12
vùng trũng có lượng xuất khẩu nhỏ. Một số vật chất hữu cơ hoà tan có thể xuất
ra theo
dòng nước ngầm đồng thời các sinh vật sống kiếm ăn ở đầm và chuyển năng lượng đi
nơi khác. Ngược lại, các đầm ven hồ và ven sông có thể xuất khẩu một lượng vật chất
hữu cơ đáng kể trong thời kỳ ngập lũ.
d. Dòng năng lượng
Năng lượng hữu cơ ròng được các thực vật bán ngập tạo ra từ 1.600 đến 16.000
kcal/m
2
/năm. Phần lớn sản lượng ròng này bị tiêu hao trong quá trình hô hấp của sinh
vật tiêu thụ. Một nghiên cứu từ rất sớm của Craigg (1961) giả thuyết rằng hô hấp của
sinh vật trong bãi than bùn ở đồng cỏ
Juncus là khoảng 1.760kcal/m
2
/năm.
Trong lớp lắng cặn, các động vật không xương sống - đặc biệt là các động vật không
xương sống hiển vi, đóng một vai trò quan trọng trong dòng năng lượng hữu cơ qua hệ
sinh thái.
Pelikan (1978) đã tính được dòng năng lượng qua các động vật có vú ở một hệ sinh
thái đầm lầy lau lách. Năng lượng tiêu thụ tổng là 235 kcal/m
2
/năm - chủ yếu bởi các
động vật ăn cỏ. Côn trùng tiêu thụ 10 và động vật ăn thịt là 1 kcal/m
2
/năm. Lượng này
chiếm khoảng 0,55% sản lượng của thực vật trên mặt đất và 0,18% sản lượng của
thực vật dưới mặt đất. Phần lớn năng lượng đã được đồng hoá là dùng cho hô hấp.
Nếu coi sản lượng là bằng 5% mức tiêu thụ tổng số, dòng năng lượng hữu cơ tổng số
qua chim có thể là khoảng 20 kcal/m
2
, hay động vật có vú đóng góp vào 10% sản
lượng thô.
Tóm lại, dòng năng lượng qua côn trùng, động vật có vú và chim được đánh giá là ít
hơn 10% sản lượng sơ cấp của lưới dinh dưỡng. Phần lớn năng lượng còn lại của các
sản phẩm hữu cơ phải được tiêu thụ do hô hấp của vi sinh vật, một phần được tích trữ
dưới dạng than bùn, bị khử thành metan, và xuất khẩu vào các thuỷ vực gần kề.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: