trí, đặng đại tổng trì 5, đủ vô ngại biện tài 6, đạ chứng vô sanh pháp nhẫn7 , vào tam ma địa8 , tổng trì trí môn, rõ biết tâm ưa muốn của chúng sinh, khéo nói pháp yếu9, như pháp giả thoát. Lại có bốn vị10 đại thiên vương và trời Đế Thích, chủ cõi Ta Bà là vị đại Phạm thiên vương và vô lượng trăm nghìn trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người và phi nhơn11 v.v…đều đến nhóm họp. Lúc bấy giờ có vị đại Bồ Tát tên là Diệu Kiết Tường12 ở bên núi kia (Linh Sơn) cùng 25 vị Đại Bồ Tát. Ấy là: Đại Bồ Tát Long Kiết Tường, Đại Bồ Tát Long Thọ, Đại Bồ Tát Kiết Tường Sanh, Đại Bồ Tát Kiết Tường Tạng, Đại Bồ Tát Tối Thượng Liên Hoa Kiết Tường, Đại Bồ Tát Liên Hoa Kiết Tường Sanh, Đại Bồ Tát Bửu Thủ, Đại Bồ Tát Bửu Ấn Thủ, Đại Bồ Tát Sư Tử Ý, Đại Bồ Tát Sư Tử Úy Âm, Đại Bồ Tát Hư Không Tạng, Đại Bồ Tát Bình Đẳng Tâm Chuyển Pháp Luân, Đại Bồ Tát Liễu Biệt Nhất Thiết Cú Nghĩa Đại Biện, Đại Bồ Tát Biện Tích, Đại Bồ Tát Hải Ý, Đại Bồ Tát Diệu Cao Vương, Đại Bồ Tát Ái Kiến, Đại Bồ Tát Hỷ Vương, Đại Bồ Tát Vô Biên Thị, Đại Bồ Tát Vô Biên Tác Hạnh, Đại Bồ Tát Phá Chư Ma, Đại Bồ Tát Vô Ưu Thọ, Đại Bồ Tát Nhất Thiết Nghĩa Thành.

Lại có bốn vị Thiên Tử ở cung trời Đâu Suất ấy là Thiên Tử Phổ Khai Hoa, Thiên Tử Quang Minh Khai Hoa, Thiên Tử Mạn Đà La Hoa Hương, Thiên Tử Tinh Tiến Pháp Hành. Các Thiên Tử ấy dùng tâm tin ưu. Mỗi vị cùng các bà con đồng đến chỗ Bồ Tát Diệu Kiết Tường, nghe thọ chánh pháp. Lúc ấy các vị Đại Bồ Tát cùng chúng thiên tử, đã đến pháp hội rồi, thứ lớp mà ngồi.

Lúc bấy giờ, đại chúng đa số đều nói: Nhất thiết trí của Phật thậm thâm vô lượng, rộng lớn vô biên, không thể nào nghĩ bàn, không có món gì so sánh, tối thượng không ai hơn, không thể nào rõ biết tận tường. Tại sao Đại Bồ Tát phải mặc áo giáp tinh tiến, mới chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác13? Lúc ấy trong pháp hội có vị Đại Bồ Tát tên là Long Kiết Tường nói với các Bồ Tát rằng; nếu có Bồ Tát nào trồng các căn lành tâm không trụ trước14, hồi hướng thật tế. Ấy gọi là an trụ các pháp căn lành, mặc áo giáp tinh tấn. Đại Bồ Tát ấy liền chứng đến nhất thiết trí của Phật tánh.

Bồ Tát Long Thọ nói: Nếu Bồ Tát phát tâm bình đẳng, tâm điều phục, tâm ái lạc, tâm ưu thích, tâm nhu nhuyến, tâm vô phân biệt. Ấy gọi là kiên cố, mặc áo giáp tinh tấn, liền hay chứng đến Phật nhất thiết trí 15.

Bồ Tát Kiết Tường Sanh nói: Nếu có Bồ Tát ở trong nhiều kiếp, ưa muốn rõ biết Phật nhứt thiết trí, phải ở trong vô lượng kiếp mặc áo giáp tinh tấn, vì các chúng sanh, hạnh khổ khó làm, không tự cống cao 16. Vị ấy hay chứng đến Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Kiết Tường Tạng nói: Nếu các Bồ Tát khởi tâm lợi tha, không đắm trước vui của mình, không ưa thiền định, nhưng hay khắp vì tất cả làm lợi ích lớn cho tất cả chúng sanh, dùng vô lượng căn lành, hồi hướng cho tất cả chúng sanh. Ấy là hay chứng đến Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Tối Thượng Liên Hoa Kiết Tường nói: Như Phật đã dạy, nếu các Bồ Tát đối với tất cả pháp, không tự tha, không hiển không mật, khắp hay điều phục, không các khởi tác; ở trong tất cả hành, nhưng dứt năng hành. Ấy là Bồ Tát trụ pháp Xa Ma Tha17 tương ưng, tự năng hành rồi lại hay giáo tha. Đó là Bồ Tát liền hay chứng đến Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Liên Hoa Kiết Tường Sanh nói: nếu các Bồ Tát chấp trước pháp thế gian, tức không thể rõ biết Phật nhất thiết trí. Nếu đối với pháp thế gian, không bị đắm trước, không lợi, không suy, không hủy, không dự, không xưng, không cơ, không khổ, không lạc. Tức là đối với các pháp, không tăng không giảm. Ấy gọi là Bồ Tát xuất ly thế gian, liền hay chứng đến Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Trì Thế nói: Nếu các Bồ Tát dùng các thắng hạnh, lợi ích tất cả chúng sanh, nhưng đặng lợi mình, không phải do mình và người, rồi sinh ra phân biệt, nhưng đem căn lành hồi hướng tất cả, khởi lòng đại tinh tấn thường vì chúng sinh trồng các căn lành. Ấy gọi là Bồ Tát an ổn các thắng hạnh, liền chứng đến Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Địa Trì nói: Thí như trên đất liền hay sanh cây cối cùng các cỏ thuốc v.v…hoa trái tươi tốt đều hay thành tựu, cho đến muôn vật đều nhơn đất mà có ra, nhưng quả đất kia không bao giờ nghĩ; Ta sanh cỏ cây, rồi được thành tựu, đối với muôn vật, nương đất mà được an trụ, tất cả chúng sanh, y đại địa pháp giới mà được sinh trưởng, nhưng không bao giờ suy nghĩ ta hay sinh ra tất cả chúng sinh. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, khởi tâm bình đẳng cũng như quả đất liền, trường kỳ lợi lạc cho tất cả chúng sinh, nhưng không bao giờ nghĩ rằng, ta hay làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh, lìa được sự phân biết kia tức hay chứng đến Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Bửu Thủ nói; người mặc áo giáp tinh tấn, làm các hạnh thù thắng rộng lớn vô biên tự không thấy đầy đủ thiện căn rộng lớn để mà thi hành. Nếu các vị Bồ Tát trụ tâm bình đẳng, không có ý tưởng phân biệt, cho đến trong giấc chiêm bao, đối với các chúng sanh, không sanh tâm buồn giận hay vui mừng, luôn muốn cho các hữu tình mặc áo giáp đại thừa, chứng đến Phật trí bình đẳng, khong theo ý niệm Thanh Văn18 , Duyên Giác. Bồ Tát ấy liền hay chứng được Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Bửu Ấn Thủ nói: Đã có cõi chúng sanh mỗi mỗi khiến họ khởi tâm đại bi, khắp thí 19pháp ấn. Các chúng sanh ấy, những ai chưa tin khiến họ sanh lòng chánh tín, những người chưa nghe khiến họ nghe pháp thật nhiều, các kẻ xan tham khiến họ thật hành bố thí, những ai hủy phạm cấm giới, khiến họ trì gời kiến cố; những vị ưa giận tức,khiến họ thật hành nhẫn nhục, những người biến nhác, khiến họ khởi lòng tinh tiến, ai tâm bị tán loạn, khiến họ trụ thiền định, người nào quá ngu si, khiến họ tập đủ trí huệ, rồi khiến họ thường thật hành pháp lành, đều được tròn đầy thiện căn, thường làm theo ba thứ bửu ấn của Bồ Tát. Những gì là ba?

- Khiến chúng sinh tròn đầy trí Phật của họ, ai có căn lành đều nên hồi hướng cho tất cả chúng sanh. Ấy là bửu ấn20 thứ nhất.

- Các chỗ mình làm lành, đều có lợi ích, thành tựu căn lành cho tất cả chúng sinh. Ấy là bửu ấn thứ nhì.

- Quán thế giới loài hữu tình cũng như hư không, tự tánh thanh tịnh. Ấy là bửu ấn thứ ba.

Nếu Bồ Tát thường thật hành các việc trên, không có thôi dứt. Tức là hay chứng đến Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Sư Tử Ý nói: nếu Bồ Tát tinh tiến kiên cố, nhưng không sợ hãi, không thể phá hoại, tâm không biếng nhác, không tưởng sợ sệt, dũng mãnh không thoái chuyển, ở trong vòng luân hồi21 , chịu đựng kham khổ, không khiếp không sợ, nhưng thường xa lìa, chứng đến niết bàn; đối với các việc khổ vui, bình đẳng mà trụ, không có hai tướng. Được như thế đó là hạng Bồ Tát mặc áo giáp tinh tấn, liền hay chứng đến Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Sư Tử Vô Úy Âm nói: ví như kẻ sĩ trong thế gian có sức mạnh lớn, khuất phục mọi việc dễ dàng. Ấy gọi là chánh sĩ 22

Các chánh sĩ thường thi hành các phá, xa lìa các tội cấu không sanh tà kiến, siêng thật hành đại hạnh, tâm thường nhu nhuyến, không có tướng thô ác, xa lìa các sự tàn bạo. Ấy gọi là chánh sĩ.

Thường pháp ngôn hiền lành, gần gũi các thiện hữu, đem tâm quý trọng, tôn kính sư trưởng, thuận đi theo con đường chánh, không có trái nghịch. Ấy gọi là chánh sĩ.

Xa lìa các sự tham ái, thật hành chánh mạng23 , dùng nghiệp thanh tịnh, dẹp hết các lỗi lầm, dùng tâm trí huệ, đoạn hết tà kiến ngu si, đối với ba nghiệp của mỗi người an trụ tịch tĩnh, đối với kẻ khác không sanh tâm nhiễu loạn, không bàn luận các việc tốt xấu hay dở, không chê không khen. Ấy gọi là chánh sĩ.

Thương xót các người nghèo cùng, ra ơn bố thí, không nhớ tưởng oán thân, trong tâm chất trực, ngoài tướng nhu hòa, xa lìa các tà vạy, gìn giữ thật hành chơn chánh, dùng pháp vô thượng, an vui tâm hồn, tịch nhiên kiên cố, bình đẳng yên trụ. Ấy gọi là chánh sĩ.

Đối với chúng sinh có gặp chướng ngại vì họ mà phá diệt; đối với thân mạng tài sản, thường hay khắp thí, đối với pháp thắng nghĩa không sanh xan lẫn, thấy các chúng sinh, những ai không phước không huệ, vì họ diệt trừ các pháp bất thiện, rồi sau mới thí cho diệu pháp bảo tạng24 , chúng sinh nghèo khổ thường cho những đồ quý báu, chúng sinh đau ốm cho thuốc thang, chúng sanh sợ hãi, cho họ an vui, người không chỗ nương tựa, vì họ làm chủ tể, kẻ bị sa vào bánh xe luân hồi, vì họ cứu độ, người ở trong chỗ tối tăm vì họ làm yến sáng chiếu soi, ai ở trong tà đạo, chỉ con đường chánh cho họ, thường dùng pháp ngữ25 giáo dục tất cả, thấy lỗi lầm của họ không sanh giận tức. Ấy gọi là chánh sĩ.

Các Bồ Tát phải thật hành như thế, tức hay an trụ pháp tương ưng với Xa Ma Tha26 , rồi chứng đến Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Hư Không Tạng nói: Bồ Tát bình đẳng quán sát, nhìn chúng sanh với con mắt đại từ, cũng như hư không, không có ngằn mé, quán sát hành động với tâm đại bi, không lường không ngằn cũng lại như thế, thường sinh tâm hoan hỷ, giũ gìn các giác quan, xa lìa mọi sự nhiễm trước, đối với sáu pháp ba la mật27 thật hành không thất mỏi mệt, làm việc bố thí v.v…tâm như hư không, không bị ngăn ngại; trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, đều cũng như thế. Bồ Tát ấy liền hay chứng đến Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Bình Đẳng Tâm Chuyển Pháp Luân nói: Như có vị Bồ Tát nào hành đạo bồ đề, phải đối với sự vật không khởi chấp tướng và tâm phân biệt, chắc chắn không bị ma vương làm não hại, thường được sự hộ niệm của các Đức Phật, chư thiên, long thần, thường đến hộ vệ, tạo được căn lành, chân thật không mất. Nếu Bồ Tát đối với sự vật sanh tâm hữu tướng, khởi tưởng phân biệt, tức là cảnh giới ma, bị ma khuấy động, các Đức Phật khôn thể nhiếp thọ, chư thiên khó bề hộ vệ. Nếu vị nào kiên cố, không lay động, không trước tướng, không phân biệt. Bồ Tát ấy sẽ chuyển pháp luân28 vô thượng, khắp vì tất cả? vì sao? Vì Bồ Tát rõ tánh của sự vật không phát khởi, không tạo tác. Bồ Tát tuy khởi các tâm, nhưng không chấp trước, đem tâm vô tướng để chứng quả Phật Bồ Đề, cho đến chuyển diệu pháp luân, cũng lại như thế. Ấy được gọi là Đại Bồ Tát mặc áo giáp tinh tấn, hay chứng đến Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Liễu Biệt Nhứt Thiết Cú Nghĩa Đại Biện nói: Các chánh sĩ nên biết, tất cả chỗ là Bồ Đề, phiền não là bồ đề, các chỗ làm là bồ đề, pháp hữu vi là bồ đề, pháp hữu lậu là bồ đề, pháp vô lậu là bồ đề, tâm có chấp trước là bồ đề, tâm không chấp trước là bồ đề, căn lành là bồ đề, căn không lành là bồ đề, pháp thế gian là bồ đề, pháp xuất thế gian là bồ đề, pháp luân hồi là bồ đề, cảnh niết bàn là bồ đề, hư không là bồ đề, chơn thật là bồ đề, uẩn, xứ, giới29 là bồ đề, địa, thủy, hỏa, phong, không, là bồ đề, Đại Bồ Tát rõ tất cả pháp tự tánh đều không, các cõi tạo tác đều không tạo tánh, đối với tất cả nghĩa lý như thật rõ biết. Ví như hư không, khắp tất cả chỗ; pháp bồ đề cũng lại như thế, khắp tất cả chỗ. Nếu Bồ Tát hiểu rõ các pháp, phải đủ biện tài, rồi đặng chánh trí, phân biệt cú nghĩa, liền hay chứng đến Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Biện Tích nói: Nếu Bồ Tát có trí tuệ giải thoát, ra làm việc đều không chấp tướng, vì tâm không chấp tướng, nên không tăng giảm, không động, không lay, đối với tất cả ngôn ngữ như lý mà hiểu, chê bai khen ngợi cũng không chuyển động. Gặp được tất cả ngôn ngữ ngoại đạo, tất cả ngôn ngữ Như Lai, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc ẩn, hoặc hiển, đều xem bình đẳng, không có sai khác, biết rõ tất cả sự vật đều về nơi tịch diệt30 , tâm không bao giờ trụ trước, an nhiên không động, như núi Diệu Cao31 , không có tướng động chuyển. Bồ Tát đầy đủ trí tuệ giải thoát, trở về tâm tịch diệt. Tức là chứng được Phật nhứt thiết trí.

Bồ Tát Hải Ý nói: Bồ Tát có trí tuệ như biển lớn, muôn pháp đều về một vị bình đẳng. Bồ Tát đa văn tổng trì đặc tính của sự vật, một mùi vị không sai khác, biết rõ các pháp vôn là chơn tự tánh, đều là vô sở hữu32 ; do nhân duyên sanh ra sự vật, tức là nghĩa chân thật, nơi chốn sinh ra các căn lành, rõ biết các pháp là như vậy, không tăng không giảm, bản tính xưa nay, phước lợi không cùng, rốt ráo vắng lặng, không đoạn không thường, tự biết như thật. Lại nữa, đối với chúng sanh khởi tâm vô lượng, không quên không mất, thường sanh tâm tôn trọng, vì họ giảng nói rõ ràng, bình đẳng chỉ bày pháp bất cọng, rộng vì các chúng sanh, gieo trồng căn lành. Bồ Tát ấy, thường mặc áo giáp tinh tấn, chắc chắn chứng được Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Diệu Cao Vương nói: Các chánh sĩ phải biết: "Phật nhứt thiết trí", chưa dễ gì biết rõ, khó mà độ lượng trong phần thủ chứng. Vì sao thế? Nếu các Bồ Tát vượt qua tất cả tâm hạnh của chúng sanh trong thế gian, vượt qua tất cả kiến văn chúng sanh trong thế gian, cho đến tin, ưa, hiểu, biết, đều hay vượt qua chúng sinh trong thế gian, triết để thật hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Phước đức gom góp cao hơn núi Tu Di. Bồ Tát ấy liền chứng đến Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Ái Kiến nói: Đại Bồ Tát đối với cảnh sáu trần, quán không chỗ quán, cho đến duyên không chỗ duyên, vì sao? Vì hoặc sắc hoặc tâm bản tánh thanh tịnh, vì sắc thanh tịnh, mắt không chỗ xem, vì tiếng thanh tịnh, tai không chỗ nghe, vì hương thanh tịnh, mũi không chỗ ngửi, vì mùi thanh tịnh, lưỡi không chỗ rõ, vì xúc thanh tịnh, thân không chỗ biết, vì pháp thanh tịnh, ý không chỗ duyên, sở dĩ vì sao? Vì các căn thanh tịnh tự tánh vốn không, không tự, không tha, không ai, không nhàm, tự tánh bình đẳng, quán sát chúng sanh, không có cao thấp, đều là bình đẳng. Đối với giáo pháp của chư Phật, khởi tâm quyết định, không sanh nghi hoặc, ưa giáo pháp không nhàm chán, đặng rồi liền bố thí33 , thí không hối tiếc dần dần hay viên mãn tất cả Phật pháp. Đại Bồ Tát ấy, hành được như vậy đó, liền chứng được Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Hỷ Vương nói: Đại Bồ Tát an trụ tâm bố thí nhẫn nhục; nếu có ai hủy bán, mạ nhục, trách móc, đả đảo, trong lúc ấy, Bồ Tát không sanh tâm giận tức, mà còn hoan hỷ thương xót, đối với các chúng sanh, thường kết bạn lành, không có tướng mình và người, không có người năng hủy mà cũng không có kẻ sở hủy, các sự vật đều không, trong không, ngoài không, tướng người, tướng ta đều là trống không, do đó thường sinh tâm vui mừng, ra làm việc bố thí. Dù có ai muốn sinh đầu, mắt, tay, chân, vợ con, quyến thuộc, cho đến thân mạng, không sẻn không tiếc, vui mừng bố thí. Bồ Tát ưa tìm cầu giáo pháp nhiệm mầu, nếu nghe một bài kệ bốn câu, dù có mất ngôi vị chuyển luân vương34 cũng không luyến tiếc; nếu được một chúng sinh nào, phát tâm bồ đề, dù có được ngôi vị Đế Thích35 cũng không có gì ưa thích. Nếu tạm nghe những giáo pháp ít có, dù có được ngôi vị Phạm Thiên36 cũng không ưa mến. Nếu đặng thấy các đức Như Lai, dù cho có của báu chứa đầy trong 3.000 đại thiên thế giới cũng xem như ngói đá. Ưa thấy các Đức Phật vui mừng tràn ngập, đầy đủ các giác quan, thành tựu được pháp phần bồ đề, liền hay chứng được Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Vô Biên Thị nói: Đại Bồ Tát không có tướng ngã kiến37, quán sát tất cả sự vật đều là thanh tịnh, không sanh nghi lầm, liền hay được thấy tất cả các Đức Phật, nhìn các sắc không có tham trước, không vọng tưởng theo sắc, nhìn các chúng sanh, không cố chấp theo chúng sanh, cho đến quán sát tất cả sắc tượng trong thế gian cũng như thế. Nhục nhãn đã thấy tất cả cõi Phật đều là thanh tịnh, vì nghiệp báo38 thanh tịnh, liền đặng đầy đủ thiên nhãn39, đủ đại thần thông rồi được đầy đủ huệ nhãn, tròn đầy Phật pháp bất cộng40 liền được đầy đủ pháp nhãn, đoạn hết phiền não liền đặng đầy đủ Phật nhãn. Bồ Tát ấy sẽ đặng đầy đủ thập lực41, liền chứng đặng Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Vô Biên Tác Hạnh nói: Tất cả chỗ làm của chư Phật đều là bồ đề, vì sao? Bồ đề thường sanh ra tất cả trí tuệ, không nội tưởng, không ngoại tưởng cũng không trung gian. Thế nên Bồ Tát đối với tất cả sự vật không bao giờ chấp trước, bao nhiêu phiền não giới dứt hết không còn, không có việc ma, vượt ngoài cảnh giới của ma. Bồ Tát ấy liền chứng được Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Phá Chư Ma nói: Nếu Bồ Tát không khởi ngã kiến, liền xa lìa các cô chấp, các cố chấp không sanh, lánh được nghiệp ma, liền hay rõ ngộ các uẩn42, các uẩn đều không ngã tướng hằng diệt, ngã tướng diệt rồi, ma không làm hại, ma nghiệp đã diệt, giải thoát các chướng ngại, xa lìa các chướng ngại, liền đặng bồ đề. Ấy gọi là chứng đến Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Vô Ưu Thọ nói: Nếu người nào tạo nghiệp bất thiện, thường sanh lo sợ, ăn năn tự trách. Nếu người tạo các nghiệp thiện, không có lo sợ. Thế nên Bồ Tát thường thật hành pháp lành, không có gián đoạn, hiên tiền liên tiếp, tức không bị lo tổn thương tên độc phiền não, liền mặc áo giáp tinh tiến, chứng đến Phật nhất thiết trí.

Bồ Tát Nhất Thế Nghĩa Thành nói: Nếu các thiện nam, giới pháp đầy đủ, hạnh nguyện đầy đủ, liền hay an trụ giới pháp căn bản. Vì như hương thơm, khắp xông tất cả, nhưng hay lìa các lồi lầm, xa lìa các việc ác mới được giác ngộ hoàn toàn, khi giác ngộ rồi mới hoàn thành nhứt thiết trí. Do đó phải biết giới pháp đầy đủ là gốc, phần bồ đề mới được thành tựu. Bồ Tát rõ biết như thế, tức là chứng đến Phật nhất thiết trí.

Như thế đó các Bồ Tát mỗi ngài nói pháp rồi, trong pháp hội có vị Thiên Tử Đâu Suất, tên là Phổ Khai Hoa, nói lên lời nầy: Các Bồ Tát! Vì như trong thế gian có loại cây Diệu Hoa, cây đẹp hoa nở tròn đầy, sắc hương sung mãn nhiều người ưa thích. Các vị Bồ Tát cũng lại như vậy, nếu các pháp mầu giải thoát, như hoa nở tròn đầy, trang nghiêm. Tất cả Đại Bồ Tát rất là ưa thích.

Lại cũng như những cây hoa trong vường ở cung trời Đao Lợi43, cao lớn trang nghiêm, hoa nở tròn trịa, được các vị trời ưa thích. Đại Bồ Tát, nếu đủ các pháp giải thoát, hoa giác ngộ nở trang nghiêm. Tất cả Bồ Tát và các nhơn thiên rất là ưa thích. Cũng như viên ngọc ma ni tối thượng vĩ đại, trong sạch không có tỳ vết, đủ đức như ý; Đại Bồ Tát trong tâm thanh tịnh, không có các cấu nhiễm, đầy đủ công đức thắng pháp. Như thế tức là chứng được Phật nhất thiết trí.

Thiên Tử Quang Minh Khai Hoa nói: Các Bồ Tát như mặt trời chiếu yến sáng, phá các chỗ tỗi tăm, tất cả sắc tướng được hiển bày. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, đủ trí huệ sáng suốt, châm vào đuốc diệu pháp, soi khắp chúng sanh, diệt trừ các si ám. Khi si ám đã diệt thì không bị ngu mê che lấp; thường đi theo con đường sáng. Thế nên, Bồ Tát chỉ dẫn cho những chúng sinh nào đi sai đường, quay về con đường chánh. Tức là chứng đến Phật nhất thiết trí.

Thiên Tử Mạn Đà La Hoa Hương nói: Các Bồ Tát! Mùi thơm vi diệu của hoa Mạn Đà La44 nghe xa hằng trăm do tuần. Đại Bồ Tát đầy đủ giới, định, huệ cũng lại như thế; Thơm giới, thơm định và thơm huệ45. Nghe khắp tất cả trong thế gian. Nếu các chúng sanh nghe mùi thơm ấy, tất cả phiền não thảy đều tiêu trừ. Đại Bồ Tát ấy, đầy đủ thắng pháp công đức như thế, liền chứng được Phật nhứt thiết trí.

Thiên Tử Tinh Tấn Pháp Hành nói: Nếu các Bồ Tát tạm thời thoái chí, tức không thể tiến tu thắng hạnh, khó đặng quả Phật Bồ Đề. Nếu tâm tinh tiến, không tính kiếp số, trường kỳ dõng mãnh, trồng các căn lành, tâm không bao giờ nhàm chán, thường thật hành tám pháp trợ đạo. Những gì là tám? Một là: khuyên làm hạnh thù thắng, tương ưng các sự vật. Hai là: thường thật hành bốn hạnh vô lượng, theo pháp từ, bi, hỷ, xả. Ba là: thật hành năm46 loại thần thông, theo pháp trí huệ. Bốn là: thường hành phương pháp tứ nhiếp; ấy là các pháp: bố thí, ái ngữ, lợi hạnh và đồng sự. Năm là: đối với ba47 môn giải thoát, kiên nhẫn thật hành đầy đủ. Sáu là: rộng vì người khá, tuyên nói pháp nhiệm mầu. Bảy là: phát khởi tâm vô thượng Đại Bồ Đề. Tám là: khôn khéo phương tiện, hồi hướng48 tất cả, nhiếp trì chánh pháp. Bồ Tát thật hành tám pháp nầy, tức hay chứng đến Phật nhứt thiết trí.

Lúc bấy giờ Đại Bồ Tát Diệu Kiết Tường bảo các Bồ Tát và chư Thiên Tử rằng: Các Đại Bồ Tát, đối với các pháp, phải xa lìa những sự phân biệt, liền chứng Phật trí. Thế nào là lìa những sự phân biệt? Nghĩa là không phân biệt ba cõi49, không phân biệt các kiến chấp, không phân biệt là trong, là ngoài, không phân biệt là quả vị Thanh Văn, quả vị Duyên Giác, là địa vị ngu dị sanh50, cũng không phân biệt là luân hồi, là phiền não, là năng quán, là sở quán, là nhơn, là quả, là cảnh giới hay phi cảnh giới, là tăng, là giảm, là ngã kiến, là ngã sở kiến, là xan tham, là bố thí, là phá giới, là trì giới, là giận tức, là nhẫn nhục, là giải đãi, là tinh tiến, là tán loạn, là thiền định, là ngu si hay trí huệ; cũng không phân biệt là căn lành hay sanh các pháp lành, là căn không tốt hay sinh các pháp không tốt, không phân biệt là pháp thế gian, là pháp xuất thế gian, trụ pháp bình đẳng, không phân biệt là hữu vi, là vô vi, không phân biệt là tâm có chấp trước, là tâm không chấp trước, không phân biệt là hữu lậu, là vô lậu. Các Bồ Tát phải biết: Các pháp nói trên không nên phân biệt, trụ tâm bình đẳng tương ưng, tức hay chứng đến Phật nhứt thiết trí.

Lại nữa, các Đại Bồ Tát: Các Đức Phật nghĩ có chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng không thể được. Vì sao? Vì không phải do tâm 'sở duyên", cũng chẳng phải do trí "sở trí", duy có Phật tánh51 trực ngộ, cùng với Phật bình đẳng, nhứt thiết trí cũng bình đẳng, đối với 'nhứt thiết trí', quán 'vô sở hữu', vì 'vô sở hữu' , nên đối với nhứt thiết trí, không chỗ chấp trước, chẳng phải sắc thủ, thụ, tưởng, hành, thức đều không thể thủ (chấp trước). Ấy mới gọi là nhứt thiết trí. Không có pháp tướng52, nhưng đều đủ 'pháp tướng'. Ấy gọi là 'nhứt thiết trí'; không thể chứng bố thí ba la mật, không thể chứng trì giới ba la mật, không thể chứng nhẫn nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật không thể chứng, thiền ba la mật không thể chứng, bát nhã ba la mật cũng không thể chúng. Sở dĩ vì sao? Vì các pháp 'vô sở đắc'. Thế nên nhất thiết trí cũng 'vô sở đắc'.

Lại nữa, các vị Bồ Tát! Nhất thiết trí không phải ba đời có thể đặng, đời đã qua không thể đặng, đời hiện tại không thể đặng, đời chưa đến cũng không thể đặng, vì không trụ trước trong ba đời. Không nhãn thức 'sở quán', mà cũng không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý 'sở quán'. Vì cớ sao? Vì lìa các cảnh giới. Các vị Đại Bồ Tát thành tựu nhứt thiết trí, phải như thế mà trụ. Lý do vì sao? Vì tất cả pháp cũng như thế mà trụ. Các pháp bình đẳng, nhứt thiết trí cũng bình đẳng, cho đến pháp của chư Phật cùng pháp của phàm phu đều là bình đẳng. Như vậy, tất cả pháp bình đẳng. Thế nên gọi là 'nhứt thiết trí'. Đại Bồ Tát! Phải như thế mà trụ, nên học đúng như vậy. Vì như bốn đại53 tự tánh đều không, nghĩ rằng vốn tự có tánh cũng không thể được. Vì sao? Bởi vì tự tánh vốn không; trong thế gian các pháp thiện và bất thiện, tự tánh không cũng không thể được. Vì sao? Vì không phân biệt. Phân biệt đã không, ấy là nghĩa chân thật.

Lúc ấy Bồ Tát Diệu Kiết Tường nói pháp ấy xong trong pháp hội có hai nghìn thiên tử, chứng đặng vô sanh54 pháp nhẫn; một muôn hai nghìn thiên tử khác phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.
---o0o---


Каталог: downloads -> giang-kinh -> kinh-kim-cang
giang-kinh -> GIỚi thiệu kinh trung a hàM Điền Quang Liệt Định Huệ Dịch Nguồn
giang-kinh -> Kinh tứ thập nhị chưƠng tt. Thích Viên Giác Dịch
giang-kinh -> Kinh đẠi phậT ĐẢnh như lai mật nhơn tu chứng liễu nghĩA
giang-kinh -> Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương Sớ Sao
giang-kinh -> PHẬt thuyết a di đÀ kinh yếu giải giảng ký 佛說阿彌陀經 要解講記
giang-kinh -> ÐẠo phật ngày nay một diễn dịch mới về ba bộ kinh pháp hoa
giang-kinh -> VỊ trí thánh ðIỂn hoa văn trên phật giáo thế giớI
giang-kinh -> Bàn Về Bốn Bộ a-hàm Lương Khải Siêu
giang-kinh -> Sự Thành Lập Kinh Điển Phật Giáo Daisaku Ikeda (The First Mileage of Buddhism) Nguyên Hảo dịch Nguồn

tải về 1.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   ...   30




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương