THƯ VIỆN LƯU TRỮ MEP
Những tài liệu thu thập và ghi chép, ấn hành từ khi được thành lập vào năm 1658 được Hội Thừa Sai Balê (MEP) lưu trữ một cách bài bản và rất khoa học. Đây chính là nguồn dữ liệu quý giá để nghiên cứu, tham khảo hoặc đơn giản là để hiểu biết thêm về văn hóa, lịch sử, chính trị của những khu vực từng được các vị thừa sai của MEP truyền giảng Lời Chúa.
Maria Gioanna Nguyễn Ngọc Lan Chi
SƠ LƯỢC VỀ MEP
Hội Thừa Sai Balê (la Société des Missions Étrangères de Balê - MEP) ra đời vào thế kỷ thứ XVII với 2 sứ vụ quan trọng: tạo điều kiện cho các giáo sĩ Pháp tham gia vào việc loan báo Tin Mừng ở những vùng đất xa xôi; Tòa Thánh muốn điều phối lại hoạt động truyền giáo, vốn được giao cho vua Bồ Đào Nha và vua Tây Ban Nha trong các cuộc hải trình lớn vào thế kỷ XV. Lòng nhiệt thành của các vị thừa sai đã được thổi bùng lên sau khi linh mục dòng Tên Alexandre de Rhodes về Roma vào năm 1649 và đề nghị gửi các giám mục đến Bắc Bộ (Tonkin) và Nam Bộ (Cochinchine) để giúp các vùng này dần có được giáo sĩ bản xứ - điều kiện quan trọng để duy trì một cộng đồng Kitô hữu địa phương.
Năm 1653, Cha Alexandre de Rhodes mang thông điệp trên đến Pháp. Các lập luận của cha đưa ra về tầm quan trọng của việc gửi giám mục sang châu Á đã thuyết phục được các giáo sĩ nước này.
Năm 1658, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII bổ nhiệm 4 đại diện tông tòa - là các giám mục trực thuộc giáo hoàng. Ngoài Đức Cha François de Laval Montmorency được gửi đến Canada (sau này ngài là Giám Mục tiên khởi của Québec), 3 vị còn lại đến châu Á: Đức Cha François Pallu phụ trách Bắc Bộ (Tokin); Đức Cha Pierre Lambert de la Motte phụ trách Nam Bộ (Cochinchine); Đức Cha Ignace Cotolendi phụ trách nhiều tỉnh phía nam Trung Quốc. MEP chính thức được thành lập. Các vị lên đường cùng một số cộng sự trong giai đoạn từ năm 1660-1661.
Trong lúc hoạt động tại châu Á, các đại diện tông tòa vẫn tiếp tục suy nghĩ về việc tuyển mộ cho MEP. Năm 1663, các vị được Vua Louis XIV của Pháp ra ngự chỉ chính thức cho phép mở một chủng viện ở đường Bac (rue du Bac), Balê để đào tạo các thừa sai.
Sau hơn 350 năm, MEP đã đóng góp cho sứ vụ loan báo Lời Chúa tại nhiều quốc gia Viễn Đông: Việt Nam, Ấn Độ, Campuchia, Hàn Quốc, Myanmar, Nhật Bản, Malaysia, Lào, Singapore, Thái Lan. Trung Quốc. Tính đến nay, Hội Thừa Sai Balê đã gửi hơn 4.500 thừa sai và hiện vẫn tiếp tục gửi các linh mục hoạt động suốt đời tại nhiều khu vực của châu Á và Ấn Độ Dương.
VIỆC LƯU TRỮ TẠI MEP
Lịch sử
Sau cách mạng Pháp và dưới thời Hoàng Đế Napoléon, một phần trong thư viện lưu trữ của MEP đã bị chính phủ tịch thu, chủ yếu là những tài liệu liên quan đến tài sản và các giao dịch tài chính. Đến giữa thế kỷ XIX, các tài liệu, sách vở của MEP mới bắt đầu được phân loại một cách hệ thống. Năm 1867, cha Jean Rousseille, cựu Giám Đốc chủng viện của Hội Thừa Sai Balê được bổ nhiệm làm người phụ trách thư viện lưu trữ. Dưới sự quản lý của cha, nhiều tài liệu, ấn bản, cổ thư đã được đóng bộ.
Năm 1882, Cha Adrien Launay thay thế Cha Rousseille quản lý việc lưu trữ tại MEP. Cha được giao nhiệm vụ thực hiện các bảng phân tích và sắp xếp các bộ tài liệu theo thứ tự chữ cái. Sau cha Launay, nhiều vị linh mục được bổ nhiệm quản lý thư viện lưu trữ của MEP và tiếp tục thu thập thêm thông tin, tài liệu về sứ vụ truyền giáo của Hội Thừa Sai Balê.
Nhiệm vụ
Mục đích của việc lưu trữ là thu thập, phân loại, bảo tồn, quảng bá và làm tăng giá trị cho các tài liệu của MEP.
Quá trình thu thập
Để bảo tồn di sản của MEP và chia sẻ di sản này với cộng đồng, một trong những nhiệm vụ chính yếu là thu thập và tìm kiếm tài liệu do các vị thừa sai viết, soạn thảo hoặc sưu tầm. Ban lưu trữ đã thu thập tài liệu tại Balê và ở mọi quốc gia mà MEP đã và đang truyền giáo. Nhờ đó, các bản viết tay, tài liệu truyền miệng, tranh ảnh, ấn phẩm đã được giữ gìn cho thế hệ tương lai. Ngoài ra, nguồn lưu trữ còn được phong phú nhờ sự hiến tặng của các cá nhân, công ty, hội đoàn…
Phân loại
Để việc tra cứu được thuận lợi, các thành viên ban lưu trữ đã lựa chọn và sắp xếp chi tiết từ “kho tàng tài liệu” chung của MEP. Việc này đòi hỏi họ phải thật am tường về mọi mặt của Hội Thừa Sai Balê và làm việc một cách kiên nhẫn, tỉ mỉ. Việc phân loại hoàn tất khi có được bản kiểm kê và công cụ tìm kiếm cho mọi tài liệu trong thư viện lưu trữ.
Bảo tồn
Các bản đồ và tài liệu viết tay của MEP được bảo quản trong khu nhà số 28 đường Babylone. Tranh ảnh được giữ gìn trong trụ sở chính ở số 128 đường Bac.
Với những công nghệ hiện đại, việc bảo tồn còn mở rộng sang số hóa và phục hồi các tài liệu. Ban lưu trữ đang đưa các nguồn tài liệu được lưu trữ theo kiểu truyền thống sang các hình thức lưu trữ của thời kỹ thuật số.
Các nhà nghiên cứu được tiếp cận bản gốc trong thư viện lưu trữ của MEP cũng có nhiệm vụ cẩn trọng khi thao tác để tránh gây tổn hại cho các tài liệu quý giá.
Chia sẻ, truyền bá
Thư viện lưu trữ của MEP dành cho tất cả mọi người. Việc chia sẻ các tài liệu không đòi hỏi chi phí nào. MEP mong muốn công chúng có thể biết thêm về lịch sử, di sản của hội thông qua các ấn phẩm, trang web, triển lãm, tham quan…
Tư vấn
Ban lưu trữ của MEP sẵn sàng trả lời và tư vấn về công tác lưu trữ quanh các chủ đề:
- Việc lưu trữ là gì?
Cần phải lưu trữ những gì?
Làm thế nào để sắp xếp các tài liệu lưu trữ?
Có nên giữ lại tất cả không?
THƯ VIỆN CỦA MEP LƯU TRỮ NHỮNG GÌ?
Bản viết tay
Các bản viết tay của MEP hiện được sắp xếp theo cách thức sau
Phần đầu tiên gồm 1.303 bộ (từ năm 1660 đến năm 1940), gồm thư của các thừa sai được sắp xếp theo sứ vụ hoặc chủ đề (ví dụ: chủng viện, du khảo, Roma…) và theo thời gian. Hầu hết đều được ghi chú trong bản phân tích của cha Launay về nội dung chính của các thư trong từng bộ.
Phần hai gồm các thư chưa được đóng bộ, được phân loại theo thứ tự chữ cái tên của người viết và sứ vụ tham gia.
Nội dung
Các bản viết tay chính là các chứng từ về lịch sử của MEP và có nội dung gồm:
Tài liệu lịch sử. Sắc lệnh của Roma; thỉnh nguyện thư về việc gửi giám mục đến vùng Viễn Đông; văn kiện hoàng gia; tu luật của chủng viện và nội quy của MEP…
Báo cáo của các đại diện tông tòa. Các bản này được gửi cho bề trên ở Balê hoặc cho vị quản thủ ở Macao, tường thuật các vấn đề: đời sống Kitô hữu bản xứ; kết quả các sứ vụ; những vấn đề cần giải quyết; các khó khăn; tình hình ngân quỹ...
Trao đổi thư từ giữa các giám mục với Tòa Thánh. Được viết bằng tiếng Latinh, các thư này mô tả hoạt động tông đồ ở từng địa phận. Các vị giám mục thường đề nghị Thánh bộ Truyền bá Đức Tin trả lời những vấn đề về giáo lý và giáo luật. Các khác biệt về phong tục, tập quán thường được nhắc đến.
- Thư của các thừa sai: Thường được viết cho gia đình hoặc cho bề trên tại Balê. Trong những thư này, các vị thừa sai nói về cuộc sống, công việc, vấn đề tài chính và cũng rất thường mô tả về đất nước mà họ đang truyền giáo: các sự kiện; dân chúng; thói quen, truyền thống; ngôn ngữ… Một số cha kể là đang tìm hiểu về ngữ pháp của tiếng địa phương hoặc đang biên soạn tự điển.
Tranh ảnh
Nguồn tranh ảnh trong thư viện của MEP rất phong phú với số lượng lớn các mẫu vật (hơn 160.000), đa dạng về hình thức, chủng loại và được bảo tồn tốt.
Phần lớn số này là ảnh chụp, trong đó, những bức lâu đời nhất có từ thập niên 1950. Ngoài ra, còn có: bưu thiếp, tranh vẽ, áp phích, tấm kính, con dấu, tranh khắc, phim dương, âm bản, phim tài liệu…
Ví dụ: Phim và máy quay của cha Simonnet (1912- 2002), thừa sai tại Việt Nam. Cha đảm trách ghi âm tài liệu, thực hiện các phóng sự ảnh và làm phim tài liệu cho ban thông tin của MEP.
Ấn phẩm
Thư viện lưu trữ của MEP đang gìn giữ tất cả ấn phẩm của hội, bao gồm những tác phẩm của các vị thừa sai và tiểu sử của họ. Các ấn phẩm này có thể xem tại thư viện hoặc xem bản điện tử trên website của Hội Thừa Sai Balê.
Sau đây là danh sách các ấn phẩm:
Comptes rendus + Lettres Communes (CR): 1871-1976
Oeuvre des Partants (ODP): 1885-1897
Annales des Missions Étrangères (AME): 1898-1940
Echos missionnaires d'Extrême Orient (ECO): 1941
Echos missionnaires (ECM): 1941-1947
Missionnaires d'Asie (MDA): 1948-1960
Missions Étrangères (ME1): 1961-1967
Echos de la rue du Bac (EC): 1967-1992
Missions Étrangères de Balê (ME2): 1993-2009
Bulletin des Missions Étrangères (BME): 1922-1941; 1948-1961
Epiphanie (EPI): 1962-1971
Bản đồ
Hiện MEP đang lưu trữ 144 bản đồ viết/vẽ tay và
bản đồ được in; tất cả được thực hiện từ thế kỷ XIX đến thế kỷ XX.
Những tài liệu này rất quý và dễ hư hỏng nên muốn tra cứu bản gốc phải đăng ký trước, nêu rõ lý do và số lượng được cho phép khá hạn chế.
Ví dụ: Bản đồ truyền giáo tại Đông Dương do cha Lesserteur (MEP) thực hiện, nhà in Becquet in tại Balê năm 1879, khổ 42x79 cm [K VIE 67].
Tiền xu
MEP có một bộ sưu tập rất giá trị gồm khoảng 7.000 đồng tiền xu. Phần lớn thuộc về bộ sưu tập cá nhân của cha Maximilien và cha Henri Arnoulx de Pirey, thừa sai tại Việt Nam vào đầu thế kỷ XX.
Thánh tích
Phòng tưởng nhớ các vị tử đạo tại trụ sở MEP mở cửa cho công chúng tham quan từ thứ ba đến thứ bảy hằng tuần. Nơi này lưu giữ nhiều hiện vật và thánh tích của các vị thừa sai tử đạo.
Ví dụ: Gông của thánh Pierre Borie (1808-1838, thừa sai tại Việt Nam). Vật dụng của thánh Jean-Louis Bonnard (1824-1852, thừa sai tại Việt Nam), gồm đũa, ấm trà, đồng hồ.
“Mỏ vàng” của các nhà nghiên cứu
Thư viện lưu trữ và nhà trưng bày hiện vật của Hội Thừa Sai Balê luôn được giới chuyên gia xem là nguồn tham khảo quan trọng cho các công trình nghiên cứu. Mạng lưới tài liệu chuyên về châu Á DocAsie của Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học Quốc Gia Pháp (CNRS) và Musée des Confluences (Bảo Tàng Về Lịch Sử Tự Nhiên, Nhân Loại Học, Xã Hội Và Các Nền Văn Minh Tại Thành Phố Lyon) đều nhắc đến các tài liệu của MEP khi đề cập về châu Á hoặc về lịch sử truyền bá Đức Tin.
Tác giả Hughes Tertrais, giảng viên Đại học Balê 1 (Panthéon Sorbonne) từng có một bài phân tích rất chi tiết về tầm quan trọng của thư viện lưu trữ MEP. Xin lược dịch một số đoạn chính:
“Kể từ khi được thành lập vào thế kỷ XVII, MEP đã đào tạo và gửi hơn 4.500 giáo sĩ ra nước ngoài, chủ yếu là đến châu Á. Quá trình này đã để lại nhiều dấu ấn: các cộng đồng Công Giáo; các công trình về ngôn ngữ học liên quan đến vài chục thứ tiếng, bao gồm nhiều bộ tự điển; và một lượng lớn tài liệu lưu trữ.
(…) Các vị thừa sai truyền giáo tại nhiều vùng nghèo hoặc xa xôi, hẻo lánh, nơi sinh sống của các cộng đồng thiểu số. Vì lý do này mà chỉ riêng Giáo Phận Kontum đã chiếm 1/3 số tài liệu lưu trữ về Việt Nam của MEP.
(…) Việc phân loại tài liệu của MEP được cải thiện và kể từ thế kỷ XIX thì ngày càng được hệ thống hóa. Nhiều tác phẩm đồ sộ của các vị thừa sai được xuất bản, chẳng hạn bộ 5 cuốn Lịch sử truyền giáo tại Ấn Độ (Histoire des Missions de l’Inde) của cha Adrien Launay hoặc các tác phẩm như Truyền Giáo Tại Nam Bộ (Mission de Cochinchine)… Đến thập niên 1950, cha Hubert Monjean, người quản lý việc lưu trữ của MEP đã áp dụng phương pháp phân loại mới bằng cách kiểm kê 80.000 trang tài liệu viết tay vào xếp thành 400 tập. Từ năm 1993, cha Gérard Moussay tiếp quản thư viện lưu trữ MEP. Với kinh nghiệm 18 năm truyền giáo ở Việt Nam và cũng xấp xỉ 2 thập niên ở Indonesia, cha bắt tay vào hiện đại hóa trung tâm lưu trữ: số hóa các tài liệu, thực hiện cơ sở dữ liệu cho các thành viên và mở website.
(…) Hình thức của các bản báo cáo khá đồng bộ và cho thấy các vị thừa sai rất chi tiết trong những con số. Mỗi vị giám mục thường mở đầu báo cáo bằng phần thống kê, được chia thành 3 hạng mục: tổng số tín hữu; số lượng người trưởng thành được rửa tội; số lượng trẻ nhỏ được rửa tội.
Những văn bản nói trên của các giám mục cung cấp một ngàn lẻ một thông tin hữu ích: mức độ cộng đồng sở tại chấp nhận những “người ngoại quốc” (tức các vị thừa sai); cuộc sống và hoạt động của các vị; tình hình trị an; quan hệ chính trị… Các sử gia về quan hệ quốc tế có thể tìm thấy trong tài liệu của MEP nhiều chi tiết về những sự kiện nổi bật qua từng thời kỳ.
(…) Tómt lại, xét về mặt thông tin, tư liệu, thư viện lưu trữ của MEP thật sự là một cái “mỏ” ngoại hạng trên nhiều lãnh vực để khai thác, đặc biệt đối với các nhà nghiên cứu lịch sử”.
Tổng hợp từ các nguồn:
Website lưu trữ của MEP: http://archives.mepasie.org/fr
DocAsie của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS): http://docasie.cnrs.fr/spip.php?article155
&lang=fr
Bài phân tích của chuyên gia Hugues Tertrais:
https://www.univ-Balê1.fr/autres-structures-de-recherche
/ipr/les-revues/bulletin/tous-les-bulletins/bulletin-n-22-religions-et-relations-internationales/hugues-tertrais-les- archives-des-mission-etrangeres-de-Balê/
Musée des Confluences: http://www.museedesconfluenc
-es.fr/fr/ressources/collection-de-l%C5%93uvre-de-la- propagation-de-la-foi.
VỀ MỤC LỤC
NÉT LỊCH SỬ CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU THEO NHÃN QUAN TÂM LÝ HỌC
Có thể nói, môi trường gia đình giúp hình thành nhân cách nơi thánh Têrêsa. Thật vậy, được sống trong một gia đình truyền thống đạo giáo, bé Têrêsa lớn lên trong sự giáo dục và che chở của cha mẹ. Đến khi mẹ qua đời, bé lại dồn hết tình thương vào người cha. Chính hình ảnh người cha này sẽ mang đậm nét nơi ký ức của Têrêsa trong những năm sống tại dòng Kín sau này.
Với những lợi thế về hoàn cảnh gia đình và tình thương của cha mẹ có thể là cơ hội giúp một nhân cách hình thành lành mạnh; trái lại, đôi khi nó lại là một cản trở cho trường hợp của Têrêsa. Thật thế, nhờ sự bao bọc và yêu thương của gia đình giúp chủ thể sống triển nở thì bé Têrêsa đã bám chặt vào đó như một người lệ thuộc. Điều này được minh chứng qua việc bé chỉ ngủ sau khi nghe từng người khen rằng hôm nay Têrêsa ngoan. Hay một dịp khác, bé cảm thấy khó chịu khi mẹ cho mình mặc một bộ đồ không thích, bé tự nhủ: phải chi mặc được cái đầm dễ thương kia thì được nhiều người khen đẹp. Qua đó cho thấy chị vốn là một người lệ thuộc, sống dựa vào lời khen tiếng chê của người đời. Và với tư chất hướng ngoại và cảm giác, chị thích làm một diễn viên hay một nhà viết kịch. Điều này đã được các chị trong dòng Kín cổ võ như một đam mê giúp chị nên thánh. Tất nhiên, khi vào dòng, chị đã phải chiến đấu rất nhiều với những khuynh hướng lệ thuộc của bản thân bằng cách đặt ra một động lực thiêng liêng cho mỗi hành động của mình. Đúng thế, việc người khác nhờ chị cầu nguyện thay vì khoe khoang vì thành công của mình, chị đã cầu nguyện với ý thức vì lợi ích cho các linh hồn.
Chúng ta biết rằng người lệ thuộc hay mua chuộc sự chú ý người khác qua việc tốt họ làm thì chị khi vào dòng chỉ khát khao ví mình như cát dưới chân mọi người hoặc là một cách hoa mọc trong khe đá chỉ mình Chúa thấy mà thôi ! Qua đó, chúng ta thấy bước tiến của chị thánh khi biết những giới hạn của mình và khắc phục nó một cách ngoạn mục. Có thể nói, đó là những thành công nhỏ góp phần trong việc tiến triển đời sống tâm linh. Trong khi một người lệ thuộc chỉ dừng lại với dáng vẻ bên ngoài và lấy việc làm giúp đỡ người khác mà lắp đầy sự trống rỗng nội tâm, chị đã nhận ra điểm yếu của mình mà hướng tất cả về siêu nhiên.
Chúng ta ghi nhận một bước tiến khác nơi chị thánh. Do khuynh hướng thích cảm giác, chị ấp ủ tình thương của người cha nhân loại. Nhưng khi bước chân vào dòng, chị đã từ bỏ tất cả. Đó là một hy sinh của chị, đồng thời, nó cũng còn bị dồn nén cách nào đó tự bên trong. Phải 6 năm sau, chị mới thực sự được giải thoát. Thật vậy, nếu nhắm đến Thiên Chúa là Cha nhân hậu là ánh sáng duy nhất trong đời sống nội tâm thì mọi chiều kích khác là bóng tối của linh hồn. Suy nghĩ này đã làm cho chị đau lòng khi ôm ấp ký ức về một người cha nhân loại. Cho đến khi khám phá ra linh đạo Con đường thơ ấu thiêng liêng, chị mới được giải thoát thực sự. Thật thế, thay vì loại bỏ tình nhân loại cha-con, chị đã thăng hoa bằng tình Phụ-tử trên Trời. Thay vì lệ thuộc tiếng khen người đời, chị hoàn toàn lệ thuộc vào tình yêu Cha, nghĩa là sống phó thác con thơ. Như thế, sự lệ thuộc tình cảm vào người cha nhân loại đã giúp chị cảm nghiệm sâu xa vào tình yêu Thiên Chúa là Cha. Chính trong sự lệ thuộc tưởng chừng như kéo ghì con người xa đời sống nội tâm thì chị thánh đã làm nên một việc đích đáng là khai mở một linh đạo thiết thực: Con đường thơ ấu thiêng liêng.
Qua những phân tích sơ bộ theo nhãn quan tâm lý học, chúng ta có thể rút ra một kết luận: mọi mẫu người với những ưu thế và những hạn chế đều có thểnên hoàn thiện tùy mức độ đương sự cộng tác với ơn Chúa. Như thế, nét đẹp nhân cách nơi chị thánh là tùy thuộc vào tình yêu Thiên Chúa là Cha. Thiết tưởng, đó cũng là phương thế thích hợp giúp người lệ thuộc sống tinh thần phó thác vào tình yêu Thiên Chúa là Cha.
EYMARD An Mai Đỗ, O.Cist.
Xin hân hạnh giới thiệu hai tác phẩm của EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
Đã được phát hành tại các nhà sách Công Giáo:
VỀ MỤC LỤC
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |