Bán nguyệt san – Số 271 – Chúa nhật 27. 03. 2016



tải về 2.63 Mb.
trang6/9
Chuyển đổi dữ liệu14.05.2018
Kích2.63 Mb.
#38353
1   2   3   4   5   6   7   8   9
---------------------------------------------------------------------------------

Ðã có nhiều người thắc mắc rằng chúng ta đã có Bản Dịch Tân Ước rồi thì còn phải dịch lại làm chi? Nova Vulgata là Bản Lời Chúa của thời đại này, là Bản Lời Chúa đã được thánh Gioan Phaolo II ban từ năm 1979. Tôi chỉ là giáo dân song được phúc mời tham gia trong công tác tung reo Lời Chúa Nova Vulgata.

Nhân vô thập toàn nên tuy tôi rất cẩn trọng trong việc theo cách hành văn mới của Nova Vulgata, và diễn dịch theo các từ ngữ thích hợp song vẫn cần được hướng dẫn và xin kính cám ơn trước.

Bản Latinh Nova Vulgata của các ÐTC Phaolo VI & Gioan Phaolo II & Benedicto có khác với Bản Latinh trong Vulgata chút ít được lâm thời kèm theo, để kính mong quý cha & quý vị tiện theo dõi và góp ý và kiểm điểm thêm thắt cho bản dịch Marco này được trong sáng tốt đẹp hơn.



Kính chúc ÐẠI LỄ PHỤC SINH vui tươi và sốt sắng trong Chúa.

Xin cám ơn và kính chào.

13 Th. 3, 2016 LsNguyenCongBinh@gmail.com



VỀ MỤC LỤC

TREO !!!



 

Đương nhiên là lơ lửng rồi:  đầu chưa chạm trời và chân thì đã rời mặt đất ...

Đỉnh Sọ chiều hôm ấy là như vậy : ung dung , lặng lẽ , bình an – một thân người co quắp lơ lửng trong tư thế đầu chưa chạm trời và chân đã rời mặt đất : một thân người bị “  treo !!!” ...

Và bị “ treo !!!”  đó , nhưng vẫn phải gắn vào một thân gỗ hình chữ thập , nếu không thì sẽ bị rơi, bị tuột xuống ... Định luật vạn vật hấp dẫn mà ... Vốn là Đấng làm nên cái định luật này cho thụ tạo của mình , và , giờ đây , mang lấy thân phận con người , Ngài đành chấp nhận lệ thuộc định luật ấy ...

Vậy là “ bị treo” nhưng vẫn gắn vào một điểm tựa ...

Chúa  Nhật Lễ Lá năm C vừa rồi , cộng đoàn đáp lại Lời Chúa qua Thánh Vinh 21 được tay viết nhạc Cao Huy Hoàng chấm dấu có cái vần “ Ơ ”  thật  duyên  :



Lạy Chúa , sao đành im lặng , sao cứ hững hờ , cứ để con chết giữa khung trời bơ vơ...

Cần cái vần “ Ơ ”  ... cho hai chữ “ hững hờ ” , tác giả rơi ngay vào hai chữ “ bơ vơ ” vô cùng diễn tả ...

Không phải là  “ chơi vơi ” vì , dù sao , chơi vơi cũng “ vật thể ”  quá , và , đã là vật thể thì nó giới hạn thôi , nó chỉ gợi nên hình ảnh của những bàn chân đạp loạn xà ngầu trong không khí...Nhưng “ chơ vơ”  ... thì khác  : nó diễn tả sự “ ngơ ngác ” với câu hỏi xoáy lòng ... Câu hỏi “tại sao ?” : tại sao im lặng ? mà lại là sự im lặng từ Cha – Đấng Toàn Năng , Đấng Tạo Thành? Từ cái tâm trạng xoáy lòng ấy , từ cái ngơ ngác tội nghiệp của Con Chúa Trời  ấy ...  mới cảm nhận được cách “ tỏ tình” có một không hai của Thiên Chúa Tạo Thành với thụ tạo con người mà Ngài tha thiết ...

Đã có một thời đây đó rộ lên những cách tỏ tình ... cố làm cho ra khác người ... Có lẽ cũng có những cảm động về phía đối tượng ... đứng trước những khác thường của kiểu cách , nhưng , dù sao , cũng có chút “ sến” trong đó ... nên  hầu hết những mối tình nặng tính “ quảng cáo” ... đều rơi ngõ cụt ...

Cũng có người bảo rằng : chết vì yêu và chết cho người yêu ... thì nhân thế ...  thiếu gì  những Romeo , những Juliet  ...

Đúng thôi , nhưng cái chết vì yêu của Con Người cong queo trên thập tự chiều thứ sáu hôm ấy là cái chết của Thiên Chúa mang phận người , cái chết của Vô Cùng tự nguyện gò bó trong  hữu hạn , cái chết của Đấng Có Thể  Làm Nên Tất Cả nhưng quyết định trình bày sự “ cong queo”  của thân xác , sự “ chơ vơ”  của tâm hồn để cho thấy rằng , với Người và với Chúa Cha , thụ tạo con người là tất cả ... Nếu con người , ở trong tình trạng quyền năng như thế , có lẽ con người đã yêu bằng bạo lực , bằng thế lực hay bằng nhiều nhiều những cách thức trần tục nhan nhản khắp giòng lịch sử con người từ những chuyện trong các cung cấm phong kiến đến những trang lá cải hằng ngày hôm nay ...

Trong suy nghĩ ấy mà thấy được cái duyên của vần “ Ơ ”  đưa đến sự  “ chơ vơ” nhiều oái oăm và nặng đành hanh  ...

Vì sao ?


Vì ... cho đến hôm nay , Vị Thiên Chúa – Làm – Người  vẫn bị treo “ giữa khung trời chơ vơ” ...

Người bị treo nơi giòng người tầng tầng lớp lớp kéo nhau lầm lũi trong đói khát , tủi cực để tìm lấy một mảnh đất sống cho nhau và cho con cháu ...

Người bị treo nơi những con người mưu đồ , ý đồ và lợi dụng đồng loại của mình để thực hiện những toan tính này nọ ...

Người bị treo nơi những lừa bịp lớn nhỏ xảy ra hằng ngày trong mọi lãnh vực mà nạn nhân là số đông không còn biết xoay sở ra sao nên đành chấp nhận phó mặc cho số phận...

Người bị treo giữa những sòng bài , những phòng nhạc thác loạn cũng như lén lút với từng mũi tiêm nơi góc tối nào đó trong thế giới con người ...

Người bị treo với từng núi đơn kêu nài công lý ...

Người bị treo trong sự thẫn thờ của những mất mát vô tình và cố tình con người gây ra cho nhau...

Người bị treo ... và bị treo ở tất cả mọi tâm tình , tâm trạng cũng như tình trạng và điều kiện sống của con người trần trong cõi nhân sinh này ...

Người bị treo ngay sau tội phạm của nguyên tổ ...

Người tiếp tục bị treo cho đến thời sau hết ...

Và vì thế  câu hỏi : “ sao cứ hững hờ , cứ để con chết giữa khung trời chơ vơ ? ” vẫn mãi mãi là lời tỏ tình muôn thủa của Thiên Chúa Tạo Hóa với con người thụ tạo đồng thời cũng là câu hỏi xoáy vào lương tâm làm người : thụ tạo vốn là họa ảnh của Tạo Hóa ...

Dĩ nhiên điểm nhấn là Chiều Thứ Sáu trên đỉnh Sọ của năm ấy ...

Sao cứ hững hờ, cứ để con chết giữa khung trời chơ vơ???
 

Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp.

VỀ MỤC LỤC


 CHÚA PHỤC SINH LÀ TIN MỪNG CHO NHÂN LOẠI (LỄ VỌNG PHỤC SINH 2016)



(Lc 24,1-12)

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cor 15,14); hay: “Nếu chúng ta đặt hi vọng vào Đức Kitô chỉ vì những sự đời này, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hại nhất trong thiên hạ” (1Cor 15,19),

Thế nên, không ai dại dột mà tin và gắn bó cả cuộc đời cũng như mọi chiều kích của cuộc sống vào một con người mà kết thúc cuộc đời bằng cái chết! Thân xác bị chôn vùi trong huyệt mộ là dấu chấm hết cho chính con người đó cũng như những ai đã từng đặt lý tưởng cuộc đời mình vào họ.

Nhưng, niềm tin vào Đức Giêsu đã đem lại cho chúng ta niềm hy vọng, bởi vì Đấng mà chúng ta tin tưởng, gắn bó và phó thác chính là Đấng đã từng chết thật, nhưng cũng đã sống lại thật sau ba ngày nằm trong mộ phần.

Như vậy, chúng ta thật hãnh diện về Đấng Cứu Chuộc có tên là Giêsu, vì nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài mà chúng ta được sống và sống dồi dào, bởi lẽ, nếu chúng ta cùng sống và chết với Ngài thì cũng sẽ được cùng Ngài sống lại trong vinh quang.


  1. Hãy trở về Galilê để sống niềm vui sứ vụ

Niềm tin vào Đấng Phục Sinh được Tin Mừng theo thánh Luca trình bày bằng sự kiện các phụ nữ, những người yêu mến Đức Giêsu đi ra mộ lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, tức là kế sau ngày Sabát, để thi hành công việc chăm sóc, sức thêm thuốc thơm nơi xác Đức Giêsu, đây là công việc lẽ ra phải làm chu đáo hôm an táng Ngài. Tuy nhiên vì là áp lễ Vượt Qua của người Dothái, nên những việc làm tỉ mỉ không thể thực hiện được, vì nếu làm như thế, thời gian sẽ chuyển sang ngày Sabát, mà ngày Sabát thì lại là luật cấm làm việc xác...

Khi đến nơi, các phụ nữ thật ngỡ ngàng, vì cửa mộ đã mở tung và trong mộ không còn thi thể Đức Giêsu!!!

Thấu hiểu nỗi sợ hãi và hoang mang của các phụ nữ, nên thiên thần đã hiện ra chấn an các bà và nói: "Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại" (Lc 24 5-7).

Sau khi được các thiên thần nhắc cho các bà nhớ lại lời Đức Giêsu đã tiên báo, các bà rất vui mừng và thêm xác tín vào những lời Đức Giêsu đã nói với các bà trước đó, vì thế, họ hân hoan trở về và báo tin mừng này cho các môn đệ. Tin Mừng thánh Mátthêu thì nói rõ hơn và còn tiên báo cho biết: chính Đức Giêsu – Đấng Phục Sinh sẽ đến Galilê và sẽ gặp các môn đệ tại đó (x. Mt 28, 7).

Nhắc lại cho các bà những điều Đức Giêsu đã nói khi còn ở Galilê là gợi lại cho các bà về niềm xác tín nền tảng, bởi vì chính tại Galilê, những phụ nữ và các môn đệ đã khởi đầu hành trình bước theo Thầy Giêsu trong niền tin và hy vọng. Nay trở về Galilê là để cho người môn đệ một lần nữa xác định lại căn tính của mình, thêm vững tin, can đảm, hầu trung thành với sứ vụ tông đồ giữa trăm triều thử thách chông gai.

Mặt khác, khi chứng kiến cảnh hãi hùng ghê rợn của Thầy mình phải chịu qua cuộc thương khó, nhất là qua cái chết của Ngài, các môn đệ kể như bị hoang mang lo sợ đến tột cùng! Chẳng thế mà từ khi Thầy của các ông bị bắt, đánh đập và giết chết cách tàn bạo thê lương trên thập giá, các ông đã không dám ra ngoài, nhưng luôn trong nhà và đóng kín cửa. Vì thế, khi nhắc các bà nhớ lại những điều chính Ngài đã tiên báo từ hồi còn ở Galilê, là để cho các bà có bằng chứng nhằm loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ một cách xác tín.

Nếu không nhắc lại biến cố Galilê, thì hẳn các môn đệ không thể tin vào chuyện vĩ đại có tầm ảnh hưởng lớn đến hết mọi người mà lại qua miệng các phụ nữ!!!

Hơn nữa, khi nhắc lại địa danh Galilê, và nói với họ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã tiên báo trước đó, ấy là Ngài muốn cho họ nhớ lại mối tình đầu tiên giữa Ngài với họ, nơi mà mọi sự được bắt đầu, nơi mà Ngài đã cất tiếng gọi và nơi mà họ đã từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài...(x. Mt 4,18-22).

2. Ngày Rửa Tội là Galilê của chúng ta

Với chúng ta, ai cũng có một Galilê nội tâm, nơi ấy, chúng ta được đánh dấu bằng việc Chúa gọi và chọn mỗi người qua Bí tích Rửa Tội, để trở nên con cái của Chúa, con cái Sự Sáng và nên chứng nhân cho Ngài.

Khi trở nên con cái Chúa trong ơn gọi Kitô hữu, ấy là chúng ta mặc lấy Đức Kitô và được mời gọi mang trong mình những tâm tư của Ngài để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, ngõ hầu trở nên chứng nhân về Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã phục sinh vinh hiển.

Tuy nhiên, tình nghĩa giữa ta và Chúa đã bị rạn nứt với năm tháng do yếu đuối, tham lam, ích kỷ, kiêu ngạo... nên nhiều khi chúng ta đã dửng dưng với ơn gọi và sứ vụ của mình.

Khi được thiên thần mời gọi các phụ nữ nhớ lại những lời Đức Giêsu đã báo trước cũng như hẹn gặp các môn đệ ở Galilê, đây cũng chính là lời mời gọi mỗi người trở về và nhớ lại biến cố Galilê nội tâm của mình.

Khi được mời gọi trở về Galilê, hẳn đây là lời nhắc nhớ chúng ta nhớ lại niềm tin tinh tuyền thủa ban đầu.

Nhớ lại những gì đã nói khi còn ở Galilê; ấy là nhóm lên ngọn lửa tình yêu mãnh liệt thủa ban sơ ấy; và cũng là nhớ lại những ân tình, mà Thiên Chúa đã ban trên cuộc đời chúng ta.

Khi trở về và nhớ lại như thế, sứ điệp quan trọng được loan đi, đó là: cần đọc lại lịch sử cuộc đời mình, để nhận ra tình thương của Thiên Chúa, nhận ra bàn tay can thiệp uy quyền của Ngài, và nhất là nhớ lại những điều đã báo trước, để thêm một lần nữa nhìn cuộc đời dưới quy luật: qua đau khổ đến vinh quang.

Khi trở lại và nhớ về biến cố Galilê nội tâm, cũng là dịp để ta xác tín thêm và khởi đầu một hành trình mới trong niềm tin và hy vọng, để can đảm loan báo Đức Giêsu đã chết đúng như tiên báo, đã sống lại như những gì đã nói trước...

Mong sao, đêm nay, mỗi người chúng ta hãy làm một cuộc hồi tưởng để trở về với cõi lòng của mình, ngõ hầu thấy được Galilê nội tâm riêng của mỗi người; đồng thời hãy nhớ về nó để chúng ta đi trên con đường đã được định hướng.



Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại từ cõi chết. Đây là tin mừng không chỉ cho các phụ nữ, các môn đệ, nhưng nó còn là niềm hy vọng và niềm tin của chúng con hôm nay và mãi mãi. Xin cho mỗi người chúng con ngay trong giây phút này, hãy cất cao lên lời: “Halêluiya” và hãy loan Tin Mừng Phục Sinh đến mọi nơi. Amen.

VỀ MỤC LỤC


 ĐỨC MẸ SẦU BI


Vào Thứ Sáu Tuần Thánh, khi tưởng nhớ cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, chúng ta cũng tưởng nghĩ đến những đau đớn của Đức Mẹ. Điêu khắc gia Michelangelo thành Florence nước Ý, thế kỷ XV, đã khắc một pho tượng nổi tiếng, lột tả cách sống động về chân dung Đức Mẹ Sầu Bi, gọi là Pietà.




Tượng Pietà trong Đền thờ Thánh Phêrô, Rôma (do Michelangelo, 1499)

Giáo hội cũng có một lễ dành cho tước hiệu này vào ngày 15/9, sau lễ Suy Tôn Thánh Giá. Lễ Đức Mẹ Sầu Bi (hay lễ Đức Bà Bảy Sự, lễ kính Bảy Sự Thương Khó của Đức Bà) tiếng Latinh là Mater Dolorosa (hay Septem Dolorum), tiếng Anh là Dolors of Our Lady (hay Seven Dolors of Blessed Virgin, Seven Sorrows of Our Lady).



1. Nguồn gốc ngày lễ

Trước cuộc cải tổ Phụng Vụ của Công đồng Vatican II, trong lịch Phụng Vụ có hai lễ kính Đức Mẹ Sầu Bi. Việc tôn kính Đức Mẹ Sầu Bi do Dòng Citercian và Dòng Phanxicô khởi xướng từ thế kỷ XII và thế kỷ XIII. Đến năm 1423, Công đồng Cologne đã quy định thành lập lễ kính Đức Mẹ Sầu Bi (điều luật 11). Ý niệm khởi đầu chỉ hướng về mối đau khổ tổng thể, cụ thể là tôn kính Đức Mẹ đau khổ đứng dưới chân thập tự giá, lễ này được cử hành vào ngày Thứ Sáu của tuần III sau lễ Phục Sinh. Năm 1482, Bảy Sự Thương Khó của Đức Mẹ mới được khai triển và phổ biến ở Âu Châu. Năm 1725, Đức Giáo Tông Bênêđitô XIV đưa lễ Đức Mẹ Sầu Bi qua ngày Thứ Sáu trong tuần Thương Khó I, trước Lễ Lá23, đó là lễ thứ I. Năm 1668, Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ được Toà Thánh cho phép mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi ngày Chúa Nhật thứ III trong Tháng 9. Năm 1912 Đức Giáo Tông Piô X quyết định toàn thể Giáo Hội cử hành lễ này một lần nữa vào ngày 15/9 hàng năm, sau lễ kính Thánh Giá, đó là lễ thứ II. Cả hai thánh lễ đều dùng thánh thi “Stabat Mater” (Mẹ Sầu Bi đứng dưới chân thập tự giá) của Giacopone da Todi (1360), tu sĩ Dòng Phanxicô, làm thánh ca cho buổi lễ. Năm 1969, lễ Đức Mẹ Sầu Bi vào ngày Thứ Sáu trong tuần Thương Khó I bị bãi bỏ, lý do là vì Giáo Hội không muốn mừng một biến cố hay một mầu nhiệm hai lần trong một năm.



2. Nghĩa của những chữ đức, mẹ, sầu, bi

2.1. Đức, có duy nhất một chữ Hán 德 (nhưng có nhiều cách viết, như: 徳, 悳, 惪), nghĩa là (dt.) (1) Ân huệ: Dĩ đức báo oán. (2) Đạo đức, cái đạo để lập thân: Đức hạnh. (3) Hạnh kiểm, tác phong. (4) Cái khí tốt (vượng) trong bốn mùa: Mùa xuân gọi là thịnh đức tại mộc. (5) Ý chí, niềm tin: Nhất tâm nhất đức (một lòng một dạ) (6) Tên nước: Nước Đức. (7) Họ Đức. (đt.) (8) Tạ ơn: Vương viết: “Nhiên tắc đức ngã hồ” (Vua nói: “vậy thì cám ơn tôi không?”). (tt.) (9) Mỹ thiện: Đức chính (chính sách tốt đẹp).

Nghĩa Nôm: Đức là từ24 đứng trước những danh xưng chức vị hay tước hiệu để biểu thị lòng kính trọng dành cho những đấng, những vị được tôn kính. Ví dụ: Đức Chúa Trời, Đức Mẹ, Đức Phật Thích Ca, Đức Thái Thượng Lão Quân, Đức vua, Đức thánh Trần...

Theo Cha Giuse Cao Phương Kỷ: “Chữ đức, không có ý nghĩa thần tính, chỉ là danh hiệu tỏ lòng tôn kính dành cho nhiều người như: đức vua, đức bà, đức ông, đức thầy... Ngoài ra, theo thói quen, chữ đức thường ghép vào một chức vị, hay danh hiệu của một người như đức giám mục, đức cha... không ai gọi kèm theo tên riêng, tên tục người ta, chẳng hạn, ta quen gọi: Đức Hồng y Khuê, mà không nói: “Đức Khuê”(vì chữ Khuê là tên riêng)25.

Chúng tôi đồng ý với Cha Giuse, vì Đức (nghĩa Nôm) là:

- “Từ đặt trước những danh từ chỉ những thần thánh hoặc những người đáng tôn kính”26, “... hoặc người có địa vị cao quý trong xã hội phong kiến để tỏ ý tôn kính khi nói đến”27

- “Tiếng tôn gọi các bậc vua chúa, thần thánh” .

- “(Thường viết hoa) từ dùng để gọi thánh thần với ý tôn kính”28 .

- “Tước hiệu danh giá tột đỉnh”29dùng để “xưng tặng các đấng cao sang, tài trí...” như Paulus Huỳnh Tịnh Của viết: “Đức: tiếng xưng tặng các đấng cao sang, tài trí; tiếng chỉ việc nhơn lành, lòng lành: Đức Chúa Trời30. Để tiếng đức cho trọng đấng bậc, không dám xưng ngay là Chúa Trời, về các tiếng sau này cũng vậy: chúa, vua, thánh, giáo tông, giám mục, cha, thầy, phu tử, ông, mụ, bà (dùng tiếng đức cũng về một ý)31.

Theo lễ phép “xưng khiêm, hô tôn”, khi nói với (hoặc nói về) người trên thì người ta dùng chức vụ, vị trí công tác hay danh hiệu học vị học hàm; khi nói với (hoặc nói về) người ngang hàng hoặc dưới mình, nhưng vẫn tỏ ra lịch sự, người ta có thể dùng tên tự hay gọi theo chức vị. Có thể thêm tên hay họ tên sau chức vị khi có người khác cùng chức vị đó hiện diện. Thiết nghĩ, đối với các bậc tôn quý “danh giá tột đỉnh” được gọi là “Đức...” mà chúng ta chỉ xưng hô vỏn vẹn là “Đức + tên riêng” thì không phải phép. Thí dụ: Người ta không nói “Đức Khổng Khâu”, nhưng là “Đức Khổng Tử”32; không nói “Đức Tất Đạt Đa Cồ Đàm”, nhưng nói là “Đức Phật Thích Ca”33. Chúng ta không nên nói “Đức Maria”, mà nên nói là “Đức Mẹ Maria”, “Đức Bà Maria” hay “Đức Nữ Đồng Trinh Maria”... Tuy nhiên, khi nói về Đức Phật Thích Ca trong giai đoạn trước khi thành Phật, người ta có thể gọi ngài là “Hoàng tử Tất Đạt Đa” hay “Đức Cồ Đàm”...cũng như có người dùng chữ “Đức Giêsu” để nhấn mạnh đến nhân tính, còn chữ “Chúa Giêsu” để nói về thiên tính của Ngôi Hai Thiên Chúa34. Nhưng khi nhấn mạnh nhứ thế, liệu chúng ta có đi lệch với mầu nhiệm ngôi hợp không? Đây, không phải chỉ là cách dùng từ nữa, mà liên quan đến phạm trù giáo lý đức tin rồi.

Khi ghép chữ “đức” vào hai chữ “lang quân” và “ông chồng” như “đức ông chồng” thì có nghĩa không được tốt đẹp lắm, tức là “chồng” (cách gọi có ý đùa hoặc mỉa mai)35. Còn “đức lang quân”, nay không nghe người ta nói nữa, chỉ thấy dùng trong văn viết với ý nghĩa như đức ông chồng vậy. Riêng Giáo Hội Công Giáo vẫn dùng Đức Phu Quân là Chúa Kitô... Đức Lang Quân của Hội Thánh!

2.2. Mẹ, là chữ Nôm, nghĩa là (dt.) (1) Người đàn bà có con, trong quan hệ với con cái: Nhớ mẹ, gửi thư cho mẹ, mẹ thương con. (2) Con vật cái, trực tiếp sinh ra đàn con nào đó: Gà con tìm mẹ. (3) Người đàn bà đáng bậc mẹ: Người mẹ chiến sĩ. (4) Cái gốc, cái xuất phát những cái khác: Lãi mẹ đẻ lãi con. (5) Mẹ ghẻ (vợ kế của bố). (6) Đàn bà xấu: Mẹ mìn. (7) Tiếng chửi: Mẹ kiếp.

2.3. Sầu, chỉ có một chữ Hán 愁, nghĩa là: (dt.) (1) việc lo buồn: Ly sầu (việc lo buồn của chia lìa). (đt.) (2) Lo lắng: Bất sầu ngật bất sầu xuyên (không phải lo ăn lo mặc). (tt.) (3) Lo buồn: Sầu my khổ kiểm (nét mặt buồn sầu).

Nghĩa Nôm: (đt.) (1) Đau lòng: Sầu khổ (hơi khác nghĩa Hv). (2) Nẫu: Gặp mưa to rau sầu hết. (dt.) (3) Trái durian (Hv Lựu liên), Nôm: Sầu riêng.

2.4. Bi, có nhiều chữ Hán, ở đây là chữ 悲. Nghĩa là (dt.) (1) Việc đau thương: Lạc cực sinh bi (Vui quá sinh việc đau thương). (2) Thương xót: Từ bi. (3) Họ Bi. (đt.) (4) Đau, khóc không có nước mắt. (5) Thương cảm: Du tử bi cố hương (Con đi xa thương cảm quê hương). (tt.) (6) Buồn.

Nghĩa Nôm: Tiếng chiêng, cồng.

3. Ý nghĩa của “Đức Mẹ Sầu Bi

3.1. Đức Mẹ Sầu Bi có nghĩa là Đức Mẹ đau khổ, buồn thương... vì Đức Mẹ là mẹ Chúa Giêsu, trong suốt quãng đời 33 năm tại thế của Chúa Giêsu, Mẹ đã cảm nhận nhiều nỗi đau thương như: Lời tiên báo của ông Simêon (x. Lc 2,34-35); Cuộc chạy trốn sang Ai Cập (x. Mt 2,13-21); Lạc mất Chúa ba ngày (x. Lc 41,50); theo sau Chúa khi Người vác thập tự giá lên đồi Calvê (x. Ga 19,17); khi Chúa bị đóng đinh và chịu chết trên thập tự giá (x. Ga 19,18-30); Tháo xác Chúa (x. Ga 19,39-40); Táng xác Chúa (x. Ga 19,40-42).

Cho đến ngày nay, tuy đã về trời, Mẹ Maria vẫn còn tiếp tục phải chịu bao đau đớn khi chứng kiến biết bao sự ích kỷ, hận thù, chia rẽ, chiến tranh... giữa đoàn con cái của mình. Nhưng nỗi thống khổ lớn nhất của Mẹ chính là việc trầm luân của biết bao linh hồn đang sống trong tội lỗi mà xa rời Thiên Chúa. Lời tiên tri của cụ già Simêon khi xưa quả rất hiện thực, con tim của Mẹ vẫn không ngừng bị bao lưỡi đòng đâm thâu, và người đâm thấu tâm hồn Mẹ lại chính là những đứa con mà Mẹ đã một lần sinh ra trong ân sủng. Trong số những đứa con phản nghịch ấy, phải chăng có tôi và bạn?



3.2. Giáo Hội đặt lễ Đức Mẹ Sầu Bi ngay sau ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá như muốn nói rằng: “Khi Đức Kitô chịu treo trên thập tự giá, Chúa đã muốn cho Thánh Mẫu của Người đứng kề bên mà thông phần đau khổ36. Cuộc đời Mẹ luôn kết hợp với những khổ đau của Con. Có lẽ không đau khổ nào lớn hơn đau khổ của chính Mẹ Thiên Chúa, Đấng mà theo lời của Thánh Gioan, “đã đứng kề bên thập giá Đức Giêsu” (Ga 19,25). Không ai hiểu con cho bằng người mẹ, và cũng không ai đau khổ hơn người mẹ khi phải chứng kiến sự đau khổ và cái chết của con mình:

Mẹ sầu bi, tầm tã giọt châu,



đang đứng bên cây thập giá,

nơi Con Người đã bị treo lên.

Một lưỡi gươm nhọn đã đâm qua

tâm hồn Bà đang rên siết,

đang sầu khổ và đau buồn...”.

(Thánh thi Stabat Mater)

Cũng như Chúa Giêsu, Mẹ Maria cũng tự đồng hoá chính mình với mầu nhiệm đau thương của thập tự giá. Bởi thế, Mẹ đáng được gọi là Đấng Hiệp Công Cứu Chuộc. Qua việc cử hành lễ Mẹ Sầu Bi, Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy chiêm ngắm hình ảnh của một người Mẹ đau khổ vì Con và vì chúng ta:

Ai là người không tuôn châu lệ,



khi nhìn thấy Mẹ Chúa Kitô,

trong cảnh cực hình như thế?

Ai có thể không buồn bã nhìn xem

Mẹ Chúa Kitô, đang đau khổ cùng với Con Người?..”.

(Thánh thi Stabat Mater)

Đồng thời Giáo Hội kêu mời chúng ta hãy an ủi Mẹ bằng cách bắt chước và yêu mến Mẹ hơn:

Ôi lạy Mẹ là niềm yêu mến,



xin cho con cảm thấy mãnh lực của đau thương,

để cho con được khóc than cùng Mẹ.

Xin cho lòng con cháy lửa mến yêu,

mến yêu Đức Kitô là Thiên Chúa,

để cho con có thể làm đẹp ý Người...”.

(Thánh thi Stabat Mater)



3.3. Chúng ta hãy nhớ rằng Mẹ Maria đã bắt đầu cuộc lữ hành đức tin bằng những lời xin vâng: “Tôi là nữ tỳ của Chúa. Tôi xin vâng như lời Ngài truyền” (Lc 1,38) và những lời vui tươi hăng hái của người mẹ trẻ: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa... Vì Chúa đã nhìn đến phận hèn tôi tớ Chúa...”. Vì vậy, khi ngắm nhìn sự đau thương của Chúa Giêsu và Mẹ Người trong ánh sáng Thánh Kinh, chúng ta không thể đồng hóa sự tuân phục của Chúa và Mẹ với định mệnh thuyết hay thụ động tính37. Trái lại, như Công Đồng Vatican II dạy: “Đức Trinh Nữ đã vững tiến trong cuộc lữ hành đức tin, và trung thành hợp nhất với Con Mẹ cho tới khi đứng dưới chân thập tự giá, theo đúng chương trình của Thiên Chúa” (LG 58):

Đức Maria, Nữ Vương cả đất trời,



Vẫn hiên ngang đứng vững

Gần bên thập giá Đức Kitô.

Diễm phúc thay, Đấng không phải chết

Mà được lãnh cành thiên tuế

Dành cho người tuẫn đạo”.

(Xướng đáp, Kinh Chiều lễ Đức Mẹ Sầu Bi)

Đó là niềm vui của Mẹ và cũng là niềm hy vọng của chúng ta:

Mừng vui lên, lạy Mẹ Sầu Bi,



Xưa kia cùng với Con yêu dấu,

Mẹ thông phần đau khổ,

Ngày nay Mẹ lại được cùng Người

Chung hưởng phúc vinh quang”.

(Điệp ca Tin Mừng, Kinh Sáng lễ Đức Mẹ Sầu Bi)



Kết

Dựa theo giáo huấn Công Đồng Vatican II, Giáo Hội muốn lòng sùng kính Đức Mẹ của chúng ta phải quy hướng về Chúa Kitô. Do đó, Giáo Hội muốn chúng ta sùng kính việc Đức Mẹ hiệp công với Chúa Kitô khổ nạn để chúng ta noi gương Mẹ, mà kết hợp những khổ đau của ta với cuộc thương khó của Chúa Kitô, ngõ hầu mai sau chúng ta cùng được hưởng phúc trường sinh vinh hiển với Chúa như Đức Mẹ.

Khi chúng con kính nhớ tình yêu đau khổ của Đức Trinh Nữ Maria, xin cho chúng con biết dùng đời sống mình để bù đắp những gì còn đang thiếu sót trong những đau khổ của Chúa Kitô để mưu ích cho Hội Thánh” (Lời nguyện hiệp lễ ngày 15/9). 
Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ

VỀ MỤC LỤC


NOI GƯƠNG THÁNH GIUSE SỐNG LÒNG THƯƠNG XÓT




NẾU LINH MỤC KHÔNG CÓ LÒNG THƯƠNG XÓT

Suy Niệm Lễ Thánh Giuse (Mt 1, 16. 18-21.24)

Trong khung cảnh của Năm Thánh Lòng Thương Xót. Thánh Giuse, bạn trăm năm của Ðức Trinh Nữ Maria, cha nuôi Chúa Giêsu, vị quan thầy khả kính dễ mến, dễ thương, là gương tốt lành cho giới gia trưởng, được Giáo hội đề cao như là mẫu gương cho người thế noi gương, bắt chước, học đòi về sự công chính và lòng từ bi thương xót.

Tin mừng gọi là người công chính. Công chính trước hết có nghĩa là tuân giữ luật Chúa (Rm 4,2; Gl 3,6). Công chính còn được hiểu là lòng xót thương nhân hậu, (St 12,19; Tv 37,21; Tv 112,4). Thánh Giuse là người có lòng thương xót, đính hôn với Maria như bao thanh nam nữ tú khác. Theo phong tục Do thái, khi hai người nam nữ đính hôn đã thành vợ chồng, dù chưa chung sống với nhau. Muốn bỏ nhau phải ra toà xin ly dị. Nếu vợ ngoại tình, phải bị xử ném đá theo luật.

Thế mà Maria đã có thai trước khi về chung sống. Giuse thật khó xử. Tin mừng viết: “Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1, 19). Vì nhân hậu và thương xót, Giuse không tố cáo, làm nhục Maria, người mà ông rất tin tưởng, mến yêu và quí trọng; càng không muốn Maria bị xử phạt theo luật, nên quyết định âm thầm ra đi. Vì công chính, hành động theo ý Chúa, nên Giuse sau lời giải thích của Thiên thần, đã tín thác hoàn toàn, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu. 

Vốn là người vâng nghe ý Chúa, Giuse đã sống ơn gọi làm chồng cách trung thành. Vì thế, thánh nhân trở nên người chồng mẫu mực của Đức Maria, người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu”  (Trích Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).

Nếu như Đức Thánh Cha Phanxicô nói, thế giới hôm nay rất cần đến lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng, các gia đình chúng ta hôm nay đang rất cần có những người chồng, người cha công chính và có lòng thương xót như thánh cả Giuse biết bao. Đó là lý do chúng ta mừng kính để xin người cầu thay nguyện giúp cho các người cha.

“Hãy cứu lấy các gia đình hỡi những người cha” là lời kêu gọi của Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđitô, ngài tiếp : “các gia trưởng sẽ bớt bài bạc, bớt những chén rượu, bớt đi những cuộc vui vô bổ, để làm gương sáng cho vợ con về lòng tin ; siêng năng cầu nguyện và đến với Chúa …”. Thánh Giuse đã làm điều đó, đem Con Trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai Cập, dẫn về thành Nagiarét, lên Đền thờ dự lễ và vui sống bình an.

Thật là đẹp khi ta thấy người chồng một tay dắt vợ, với nách ôm con đến nhà thờ dự lễ. Kết hôn, người nam sẽ bỏ cha mẹ mà luyến ái với vợ mình, hai người nên một, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe. Logo Năm Thánh Lòng Thương Xót, cha họa sỹ vẽ Chúa Giêsu vác Ađam lên vai, hai mắt nhìn vào nhau 2 con người với 3 con mắt. Không phải ngài vẽ thiếu, nhưng chủ đích muốn nói chính tình yêu và Lòng Thương Xót hòa quyện giữa Thiên Chúa và con người với nhau, để Ađam hướng nhìn vào Thiên Chúa thì khám phá ra lòng Chúa xót thương. Và Chúa Giêsu nhìn chúng ta với con mắt của Ađam để thấy được những lỗi lầm thiếu xót, những đau khổ gian nan mà con người phải chịu do tội lỗi, để ôm ấp, yêu thương và chữa lành. Từ đó, ta nhìn anh em với con mắt của chính Chúa Giêsu, để sống lòng thương xót của Thiên Chúa với tha nhân.

Nếu người chồng mà nhìn vợ bằng con mắt của vợ, mang lấy tâm tư, vui buồn, sướng khổ của người vợ, và người vợ nhìn chồng bằng con mắt của người chồng, mang lấy ý muốn, tâm tư, cố gắng thực hiện ước mơ của người chồng thì thật hạnh phúc.

“Tình yêu là sứ mạng của chúng ta”  là chủ đề của ĐHGĐTG tại Philadelphia vừa qua. Tình yêu là cốt lõi làm nên ý nghĩa cho đời sống gia đình. Nếu Thiên Chúa không yêu thương thì không tạo dựng gia đình, không có mầu nhiệm nhập thể, và không có chết trên Thánh giá. Cũng vậy, không có tình yêu, chẳng ai dại gì mà kết hôn với nhau cho nó nặng nề. Có tình yêu, người ta mới sống với nhau trong tình nghĩa vợ chồng, hy sinh, quên mình để sống cho người khác. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu, nên Thiên Chúa gieo mầm tình yêu đó nơi mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đến để tỏ lộ lòng thương xót của Chúa Cha và trao cho chúng ta sống và biểu lộ tình yêu ấy cho đồng loại. Tình yêu là sứ mạng thì chúng ta phải sống, và nhóm lên ngọn lửa để gieo niềm tin và hy vọng trong đời sống gia đình.

Nhìn vào Logo Năm Thánh thấy Chúa Giêsu vác con ngượi tội lỗi trên vai, cụ thể hơn, nhìn thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, hai cha con nhìn nhau làm tôi nhớ tới anh Đinh Văn Mạnh cõng vợ là Lương Thị Hà bị mất chân sau một vụ tai nạn “đi khắp thế gian” (phát sóng ngày 9/5 trên VTV3). Hay là ông Lê Xuân Hồng cõng con là Lê Xuân Bách (xã Tiên Kiên, huyện Lâm Thao, Phú Thọ) suốt 20 năm trời đến trường, theo đuổi giấc mơ đỗ Đại học, phát sóng trong chương trình Điều ước thứ 7 ngày 24/10 thật là cảm động. Dĩ nhiên là có mẹ em động viên, an ủi. Ba con người, ba trái tim giàu tình yêu thương, họ sống bên nhau, nương tựa vào nhau trong khó khăn, hoạn nạn. Chưa hết, ngày con nhập trường cũng là ngày ông cùng con lên trường xin làm bảo vệ để tiếp tục cõng con. Người vợ nói rằng, ông Hồng là người đàn ông tuyệt nhất thế gian.

Vợ chồng, hay bố mẹ cõng nhau xem ra bình thường, nhưng Báo Dân Trí có đăng em Nguễn Văn Phong cõng bạn là Lê Xuân Tú (cùng sinh năm 1998, chung lớp 11C5) đến trường suốt 5 năm trời vì thương bạn quá. Tình bạn không vơi, Tốt nghiệp THCS, Tú và Phong lại thi đậu vào trường THPT Nguyễn Đức Mậu (huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An) và được xếp vào cùng một lớp.

Đó không phải là thực hành sứ mạng tình yêu và lòng thương xót trong gia đình noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse như Chúa dạy đó hay sao.

Kính xin thánh Giuse từ Trời cao trợ giúp các gia đình chúng ta, đặc biệt là những người cha. Amen.    

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

VỀ MỤC LỤC


 ƠN BẤT KHẢ NGỘ (INFALLIBILITY)



  
Hỏi: Xin cha giải đáp việc Đức Thánh Cha Phanxicô rửa chân cho phụ nữ  thì ngài có được ơn bất khả ngộ hay không ?.

Trả lời :

Tôi đã có dịp trả lời trong một bài viết trước  về việc Đức Thánh Cha Phanxicô  rửa chân cho phụ nừ trong Tuần Thánh, và đã nói rõ là việc rửa chân này chỉ là một nghi thức (rite)- chứ không phảỉ là một bí tích hay á bí tích nào. Mục đích của nghi thức này là để  nhắc lại việc Chúa Giêsu đã rửa chân cho Nhóm Mười Hai Tông Đò trong Bữa Ăn sau cùng của Chúa với các ông trong đó Chúa đã lập hai Bí Tích rất quan trọng là Bí Tích Thánh Thể ( Eucharist) để “  Thầy ở lại cùng  anh  em  mọi  ngày cho đến  tận thế.”( Mt 28:20) và Bí Tích Truyền Chức Thánh ( Holy Orders) để “ anh  em  làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.” ( Lc 22: 19)

Như vậy việc rửa chân không phải là cử hành một bí tích, hay một nghi thức  phụng vụ nào buộc phải có  trong Nghi thức phụng vụ ngày Thứ Năm Tuần Thánh,  được cử hành ở khắp nơi trong Giáo Hội để kỷ niệm ngày Chúa lập Phép Thánh Thể và Chức Linh mục thừa tác ( Ministerial Priesthood) như  đã nói ở trên.

Chúa rửa chân cho các Tông Đồ để dạy họ  khi đó và tất cả chúng ta ngày nay bài học đích đáng về  khiêm  nhường , bác ái và phục vu

.Khiêm nhường vì “ nếu Thầy là Chúa,  là Thầy mà còn rửa chân cho anh  em, thì anh  em cũng phải rửa chân cho nhau”, ( Ga 13: 14).

Chắc vì dựa vào lời Chúa trên đây, mà nhiều giáo xứ  ở Mỹ, người ta đã rửa chân cho nhau trong nhà thờ ngày Thứ Năm Tuần Thánh.

Bác ái và phục vụ, vì  Thầy (Con Người)  không đến  để được người ta phục vụ  nhưng là để  phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người. ( Mt 20: 28)

Đó là tất cả ý nghĩa của việc Chúa rửa chân cho các Tông Đồ xưa kia mà nay Giáo Hội hằng năm nhắc lại  vào dịp Lễ Thứ Năm Tuần Thánh để kỷ niệm ngày Chúa lập  hai bí tích rất quan trọng là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tich Truyền Chức Thánh trong Bữa Ăn cuối cùng của Chúa với Nhóm Mười Hai Tông Đồ.

Nói rõ hơn, việc rửa chân- như đã nói ở trên, không phải là một cử  hành phụng vụ,  nên không buộc phải làm mỗi năm, và giáo dân cũng không buộc phải tham  dự để được lãnh lợi ích thiêng liêng nào.Ở Tổng Giáo Phận Galveston-Houston,  Texas Hoa kỳ, không có nghi thức rửa chân trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh.

Từ hai năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô  đã rửa chân cho cả phụ nữ và  người không có Đạo nữa. Đây  là theo ý muốn riêng của ngài. Chúng ta không dám có ý kiến gì về việc này, và ngài cũng không bắt buộc Giáo Hội phải theo sáng kiến riêng của ngài. Ai muốn làm thì  tùy  ý.

Nhưng việc rửa chân này hoàn toàn không liên can gì đến ơn bất khả ngộ ( Infallibility) mà Đức Thánh Cha nói riêng, và các Giám mục trong Giáo Hội nói chung , hiệp thông với ngài được hưởng khi dạy dỗ tín hữu những gì có nội dung tín lý ( dogma) và luân lý hay phong hóa ( moral).

Thật vậy, Công Đồng Vaticanô I ( 1869-70) đã long trọng tuyên bố là Đức Thánh Cha được ơn bất khả ngộ khi ngài dạy từ ngai Tòa Phêrô ( Ex cathedra) bất cứ điều gì có liên hệ đến hai lãnh vực quan trọng là đức tin và luân lý, nhờ ơn đặc biệt Chúa Thánh Thần  ban cho người kế vị Thánh Phê rô với  trọng trách cai quản và dạy dỗ chân lý đức tin và luân lý  buộc mọi người trong Giáo hội phải tuân theo để đươc cứu độ nhờ công  nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô,Đấng  đã hứa:

     “ Ai  yêu mến Thầy, thì  sẽ giữ lời  Thầy

       Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy

      Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” ( Ga 14: 23)  

Nói rõ hơn, trong tuyên ngôn Pastor Aeternus ( số 4) Công Đồng Vaticanô I đã minh xác Đức Thánh Cha được ơn bất khả ngộ ( không thể sai lầm) khi ngài dạy dỗ với tư cách là Chủ Chăn và Tiến  sĩ  Hội Thánh  ( Pastor &Doctor) những gì thuộc hai phạm vi đức tin và luân lý ( phong hóa=moral) buộc Giáo Hội hoàn vũ ( Universal Church ) phải tuân theo và thi hành.

Công Đồng Vaticanô  II ( 1962-65) trong Hiến Chế Tin lý Ánh Sáng muôn dân ( Lumen Gentium, số 25) cũng dạy rằng : các giám mục hiệp thông  với  Giám mục Rôma- tức Đức Thánh Cha, Thủ lãnh Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ, cũng được chia sẻ ơn bất khả ngộ, khi các ngài thông hiệp với  Thủ lãnh của mình là Đức Thánh Cha, để dạy dỗ các tín hữu những gì thuộc hai lãnh vực đức tin và luân lý, buộc phải tin và thi hành cho được rỗi  linh hồn.

Công Đồng nói thêm về ơn bất khả ngộ của Đức Thánh Cha như sau:

“ Chúa Cứu Thế đã muốn cho Giáo Hội của Người bất khả ngộ ( không sai lầm) khi xác định giáo thuyết về đức tin và luân lý(phong hóa); ơn bất khả ngộ này có phạm vi rông rãi tùy theo kho tàng Mặc Khải mà Giáo Hội phải bảo toàn cách thánh thiện và phải trình bày cách trung thực . Giám mục Roma, vị thủ lãnh của Giám Mục Đoàn, hưởng ơn bất khả ngộ đó do nhiệm vụ của mình với tư cách là chủ chăn và tiến sĩ tối cao của mọi Kitô hữu. Ngài củng cố anh  em của mình vững mạnh trong đức tin (Lc 22:32)công bố giáo thuyết về đức tin và luân lý băng môt phán quyết chung thẩm.”( x. LG số 25)

Như thế, việc rửa chân cho phụ nữ không dính dáng hay liên quan gì đến ơn bất khả ngộ mà Đức Thánh Cha và các Giám mục hiệp thông với ngài được hưởng để dạy dỗ không sai lầm về các chân lý đức tin và luân lý. Nghĩa là chỉ trong hai phạm vi này các ngài mới được hưởng ơn bất khả ngộ mà thôi.

Ngoài  hai phạm vi trên, Đức Thánh Cha có thể sai lầm khi tuyên bố điều gì về các lãnh vực, chính tri, kinh tế, văn hóa, khoa học… Nghĩa là chúng ta không buộc phải nghe ngài nói điều gì về các lãnh vực trên. Chỉ buộc phải nghe và thi hành những gì ngài dạy trong hai phạm vi  đức tin và luân lý mà thôi.

Ước mong những giải đáp trên đây thỏa mãn câu hỏi được đặt ra.



Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.

VỀ MỤC LỤC

TUẦN THÁNH ĐỌC LẠI BÀI THƠ « BỐN MƯƠI 1972-2012 » CỦA CHA CUNG CHI ĐINH ĐỒNG THƯỢNG SÁCH - VỀ ĐỜI SỐNG LINH MỤC


   «BỐN MƯƠI 1972-2012» là bốn mươi năm đời linh mục. Vâng, đã 40 năm làm linh mục. Nghĩ lại về cuộc đời mình đã sống chức linh mục. Tổng cộng, từ lúc chào đời ngày 15.08.1939, đến ngày 24.12.2012, nếu lấy chức linh mục làm tiêu chuẩn, và nếu lấy thước đo 40 Thánh Kinh, thì cha Giuse Sách đã theo gót chân các tổ phụ và tiên tri, Noe, Maisen, Elie, Giona và đã theo đường Chúa Kytô.

Nội dung hàm chứa những điển tích Cựu ước và Tân ước uyên thâm, có thể làm độc giả phàm tục choáng váng. Nhưng đọc kỹ, cũng dưới con mắt phàm tục, bài « Bốn Mươi 1972-2012 » là lời tự sự và tâm tình, gói ghém một lời tự sự khách quan và một tâm tình huyền nhiệm.



Nội dung này được bố cục với một cấu trúc chặt chẽ kiểu thơ đường luật. Tiền đề gồm hai khổ 1 và 2 giới thiệu việc chuẩn bị làm linh mục. Chính đề gồm bảy khổ tiếp theo, từ khổ 3 đến hết khổ 10 trình bày, mô tả sự việc đã làm trong 40 năm đời linh mục. Hậu đề gồm bốn khổ sau cùng, từ khổ 11 đến hết khổ 14, vừa diễn tả một cảm xúc về đời linh mục vừa biểu lộ một dự phóng tương lai những năm còn lại. Kết đề là bài thơ đường luật đưa ra một kết luận khái quát toàn bộ nội dung đời linh mục theo hướng mở rộng từ « Phúc Giáng Sinh » và nâng cao đến « Phúc Phục Sinh ».

Thanh Hương Trần Văn Cảnh

 

Đêm Noël 24.12.1972 cha Đinh Đồng Thượng Sách đã được thụ phong linh mục.



40 năm sau, đêm Noël 24.12.2012 đến, nhớ về Giáng Sinh 1972, bao nhiêu tâm tư, bao nhiêu hoài niệm, bao nhiêu cảm xúc, vừa sâu sắc, vừa phong phú, vừa mãnh liệt, vừa như để tự sự, vừa như để cầu nguyện, tạ ơn, đang dào dạt trở về, tất cả đã được gói ghém trong bài thơ « BỐN MƯƠI (1972-2012) » mà thi sĩ linh muc Cung Chi Đinh Đồng Thượng Sách vừa gửi cho người viết [1]. BỐN MƯƠI 1972-2012 là 40 năm linh mục của cha Giuse Đinh Đồng Thượng Sách. Cũng là 40 năm cha phục vụ dân Chúa Việt Nam Paris. Xin chúc mừng cha Giuse Sách, linh mục thành viên rất đa tài, đắc lực và tích cực trong Ban Giám Dốc, đã góp phần xây dựng và phát triển Giáo Xứ Việt Nam Paris. Xin tạ ơn cha Giuse. Bài này được viết ra để « Chúc Mừng 40 năm linh mục của cha Giuse Đinh Đồng Thượng Sách ». Chúng ta sẽ phân tích bài thơ BỐN MƯƠI 1972-2012 của cha Giuse với những nhận định thần học về sứ mệnh và đời sống linh mục rút ra từ Thánh Kinh, với những dữ kiện cụ thể về việc cha Giuse đáp tiếng gọi của Chúa làm linh mục và sống đời linh mục qua những đóng góp vào việc mục vụ Giáo Xứ Việt Nam Paris. Nhưng trước nhất chúng ta hãy đọc bài thơ.

 

BỐN MƯƠI



(1972-2012)

 

40 ngày đêm mưa tầm tã



Nước dâng lên ngập cả thế gian

Khắp nơi người vật tiêu tan

Tầu "No-e" nổi,vì tuân lệnh Trời.

 

40 ngày lụt rồi khô cạn



Cửa mở ra nắng ấm tương lai

Cầu vòng tươi sắc hòa hài

Nhắc lời giao hứa không sai bao giờ.

 

40 ngày thiên cơ núi thánh



Lĩnh thập điều sức mạnh tâm can

"Mai - sen" tổ phụ nét thần

Đóng vai lãnh đạo dẫn đoàn dân riêng.

 

40 ngày ngả nghiêng cất bước



Đôi chân chồn nội lực mòn hao

Miệng khô lưỡi đắng ruột bào

Nhìn về "Hô - rép"vời cao ngại ngùng.

 

Nhờ tâm bánh, nước trong ấm hũ



Uống rồi ăn lại đủ can trường

Ơn trên che chở quan phòng

"Ê - li "vượt hết đoạn đường gian nan.

 

40 ngày thực tâm xám hối



Thành "Ni-vê"nhận lỗi ăn năn

Vua quan cho đến lê dân

Nghe "Gio - na " giảng canh tân đổi đời.

 

40 ngày đêm trời sa mạc



Cuộc trường chay hành xác thân người

Chịu cơn đói khát rã rời

"Sa - tăng"cám dỗ dùng lời chước ma.

 

40 ngày hiện ra đây đó



Chúa phục sinh nâng đỡ môn đồ

Rồi trên mây đẹp xanh lơ

Vinh thăng thiên quốc chờ giờ tái lâm...

 

40 năm cát lầm hoang địa



Mưa "man-na "thấm thía nhường bao

Nước nguồn suối đá tuôn trào

Đoàn dân ưu tuyển tin vào hướng đi...

 

Ôi con số còn ghi rõ đó



Chút tâm tư bày tỏ tri ân

Một đời bốn chục hai lần

Nào lần tuổi thế, nào lần chén thiêng.

 

Ơn vũ lộ "trời nghiêng đất ngừa "



Thân thuyền nan chan chứa hồng ân

Nô tài khoác áo "sứ thần"

Chân run địa mạc, gót trần, non cao.

 

" Lương Huyền Nhiệm"dồi dào phù trợ



Dấu Tình Thương in đỏ lối qua

Tương lai, hiện tại...gần xa

Ôm Hình Bánh Rượu Ngọc Ngà trong tim.

 

Bước một bước, vui tin một bước



Phút lâm chung...nhấn bước cuối cùng

Nhìn lên tin tưởng vô song

Cậy trông phó thác, một lòng kính yêu...

 

40 năm bao điều mới cũ



Mẹ quan tâm lo đủ bốn mùa

Một ngày sớm tối chiều trưa

Một đời khác thể thoi đưa ân tình...

 

Phúc Giáng Sinh



Ngập lụt hồng ân phúc giáng sinh

Non cao vời vợi, sức mong manh

Dấn thân phục vụ, theo chân Chúa

Nhấn bước hy sinh, hiến phận mình

Lãnh nhận Bánh Thiêng, nguồn nghĩa thiết

Thông phần Chén Thánh, suối ân tình

Tấc thành cải quá như chay tịnh

Mỗi lễ dâng lên, mỗi Phục Sinh...

 

Paris 2102 nhớ về



Giáng sinh 1972

CUNG CHI

 

Đầu đề « BỐN MƯƠI (1972-2012) » gồm hai bài thơ. Một bài song thất lục bát 14 khổ với đầu đề « Bốn mươi 1972-2012 ». Một bài đường luật với đầu đề « Phúc Giáng Sinh ». Trình bầy như vậy, có phải Cung Chi ngụ ý rằng « Bốn mươi năm đời linh mục là Phúc Giáng Sinh » ? « Bốn mươi 1972-2012 » và « Phúc Giáng Sinh » là một ? Có phải « Phúc Giáng Sinh » là kết luận của « Bốn mươi 1972-2012 » ? Hay nội dung chính vẫn xoay quanh « Mốn mươi 1972-2012 » ?


 

40, một con số trong Thánh Kinh, Cựu ước cũng như Tân ước. Trong Cựu ước, con số 40 xuất hiện 4 lần : 1- Đại Hồng Thủy thời ông Noê, trời mưa ròng rã suốt 40 đêm ngày (St 7:4, 12, 17; 8;6). 2- Ông Môisê sau khi lập giao ước với Yavê tại núi Sinai, đã ở lại với Ngài tại đó trọn 40 ngày (XH 24:18). 3- Tiên tri Êlia khi bị hoàng hậu Jezebel cho quân lính lùng bắt, đã phải trốn vào sa mạc và đi suốt 40 ngày đêm để tới núi Horeb (1 Vua 19:8). 4- Tiên tri Giôna cho dân thành Ninivê thời hạn 40 ngày để ăn năn sám hối (Jonah, 1-3). Trong Tân Ước, con số 40 đã được nhắc đến hai lần : 1- Chúa Giêsu chịu cám dỗ suốt 40 ngày đêm trong sa mạc (Mt 4, 1-11) và 2- Ngài lên trời 40 ngày sau khi phục sinh (Cvtđ 1:3).


Đọc lại sáu truyện về con số 40, là đọc lại cả một lịch sử cứu thế, mà vai trò của người lãnh đạo dân riêng Chúa, cựu ước cũng như tân ước, đều trổi vượt trong những khó khăn chọn lựa ; khó khăn vì cao cả, vì thử thách, vì khổ nhục ; nhưng cũng đầy khích lệ và vui mừng, vì sau những khó khăn, là những giao ước, những thành đạt, những trở về, những phục sinh. Sau nạn lụt Hồng Thủy là một dòng dõi mới được tạo lập. Sau thời gian gặp gỡ giữa Yavê và Mai sen là một giao ước mới được giao ước. Sau 40 năm lang thang trong hoang địa thì dân Chúa được vào Đất Hứa. Sau 40 ngày ăn chay thì dân thành Ninivê, theo lời giảng của Giona, trở lại với Thiên Chúa. Sau hành trình lên núi Hôreb, thì Êlie được Chúa tăng sức và trở lại sứ mạng của mình. Sau thời gian cầu nguyện và chịu cám dỗ trong sa mạc, thì Chúa Giêsu tràn đầy Thánh Thần bắt đầu loan báo Tin Mừng. Và khi Ngài về trời sau 40 ngày phục sinh, thì Giáo Hội được khai sinh và bước vào giai đoạn truyền giáo. Và dân Chúa hôm nay, trong năm phụng vu, sau Mùa Vọng là Mùa Giáng Sinh, sau 40 ngày Mùa Chay là thời gian chuẩn bị tâm hồn để được hân hoan đón Mùa Phục Sinh.

 

40, một con số trong đời linh mục của cha thi sĩ Cung Chi Đinh Đồng Thượng Sách. « Bốn mươi 1972-2012 » gói ghém một tự sự và một tâm tư đời linh mục, qua 14 khổ song thất lục bát. Tự sự và tâm tư về 40 năm đời linh mục, từ 1972 đến 2012. 40 là một con số dài, và trong đời cha Giuse, con số 40 xuất hiện hai lần :



« Một đời bốn chục hai lần

« Nào lần tuổi thế, nào lần chén thiêng ».

 

40 năm « tuổi thế », theo tiếng Chúa. Và 40 năm « chén thiêng » đời linh mục.



Sinh ngày 15.08.1939, tại giáo xứ Tử Nê, Bắc Ninh, cha Đinh Đồng Thượng Sách đã bỏ ra 33 năm, vo tròn thành 40 năm, tuổi thế để tiến lên chức linh mục. Một quãng đường dài, nhiều cố gắng, lắm thử thách. Thủa nhỏ, cậu Giuse Sách được học chữ nho với ông bác họ, sống ở nhà chung. Cùng học với cậu, còn có người anh là Đinh Đồng Nhất, một số anh em họ hàng và vài cậu bé ở làng bên. Ông bác Thầy đồ dạy học đã đổi tên Đinh Đồng Sách thành ra Đinh Thượng Sách. Sau 1954, cụ thân sinh của cậu làm việc ở Tòa Án xin sắc lệnh tổng thống đổi họ. Họ Đinh trở lại Đinh Đồng ghi trong gia phả. Còn tên Thượng vẫn giữ nguyên. Vì vậy, cậu mới mang tên là Đinh Đồng Thượng Sách. Quãng đường này được gói ghém trong hai khổ đầu của bài thơ « Bốn mươi 1972-2012 ». Lên tầu Noe, vào chủng viện. Rồi ra tầu Noe, tiến lên chức linh mục trong Dòng Thánh Thể Paris. Nói như vậy, sau đây chúng ta hãy cùng nhau khám phá các chặng đường cha Giuse Sách đã đi qua, trong « Một đời bốn chục hai lần » của ngài.

 

1. 1950, chặng một, Chú Giuse Sách lên tầu Noe, bước vào đời chủng sinh Đạo Ngạn Bắc Ninh, rồi học Đại Học Văn Khoa Sài Gòn và Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt. Tối 20.11.2008, linh mục thi sĩ Đinh Đồng Thượng Sách đã dành cho người viết một cuộc nói chuyện lý thú. Trong những đề tài nói chuyện, cha kể cho người viết nghe việc học tập tiến lên chức linh mục của ngài. Đây là những điều ngài kể, mà người viết đã ghi nhận được.



« 1950 vào Tiểu chủng viện Antôn Ninh Đạo Ngạn, Bắc Ninh. Đây là một trường vốn có từ lâu. Nhưng từ khi kháng chiến bùng nổ, thì trường bị giải tán vào năm 1947. Ngày 01.02.1950, Đức Thánh Cha Piô XII tuyển chọn Đức Cha Đa Minh Hoàng Văn Đoàn làm giám mục đại diện tông tòa giáo phận Bắc Ninh (giám mục việt nam đầu tiên cho địa phận Bắc Ninh). Được tấn phong ở Rôma ngày 03.09.1950, ngài trờ về lãnh nhận giáo phận ngày 23.10.1950. Dẫu tình hình chiến tranh khốc liệt, Đức Cha Đoàn đã bắt tay vào việc kiến thiết địa phận. Ngài kiến thiết lại Nhà Chung, trường trung học Vinh Sơn Liêm, thành lập ấn quán chân phước Cẩm và tái lập lại tiểu chủng viện Đạo Ngạn. Ngài giao cho hai cha tổ chức lại tiểu chủng viện và đi tuyển thi các chú. Cha Nguyễn Văn Liêm lo về các môn toán, khoa học,... Cha Nguyễn Bá Thi lo về các môn văn chương, sử địa,.. Đề thi gồm có toán, chính tả, luận văn và một số câu hỏi cho cả vùng. Tôi được tuyển vào tiểu chủng viện Đạo Ngạn và học ở đây cho đến khi thi xong bằng Trung học phổ thông cuối cùng ở Hà Nội  năm 1954.
1954 tất cả các chủng sinh Đạo Ngạn được di chuyển vào Nam. Đức Cha Phạm Ngọc Chi, được ủy thác lo cho hàng giáo sĩ di cư, đã thành lập « Ủy Ban hỗ trợ định cư ». Ngài cho xây cất một căn nhà gỗ gần nhà thờ Huyện Sĩ để tiếp tục công việc đào tạo các tiểu chủng sinh Bắc Kỳ di cư, gồm khoảng 300 chủng sinh của các địa phận Bùi Chu, Bắc Ninh, Hải Phòng, Hưng Hóa, Thanh Hóa và Vinh. Cơ sở chủng viện này nằm cạnh trung tâm Bùi Chu, trường Nguyễn Bá Tòng và trường Hồ Ngọc Cẩn. Các chủng sinh học chương trình tu đức ở chủng viện và học chương trình trung học tú tài ở trường Hồ Ngọc Cẩn.
1958 đậu tú tài, được gởi đi học tiếng latinh ở Thủ Đức. Cùng lúc học latinh thì tôi ghi tên học Đại Học Văn Khoa Sài Gòn.
1959 hết năm học latinh, tôi được gởi lên học Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
1960, rời Giáo Hoàng Học Viện, tôi trở về Sài Gòn tiếp tục học Văn Khoa. Năm 1963, đậu  cử nhân giáo khoa việt hán Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, tôi đi dậy học ở trường Nguyễn Trãi. Hằng năm tôi chấm thi và chủ khảo một trung tâm Tú Tài. Lần chót chấm thi tú tài là năm 1965. Cũng trong năm 1965 tôi đã trình tiểu luận cao học văn chương trung hoa ở Đại Học Văn Kkoa Sài Gòn về đề tài : « Tính chất trữ tình trong văn chương Tào Thực », mà chủ khảo là  giáo sư Nghiêm Toản. Đây là tiểu luận cao học văn chương trung hoa đầu tiên ở Đại Học Văn Khoa Sài Gòn ».

 

2. 1965, chặng hai, Thầy Giuse Sách ra tầu Noe xin nhập dòng Thánh Thể, tiến lên chức phó tế ngày 09.12.1972 tại nhà nguyện Giáo Xứ Việt Nam Paris và linh mục đêm Noël 24.12.1972 trong Dòng Thánh Thể Paris. « 1965 khi tôi vừa trình tiểu luận cao học xong thì Giáo sư Nghiêm Toản hỏi tôi có muốn làm giảng viên dậy đại học không để ông giới thiệu. Nhưng tôi đã cám ơn giáo sư và thưa rằng muốn tiếp tục đi tu. Tôi đã liên lạc với cha bề trên dòng Thánh Thể. Ngày 03.12.1966 tôi từ giã gia đình, bỏ hết mọi sự lại ở Việt Nam, không mang gì theo, lên đường đi Pháp. Tôi vào nhà tập ở gần Mayenne. Năm sau, tôi được gởi sang nhà tập ở Bruxelles, và đi học ở Louvain, cách Bruxelles khoảng 30 cây số đường bộ. Khủng hoảng 1968 thì tôi vẫn còn ở Bruxelles. Năm 1969 tôi được vô học thần học ở Học Viện Công Giáo Paris.


1972, đậu cao học thần học ở Học Viện Công Giáo Paris, tôi được lãnh nhận chức phó tế tại nhà nguyện nhỏ bé của Giáo Xứ Việt Nam Paris, do Đức Cha Daniel PEZERIL chủ phong ngày 09.12.1972 ». Nhận chức Phó tế là nhận giúp Giám mục và hàng linh mục của Người, đồng thời tỏ mình là tôi tớ mọi người trong thừa tác vụ Lời Chúa, Bàn thờ và bác ái. Thầy Giuse Sách đã hứa muốn được thánh hiến do việc đặt tay của Giám Mục và ơn Chúa Thánh Thần, để thi hành thừa tác vụ của Hội Thánh. Muốn gìn giữ mầu nhiệm đức tin trong lương tâm ngay thẳng như Thánh Tông Đồ dạy, và rao giảng đức tin ấy đúng Phúc âm và Truyền Thống của Hội Thánh bằng lời nói và việc làm. Muốn chu toàn nhiệm vụ phó tế với lòng bác ái khiêm nhường để trợ giúp hàng tư tế và hướng dẫn giáo dân thăng tiến. Muốn suốt đời giữ sự độc thân này làm bằng chứng các con đã cống hiến tâm hồn mình cho Chúa Kitô vì Nước Trời để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại. Muốn gìn giữ và gia tăng tinh thần cầu nguyện phù hợp với cách sống của các con, và trong tinh thần ấy, tôi muốn chu toàn các Giờ Kinh Phụng Vụ theo điều kiện của mình, làm một với dân Thiên Chúa, để cầu nguyện cho họ và cho toàn thể thế giới, và muốn không ngừng sống rập theo mẫu gương của Đức Kitô trên mà tôi sẽ chạm đến Mình và Máu Người mỗi ngày trên bàn thờ. Và hứa kính trọng và vâng phục Đức Giám Mục cùng các Đấng kế vị ngài. 
Hai tuần sau, đêm Noël 24.12.1972, tôi được thụ phong linh mục tại nhà thờ Dòng Thánh Thể, Paris Champs Elysées, quận 8. Chỉ có một mình tôi nằm dài trước bàn thờ Chúa. Chỉ có một mình tôi được phong chức linh mục. Ở thời buổi này, một phần do ảnh hưởng xáo trộn của biến cố tháng năm 1968, ơn gọi làm linh mục bị một khủng hoảng lớn, đến nỗi nhiều linh mục giáo sư nổi tiếng của tôi về thần học, về giáo phụ học, về luân lý học, đã bỏ tu mà hồi tục. Người ta chỉ bỏ tu, chứ không mấy ai vào tu. Ngày nay (2008) khủng hoảng ơn gọi vẫn còn, nhưng không mạnh bằng những năm 70 ». Nhận chức linh mục, Cha Giuse Sách đã làm một số lời giao ước khác. Hứa là cộng sự viên tốt của hàng Giám mục trong việc chăn dắt đoàn chiên Chúa theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hứa chu toàn một cách xứng đáng và khôn ngoan thừa tác vụ Lời Chúa trong việc rao giảng Phúc Âm và trình bày đức tin Công giáo. Hứa cử hành một cách đạo đức và trung tín các mầu nhiệm của Đức Kitô, để ngợi khen Thiên Chúa và thánh hóa dân Kitô hữu theo truyền thống của Hội Thánh, nhất là trong hy tế Tạ Ơn và Bí tích Hòa giải. Hứa cầu nguyện mà nài xin lòng thương xót của Chúa cho đoàn dân đã được trao phó, ngày càng liên kết mật thiết hơn với Đức Kitô Thượng Tế, Đấng đã tự hiến mình cho Chúa Cha làm của lễ tinh tuyền vì chúng ta, và có muốn cùng với Người hiến thân cho Thiên Chúa để cứu độ loài người. Hứa kính trọng và vâng phục Đức Giám Mục cùng các đấng kế vị ngài.

 

Đã lãnh nhận chức linh mục, từ đây, cha Giuse dấn thân phụng sự dân Chúa. Từ khổ 3 đến hết khổ 9, mỗi khổ diễn tả một hoàn cảnh đời sống linh mục : 3-Như Maisen tích cực dấn thân lãnh đạo, 4- có lúc ngại ngùng núi cao Hô rép như Elie, 5- nhưng rồi được ăn bánh và uống nước sứ thần mang cho bổ dưỡng Elie lại tiếp tục vượt hết đoạn đưởng gian nan, 6- theo gương Giona giảng canh tân đổi mới, 7- nhưng như Chúa Kytô trong sa mạc, linh mục bị Sa tăng cám dỗ, 8- Chúa Kytô Chúa Phục Sinh hiện ra nâng đỡ, 9- Chúa Kytô thăng thiên ban Chúa Thánh Thần, dân Chúa tin vào hướng đi.



3. 24.12.1972, chặng ba, theo chân Maisen, Cha Giuse Sách tiến lên núi thánh, nhận chức linh mục, nhận « Đóng vai lãnh đạo dẫn đoàn dân riêng » của Chúa, làm việc trong hội Liên Tu Sĩ (1973-1975), trong Trung Tâm Mục Vụ Á Châu (1975-1980), trong Ban Tuyên Úy Việt Nam tại Pháp (1976-Hôm nay) với người tỵ nạn Việt Nam mới qua Pháp và trong Giáo Xứ Việt Nam Paris (1977-Hôm nay). « Chịu chức linh mục xong, tôi ở tại nhà dòng Thánh Thể, nhưng sinh hoạt mục vụ với người việt nam, trong hội Liên Tu Sĩ, trong Trung Tâm Mục Vụ Á Châu và với người tỵ nạn Việt Nam mới qua Pháp.
Trong giai đoạn từ 1973 đến 1975, tôi đặc biệt sinh hoạt với Hội Liên Tu sĩ Việt Nam tại Pháp. Năm 1972, Hội Liên Tu sĩ có tổ chức Tết với kiều bào. Ngày 28.06.1975, tôi tham dự Đại Hội Liên Tu Sĩ. Một Ban Chấp Hành mới đã được bầu ra, với cha Hồng kim Linh, cha Tô ngọc Liên, Sh Trần Cừ và Nt Lệ Mai. Ban Chấp Hành mở ra ba ban sinh hoạt. Cha Ngô Duy Linh phụ trách Ban Phụng Tự Thánh Nhạc. Sơ Huỳnh Thị Na lo Ban Xã Hội. Tôi được trao trách nhiệm phụ trách Văn Phòng Liên lạc.
Từ năm 1975 đến 1977, với làn sóng người Việt mỗi ngày mỗi đông đến Pháp, tôi vẫn làm việc với Hội Liên Tu Sĩ, nhưng đặc biệt lo việc thăm hỏi, giúp đỡ người Việt, lương cũng như giáo, trong các trại tiếp cư vùng Paris, và đôi khi mãi tận trên vùng Picardie. Những trại mà tôi đi thăm nhiều là những trại ở Paris, Sarcelles, Pontoise, Villier sur Marne, Noisiel, Sevran,…Chúng tôi giúp họ dủ chuyện, từ thông dịch, chỉ dẫn giáy tờ, giúp liên lạc, dẫn đi lo thủ tục hành chánh, giúp đỡ thêm về quần áo, lo cho đi du ngoạn, thăm viếng, giúp tìm nhà ở, kiếm việc làm,… Cũng trong những trại tiếp cư này, đối với những người công giáo, chúng tôi đến cử hành lễ chủ nhật, ban bí tích giải tội, dây giáo lý cho trẻ em, dây tiếng pháp, dậy tiếng việt,…Sự gặp gỡ này tạo nên một mối dây liên lạc thân tình. Nhiều người hiện nay đang làm việc tích cực cho giáo xứ là vì đã có những liên lạc với chúng tôi từ hồi đó.
Năm 1976, Chủ Tịch Ủy Ban Giám Mục Pháp về di dân quyết định thành lập Trung Tâm Mục Vụ cho người Đông Nam Á và bổ nhiệm cha Etcharren trách nhiệm, cùng làm việc với hai cha khác là cha Guillard và cha Couessin. Ngày 21.10.1976, đại hội các linh mục việt nam tại Pháp. Hơn 30 vị đã về tham dự tại Tòa Tổng Giám Mục Paris. Tôi được bầu làm thơ ký Đại Hội và được cử vào thành phần trong ban 9 vị có trách nhiệm tổ chức đôn đốc và phối hợp các vấn đề liên quan đến việc phục vụ đồng bào Việt Nam tại Pháp [3]. Ngày 16.11.1976, Ủy Ban 9 vị đã họp tại Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam-Pháp, tôi được giao trách nhiệm cùng với cha Hồng Phúc lo soạn thảo một dự án báo chí. Chúng tôi đã cấp thời phát hành tờ báo « TIN »[4]. Ngày 09.06.1977, cha Trương đình Hoè được bổ nhiệm làm Đại diện bên cạnh các Tuyên úy Việt nam tại Pháp.

Ngày 13.09.1977, cha Trương đình Hoè lại được bổ nhiệm thay thế cha Nguyễn quang Toán làm Giám đốc Giáo xứ Việt Nam vùng Paris. Theo tinh thần của tự sắc ‘Pastoralis Migratorum Cura” Cha Hoè đã lập ra một nhóm nhân sự khá hùng hậu để hoạt động gồm những Anh chị Em LM tu sĩ sau đây : Cha Hoàng quang Lượng, cha Ngô duy Linh, cha Lương tấn Hoằng, Cha Mai đức Vinh, cha Đinh Đồng Thượng Sách, cha Trần ngọc Anh, Sơ Huỳnh Thị Na, Sơ Nguyễn thị Phú, Sơ Trần thị Ái Nhi, Sơ Théophane Thịnh, Sơ Trần Kim Bình, Sơ Louise Duran, và chị Mỹ Phước. Thành phần đông đảo tân lập nầy được gọi là cộng đồng LM tu sĩ VN mà Cha Lượng được cử làm Bề trên.

 

4. 1973-1980, chặng bốn, cha Giuse Sách, như tiên tri Elie, thấy « Nhìn về Hô Rép vời cao ngại ngùng ». Bao nhiêu công sức đổ ra, bao nhiêu thiện chí làm việc, bao nhiêu sáng kiến tích cực. Nhưng vào một thời buổi nhiễu nhương, chia rẽ và nghi ngờ quốc cộng. Chính trị xen vào khắp nơi, vào văn hóa, vào tôn giáo. Một số giáo dân không thoát được những thiên kiến, những ảnh hưởng chia rẽ. Hằng tuần có truyền đơn tố cáo các cha thiên cộng. Người viết nhiều lần đã nhận được những báo chí, truyền đơn tố cáo các cha trong hộp thơ riêng tại nhà ; và hàng tuần đến Giáo Xứ Việt Nam, 15, rue Boissonnade, quận 14, dự lễ chúa nhật cũng đã nhận được các truyền đơn tố cáo các cha ; thậm chí có những chúa nhật một số người đã tụ tập trước cửa nhà thờ, chăng biểu ngữ đả phá Giáo Xứ. Các cha chủ tế và giảng lễ chúa nhật, giảng thế nào mặc lòng, khi cuối lễ, các giáo dân ra về cũng nhận được một tờ truyền đơn, do một vài giáo dân trong giáo xứ thực hiện và phân phát. Làm việc hết sức tận tình và ngay thẳng, nhưng chứng kiến những cảnh ấy, quả là một giai đoạn « 40 ngày ngả nghiêng cất bước, Đôi chân chồn nội lực mòn hao, Miệng khô lưỡi đắng ruột bào, Nhìn về « Hô-rép » vời cao ngại ngùng ».


 

5. 1980-2012, chặng năm, như Elie được ăn bánh và uống nước sứ thần mang cho, cha Giuse Sách được Thánh Thể Chúa nuôi dưỡng, đã « vượt hết đoạn đường gian nan », nhận làm tuyên úy giới trẻ và càng tích cực, hiệu quả hơn. Sơ Sophie Phú và tôi được trao trách nhiệm lo cho giới trẻ. Thời gian 1975-1977, số người trẻ Việt Nam đến Pháp rât đông và không chỉ là sinh viên, nhưng đa tạp với nhiều thành phần xã hội khác nhau. Nhu cầu của họ cũng khác biệt và đa tạp. Chúng tôi đã lập nhiều nhóm giới trẻ khác nhau để đáp ứng nhu cầu xã hội và sống đạo của họ, đồng thời giúp một phần linh hoạt đời sống mục vụ của giáo xứ. Các nhóm đã được thành lập chính yếu gồm : Ca đoàn Giáo Xứ, Nhóm Cầu Nguyện, Nhóm Sống Đạo, Đạo Binh trẻ Tiểu đội « Mẹ nguồn an vui », Nhóm Xã Hội, Nhóm Văn Nghệ, Nhóm Nhạc Dộng, Nhóm Trang Trí, Nhóm Thư Viện, Nhóm Hành Hương, Nhóm Thể Thao, Nhóm Emmaus, Thánh Lễ giới trẻ,…Không kể những sinh hoạt chuyên biệt của mình, tất cả các nhóm trên đều đã được mời tham dự và đóng góp vào Thánh Lễ Giới Trẻ đầu tháng. Ca đoàn lo điều khiển phụng vụ và thánh ca, Trang trí lo trình bày nhà nguện theo đề tài thánh lễ, Xã hội lo ẩm thực, Emmaus làm báo và biếu báo,.. Nhiều nhóm đã được mời tham gia sinh hoạt xã hội để thăm viếng các trại tỵ nạn Créteil, Trévise, L’Hay-les-Roses, .. Nhiều nhóm đã được mời tham gia các chương trình hay chiến dịch đạo đức : Chương trình Rước Ảnh Chúa (1988), Chương trình Mẹ đến thăm con (1990), .. Các bạn trẻ đã kết thành « Chuỗi môi khôi sống. Nhiều nhóm đã được mời tham gia các chương trình văn nghệ « Tiếng ru muôn đời » 1978, « Giữ thơm quê mẹ » 1985, « Màn vũ kính nhớ các thánh Tử Đạo Việt Nam » trình diễn tại thính đường Paul VI, trong buổi triều kiến Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dịp phong 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam năm 1988 tại Rôma,  « Uống Nước nhớ nguồn » (1990), « Mùa gặt mới » (1997),…Sinh hoạt ở giáo xứ thời gian này rất phong phú, sầm uất và linh hoạt. Sinh hoạt ở giáo xứ thời gian này rất phong phú, sầm uất và linh hoạt.


 

6. 1980-2012, chặng sáu, theo gương Giona, Cha Giuse Sách nhận nhiệm vụ tuyên úy giới trẻ, tuyên úy Thiếu nhi, tuyên úy thư viện và ngày văn hóa và tuyên úy Liên Đới Nghề Nghiệp, đã cùng với cha Giám đốc Giuse Vinh « giảng canh tân đổi đời ». Từ những năm 80, cha Giuse Sách và cha Giuse Vinh là hai con rồng hăng say, sáng kiến, tích cực canh tân giáo xứ. Giáo xứ chưa bao giờ được canh tân và phồn thịnh như vậy. Giáo cũng như lương đều coi giáo xứ là làng của mình và đến xum họp. Những đóng góp canh tân phát triển giáo xứ của cha Giuse, trong những năm 80, 90 và 2000 qui về 4 hướng chính : Giáo dục thiếu nhi, Hướng dẫn giới trẻ, phát triển văn học công giáo Việt Nam, Liên đới chuyên gia.


Gốc là nhà giáo, lại được chỉ định lo việc giáo dục thiếu nhi, cha Giuse đã đưa hết tâm huyết làm việc này và ngài đâ thành công vượt bực. Suốt 25 năm qua, từ lúc thành lập vào năm 1986 đến nay 2012, Đoàn Kitô vua Thiếu Nhi Thánh Thể đã luôn giữ được nhịp sống phồn thịnh, có số đoàn viên tăng thêm, có sinh hoạt nhộn nhịp quanh năm. Các thế hệ 80, 90, 2000 và phụ huynh họ đã tỏ lòng biết ơn cha Giuse. Giáo Xứ biết ơn cha Giuse. Bắt đầu sinh hoạt vào mùa tựu trường năm 1985, Đoàn Kitô Vua Thiếu Nhi Thánh Thể đã chính thức ra mắt với Cộng Đoàn vào ngày kết thúc niên học 1985-1986 (22/06), với 84 đoàn sinh. Vào năm 2011 vừa qua, Đoàn Kitô Vua Thiếu Nhi Thánh Thể Giáo Xứ Việt Nam Paris đã long trọng kỷ niệm Lễ Bạc 25 năm thành lập, với 297 đoàn viên, trong đó có 109 ấu nhi, 121 thiếu nhi, và 67 nghĩa sĩ. Ngoài số đoàn sinh, còn có thêm 40 trưởng, 7 huấn luyện viên, 17 giáo lý viên, 1 linh mục tuyên úy và 1 cha sở. Để kỷ niệm Lễ Bạc này, hai buổi lễ đã được tổ chức, trại Jambville 2-3/07/2011 và lễ tại Giáo Xứ do Đức cha Jérôme BEAU chủ tế ngày chúa nhật 23/10/2011. Để có một ý tưởng về kết quả giáo dục của Đoàn Kytô Vua, sau đây là một vài con số : 10 em tuyên xưng Đức Tin ngày 14.05.2011 ; 31 em lãnh phép Thêm Sức ngày 04.06.2011 ; 38 em rước lễ lần đầu ngày 11.06.2011 ; 14 em rước lễ trọng thể ngày 18.06.2011.
Ỡ mục 5 trên đây, chúng ta vừa xem một số công việc mục vụ mà cha Giuse Sách đã đảm nhiệm một cách tích cực và rất hiệu quả. Từ năm 1990, được bổ nhiệm Trưởng Ban Mục Vụ Giới Trẻ toàn quốc, việc mục vụ của cha Giuse với giới trẻ càng phát triển hơn, đặc biệt là sự nối kết Giới Trẻ GXVN Paris với Giới trẻ của các cộng đoàn Việt Nam khác trên nước Pháp. Đại Hội Giới trẻ CGVN lần I tại Athis-Mons, từ 10-13/07/1992, qui tụ 350 bạn trẻ thuộc 26 Cộng đoàn. Đại Hội Giới Trẻ CGVN lần II, từ 14-17/07/1994, qui tụ trên 300 bạn trẻ  về Athis-Mons.
Song song với việc lập đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể tại Giáo Xứ ngày 22.06.1986, việc dậy tiếng Việt phát triển mạnh và nhu cầu thư viện sư phạm tiếng việt càng thấy khẩn thiết. Đó là ý tưởng khởi đầu thành lập Thư Viện Giáo Xứ Việt Nam. Sau nhiều lần trao đổi, Nhóm Thư Viện đã minh định được những tài liệu cần thiết phải có, mà mục tiêu căn bản là giúp họ có phương tiện soạn bài để dậy tiếng việt. Theo những loại sách họ đã tìm được, thư mục chi tiết của Thư Viện của họ trong hai năm 1987-1988 gồm 110 cuốn sách. Công việc thâu góp, tìm kiếm sách báo, dưới sự hướng dẫn của cha Giuse Sách, đã tiến hành đều đặn và ngày 16.4.1990, Thư Viện Giáo Xứ, đã chính thức được cha Giám Đốc Mai Đức Vinh cắt băng khánh thành. Đó là công lớn của cha Đinh Đồng Thượng Sách và nhóm trẻ tha thiết với nền văn hóa dân tộc và tương lai trẻ em, với cộng đoàn và độc giả xa gần. Sáu năm sau, nhờ tinh thần làm việc tự nguyện rất cao của anh chị em trẻ, vào năm 1996, số sách lưu trữ trong Thư Viện đã tăng đến khoảng 3000 cuốn. Ngày nay, 2012, bước chân vào thư viện Giáo Xứ, với khoảng trên 10.000 cuốn sách đủ loại, người ta thấy ngay đây là một thư viện có tầm vóc nghiên cứu. Thêm vào đó, thư viện không chỉ có mục tiêu sư phạm cho các thầy cô dậy tiếng Việt, nhưng còn là nơi để mọi thành phần Việt Nam, lương cũng như giáo, có thể nghiên cứu, trau dồi kiến thức, mượn sách về nhà đọc. Ngoài ra, nhờ sự tận tình và khả năng cao của các anh chị thành viên trong Nhóm Thư Viện, cũng ngay từ năm 1990, một sinh hoạt nghiên cứu và phổ biến văn học Công Giáo Việt Nam đã được thực hiện, khởi đầu vào ngày 11.11.1990 với bài nói truyện của học giả Thái Văn Kiểm về thi sĩ Hàn Mặc Tử. Rồi từ năm 1991, để mừng sinh nhật hằng năm của thư viện, Nhóm Thư Viện đã tổ chức Ngày Văn Hóa, để vừa giúp đồng bào thưởng thức văn nghệ, vừa học hỏi và trao đổi về một văn thi sĩ công giáo : Cha Đắc Lộ, Cụ Sáu Trần Lục, Đức cha Hồ Ngọc Cẩn, Đức Cha Nguyễn Bá Tòng, Ông Trương Vĩnh Ký, Ông Paulus Huỳnh Tịnh Của, Quận Công Nguyễn Hữu Bài, Linh Mục Nguyễn Văn Thích,…Văn hóa là lãnh vực chuyên biệt của cha Giuse Sách, không lạ gì khi ngài hăng say và thành công dễ dàng trong lãnh vực văn hóa này.
Bên cạnh mục vụ văn hóa, cha Giuse còn rất hữu hiệu trong mục vụ xã hội nữa. Sát cánh và rất tích cực trong Ban Giám Đốc, cha Giuse Sách đã cùng với Đức Ông Giuse Vinh và Ban Thường Vụ Hội Đồng Mục vụ, làm thành tam tướng ba chân kiềng thành lập Phong Trào Liên Đới Nghề Nghiệp vào ngày 01.05.2000. Cha Giuse Sách đã góp sức mình vào việc chuẩn bị, vào việc thành lập và vào việc nuôi sống Phong Trào Liên Đới Nghề Nghiệp, đặc biệt là Ngành Chuyên Gia. Cha Giuse đã điện thoại, đi thăm, đến nhà từng người để mời các bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, văn thi sĩ, các giáo sư, giảng sư đại học, luật sư, kỹ sư, kiến trúc sư, các nhà nghiên cứu, tâm lý gia, …Ngày thành lập Phong Trào 01.05.2000, trên 200 người trong năm ngành Liên Đới đã đến tham dự : Thân Hữu Taxi, Doanh Thương, Dịch Vụ, Xây Dựng, Chuyên Gia. Họ đã hội thảo nhóm, có cảm tưởng rất hồ hởi và phấn khởi về tình huynh đệ chân thành và đưa ra 3 đề nghị : Thành lập 5 nhóm Liên đới nghề nghiệp, Lập một văn phòng chung liên ngành, và làm một nghị quyết. Ba đề nghị này đã được tất cả các tham dự viên biểu đồng tình. Phong Trào Liên Đới Nghề Nghiệp đã được thiết lập từ ngày đó và vẫn còn sống đến ngày hôm nay, 2012.

 

7. 1980-2012, chặng bảy, như Chúa Kytô, sau khi bị cám dỗ trong sa mạc, đã di rao giảng Tin Mừng, Cha Giuse Sách, càng bị « Sa–tăng cám dỗ dùng lời chước ma », càng theo gương Chúa Kytô, rao giảng Tin Mừng, nới rộng lãnh vực và công việc mục vụ : làm Tuyên úy cộng đoàn ngoại ô, thành viên Hội Đồng Mục Vụ, Nhóm Mục Vụ Hôn Nhân và Gia Đình Trẻ, Ban Báo Chí, Ban Tu Thư. Cuộc đời là một sa mạc, Satăng cám dỗ. Đó là một sự kiện thực tế. Và sự cám dỗ có trăm ngàn hình thức khác nhau. Chính Chúa Kitô cũng đã bị cám dỗ. Tên cám dỗ đã đưa cho ngài ba điều cám dỗ : "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi"! "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi ! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá". "Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi". Tên cám dỗ đã đưa cho cha Giuse những điều cám dỗ nào ? Chỉ có cha Giuse biết. Trong bài « BỐN MƯƠI 1972-2012 » cha Giuse đã chỉ viết : « 40 ngày đêm trời sa mạc, Cuộc trường chay hành xác thân người, Chịu cơn đói khát rã rời, "Sa - tăng"cám dỗ dùng lời chước ma ». 

Có một điều chúng ta biết chắc chắn là sau khi bị cám dỗ trong sa mạc, thì Chúa Kitô được tràn đầy Chúa Thánh Thần và đã bắt đầu rao giảng Tin Mừng. Điều chắc chắn mà Giáo Xứ Việt Nam Paris đã biết là cha Giuse Sách rất nhiệt tình với giáo dân và nhiệt tâm với giáo xứ. Ngoài những việc vừa nói trong các số 3, 5 và 6 trên đây, rất nhiều công việc mục vụ khác đã được cha Giuse tích cực tham gia thực hiện. Cha đã hăng hái, hiệu năng giúp thành lập Hội Đồng Mục Vụ và cùng với Đức Ông Giuse Vinh luôn luôn có mặt tham dự 59 Đại Hội Mục Vụ HĐMV từ năm 1983 đến nay ; Cha đã nâng đỡ và tham dự tích cực sinh hoạt trong các nhóm : Mục Vụ Hôn nhân Gia đình, Gia đình trẻ, Ban Báo Chí, Ban Tu Thư ; Đặc biệt cha Giuse đã làm tuyên úy cho các cộng đoàn ngoại ô : Cộng Đoàn Noisy Le Grand, từ 1982-1988, Cộng Đoàn Stains Pierrefitte từ 1988-1997, và kể từ tháng 11.1993, cha Giuse được bổ nhiệm làm Tuyên Úy để lo vấn đề mục vụ cho Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam vùng Cergy-Pontoise.

 

8. 1972-2012, chặng tám, có « Chúa Phục Sinh nâng đỡ », Cha Giuse Sách âm thầm thực hiện sứ mệnh linh mục truyền giáo và rao giảng Lời Chúa. « 40 ngày hiện ra đây đó, Chúa phục sinh nâng đỡ môn đồ, Rồi trên mây đẹp xanh lơ, Vinh thăng thiên quốc chờ giờ tái lâm ». 40 ngày sau Phục Sinh, Chúa đã thăng thiên. Và từ đó Giáo Hội được khai sinh và bước vào giai đoạn truyền giáo. Năm 2007, dịp mừng 60 năm thành lập Giáo Xứ Việt Nam Paris, cha Giuse nhờ người viết làm bõ đỡ đầu cho một cụ già gia nhập Giáo Hội và tâm sự : « Đưa người ngoại về với Chúa, đó là ưu tư số 1 của tôi. Mỗi năm tôi ráng hết sức mang Tin mừng cho người ngoại ». Và cha Giuse đặc biệt có khiếu thu phục các trí thức trở về với Chúa. Lần khác ngài chia sẻ : « Làm linh mục là gánh lấy sứ mệnh truyền giáo. Không truyền giáo thì chưa hoàn thành sứ mệnh linh mục. Từ ngày làm linh mục năm 1972, chưa năm nào mà tôi đã không mang được lương dân vào đạo Chúa ». Thành ra, ngoài những công việc mục vụ trong Giáo Xứ mà các giáo dân biết. Còn bao nhiêu công việc truyền giáo, qua những cuộc thăm hỏi gia đình, qua những cuộc thăm viếng nhà thương, bệnh viện, nhà dưỡng lão. Cha Giuse đã làm âm thầm, chỉ người được giao tiếp biết. Chỉ Chúa Phục Sinh biết.


 

9. 1972-2012, chặng chín, Chúa Kytô thăng thiên ban Chúa Thánh Thần, Cha Giuse Sách được « mưa man-na », được « suối đá », luôn là linh mục sùng kính Thánh Thể và sốt sắng cầu nguyện, « tin vào hướng đi » của Giáo Hội. Cha giuse Sách gốc dòng Thánh Thể, ngài có lòng mộ mến Thánh Thể rõ ràng. Trong những năm 70, người viết đã được tham dự Nhóm Cầu Nguyện với Ngài, được chầu Thánh Thể nhiều tối với ngài, được chứng giám những ơn ích nhiệm mầu của bí tích Thánh Thể và giờ chầu Thánh Thể. Ngày nay, các nhóm sinh hoạt với cha Giuse đều được cha Giuse dậy, tập cho việc chầu Thánh Thể, từ các trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể, các bạn Trẻ, đến các giáo lý viên, các chuyên gia,…. Chính nhờ bí tích Thánh Thể, vào những giờ cầu nguyện bên Mình Thánh Chúa, mà các bạn trẻ, các người trưởng thành, các cán bộ mục vụ, v.v.. đã trung thành trong ơn gọi, đã bền chí trong công việc và đã tin vào hướng đi. Nhiều lần người viết đã được nghe Đức Ông Giuse Vinh bảo : « Cha Sách có một lòng mộ mến Thánh Thể phi thường. Mình phải học gương sáng của Ngài. Cha Sách có một đời sống cầu nguyện thâm sâu. Mình đã học gương sáng của ngài ». Quả thực bí tích Thánh Thể đã là manna, là sưối nước bổ dưỡng, như lời cha Giuse viết : « 40 năm cát lầm hoang địa, Mưa "man-na "thấm thía nhường bao, Nước nguồn suối đá tuôn trào, Đoàn dân ưu tuyển tin vào hướng đi ». Chúa đã về Trời, nhưng Người đã sai Thánh Thần xuống, Giáo Hội đã được khai sinh và bước vào giai đoạn truyền giáo, giáo hữu, cả giáo dân lẫn giáo sĩ, chuẩn bị tâm hồn để được hân hoan đón Mùa Phục Sinh.


 

Hai chặng đường đáp tiếng Chúa gọi. Bảy chặng đường thực hiện sứ mệnh tông đồ, sống đời linh mục. Nghĩ lại 9 chặng đường ấy, xúc cảm bồi hồi, cha Giuse « xuất thần », được « ân sủng thánh linh », như mẹ Maria, cha cất lời ca tụng Chúa, bày tỏ lòng tri ân, niềm Tin, Cậy, Mến. Đó là ý nghĩa của 5 khổ còn lại, từ khổ 10 đến hết khổ 14.


 

10. Dạt dào tình cảm, Cha Giuse Sách dâng lời « tri ân », đặt trọn đời mình trong Tin, Cậy, Mến, say sưa phó thác và bình thản, như chưa từng thấy, sống với và đón nhận mọi điều « mới cũ ».  


 

Ôi con số còn ghi rõ đó



Chút tâm tư bày tỏ tri ân

Một đời bốn chục hai lần

Nào lần tuổi thế, nào lần chén thiêng.

 

Ơn vũ lộ "trời nghiêng đất ngừa "



Thân thuyền nan chan chứa hồng ân

Nô tài khoác áo "sứ thần"

Chân run địa mạc, gót trần, non cao.

 

" Lương Huyền Nhiệm"dồi dào phù trợ



Dấu Tình Thương in đỏ lối qua

Tương lai, hiện tại...gần xa

Ôm Hình Bánh Rượu Ngọc Ngà trong tim.

 

Bước một bước, vui tin một bước



Phút lâm chung...nhấn bước cuối cùng

Nhìn lên tin tưởng vô song

Cậy trông phó thác, một lòng kính yêu...

 

40 năm bao điều mới cũ



Mẹ quan tâm lo đủ bốn mùa

Một ngày sớm tối chiều trưa

Một đời khác thể thoi đưa ân tình...

 

11. Và để kết thúc, một cách trang trọng, qua bài đường luật, cha Giuse Sách đã tóm kết rằng « Bốn mươi 1972-2012 » là « Phúc Giáng Sinh », để đón « Phục Sinh »


 

Phúc Giáng Sinh



Ngập lụt hồng ân phúc giáng sinh

Non cao vời vợi, sức mong manh

Dấn thân phục vụ, theo chân Chúa

Nhấn bước hy sinh, hiến phận mình

Lãnh nhận Bánh Thiêng, nguồn nghĩa thiết

Thông phần Chén Thánh, suối ân tình

Tấc thành cải quá, như chay tịnh

Mỗi lễ dâng lên, mỗi Phục Sinh...
  KẾT LUẬN
« BỐN MƯƠI 1972-2012 » là bốn mươi năm đời linh mục. Vâng, đã 40 năm làm linh mục. Nghĩ lại về cuộc đời mình đã sống chức linh mục. Tổng cộng, từ lúc chào đời ngày 15.08.1939, đến ngày 24.12.2012, nếu lấy chức linh mục làm tiêu chuẩn, và nếu lấy thước đo 40 Thánh Kinh thì cha Giuse Sách đã theo gót chân các tổ phụ và tiên tri, Noe, Maisen, Elie, Giona và đã theo đường Chúa Kytô.

Nội dung hàm chứa những điển tích Cựu ước và Tân ước uyên thâm, có thể làm độc giả phàm tục choáng váng. Nhưng đọc kỹ, cũng dưới con mắt phàm tục, bài « Bốn Mươi 1972-2012 » là lời tự sự và tâm tình, gói ghém một lời tự sự khách quan và một tâm tình huyền nhiệm. Nội dung này được bố cục với một cấu trúc chặt chẽ kiểu thơ đường luật. Tiền đề gồm hai khổ 1 và 2 giới thiệu việc chuẩn bị làm linh mục. Chính đề gồm bảy khổ tiếp theo, từ khổ 3 đến hết khổ 10 trình bày, mô tả sự việc đã làm trong 40 năm đời linh mục. Hậu đề gồm bốn khổ sau cùng, từ khổ 11 đến hết khổ 14, vừa diễn tả một cảm xúc về đời linh mục vừa biểu lộ một dự phóng tương lai những năm còn lại. Kết đề là bài thơ đường luật đưa ra một kết luận khái quát toàn bộ nội dung đời linh mục theo hướng mở rộng từ « Phúc Giáng Sinh » và nâng cao đến « Phúc Phục Sinh ».



Chuẩn bi 1939-1972. Cha đã vào tầu Noe, ra tầu Noe, để chuẩn bị xa làm linh mục ở lớp học chữ nho với ông bác, ở chủng viện Đạo Ngạn, Bắc Ninh, ở Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, ở Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt, và trực tiếp chuẩn bị gần ở nhà tập gần Mayenne, nhà tập Bruxelles, Học Viện Công Giáo Paris để đón nhận chức phó tế ở Giáo Xứ Việt Nam Paris và thụ phong chức linh mục ở Nhà Dòng Thánh Thể Paris.

Làm linh mục 1972-2012. Từ 40 năm nay, Cha Giuse Sách đã hiến trọn đời mình phục vụ trong các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam vùng Paris và đặc biệt là Giáo Xứ Việt Nam Paris. Cha đã lên núi Sinai, hướng về Hô rép, đến Ni-vê, làm canh tân đổi đời, vào sa mạc chịu thử thách, được Chúa Phục Sinh nâng đỡ, được mưa Man-na. Khởi đầu làm việc với các tu sĩ, với những người tỵ nạn Á châu, cha được chỉ định chuyên làm việc cho giới trẻ, rồi mở rộng ra với thiếu nhi, dậy tiếng việt, lập thư viện, mở ngày văn hóa, tuyên úy Liên Đới Nghề Nghiệp Chuyên Gia, lan xa đến Hội Đồng Mục Vụ, Nhóm Mục Vụ Hôn Nhân, Nhóm Gia Đình Trẻ, Ban Báo Chí, Ban Tu Thư. Đó là những hoạt động nổi, còn những hoạt động chìm, nhưng có thực, đã luôn luôn được cha Giuse thực hiện, có khi âm thầm một mình, có khi thinh lặng với một nhóm người. Đó là việc truyền giáo và việc sùng kính và cầu nguyện bên Chúa Thánh Thể. Và đời sống huynh đệ trong cộng đồng Ban Giám Đốc.

Tương lai. Dạt dào tình cảm « tri ân », trong Tin, Cậy, Mến, Cha Giuse Sách say sưa, phó thác và bình thản như chưa từng thấy, sống với và đón nhận mọi điều « mới cũ ».  

Kết luận. Và để kết thúc, một cách trang trọng, qua bài đường luật, cha Giuse Sách đã tóm kết rằng « Bốn mươi 1972-2012 » là « Phúc Giáng Sinh », để đón « Phục Sinh »
 

Một bài thơ vắn, gọn, đã tóm chẳng những tất cả cuộc đời 73 năm đã sống, mà còn dự phóng cho những năm sẽ sống. Quá khứ có, hiện tại có, tương lai có. Việt Nam có, Pháp có. Bài thơ đã tóm tắt trên 1000 trang thơ khác đã được cha Giuse Đinh Đồng Thượng Sách viết ra và phổ biến trên báo và sách của Giáo Xứ Việt Nam Paris, mà Ban Tu Thư, đặc biệt là thầy sáu Phạm Bá Nha đã ghi lại trong ba tập « Thương Ngàn Thương », ấn hành và phổ biến trong nội bộ vào năm 2010. Bài thơ « BỐN MƯƠI 1972-2012 » cũng như 1000 trang thơ kia và những bài thơ khác của cha Giuse Cung Chi Đinh Đồng Thượng Sách đã chỉ xoay quanh một đề tài linh mục. Vừa là một kiệt tác về Thần Học Mục Vụ, một mục vụ quản trị học về chức vụ và đời sống linh mục với công việc đào tạo, công việc mục vụ, công việc thánh hóa, công việc truyền giáo và công việc cầu nguyện, ban hành bí tích. Vừa là một kiệt tác về Kytô học, một Kytô học tổng hợp sự tiên báo của các tổ phụ và tiên tri với những lời giảng dậy và những việc làm của chính Đức Kytô.


 

« Bốn mươi 1972-2012 » có một nội dung thánh kinh thâm sâu và thần học uyên bác, lại là một bài thơ song thất lục bát. Lục bát bình dị, nhẹ nhàng, gần gũi và dễ đến với bình dân ; Song thất vừa giảm tính đơn điệu của lục bát, vừa thêm chất trang trọng của kẻ sĩ đường luật. Có lẽ đó là thâm ý của Cung Chi khi dùng Song thất lục bát để gói ghém và chuyên chở cái tâm tư thẳm sâu cũng như cái sức sống mãnh liệt của đời linh mục lãnh đạo dẫn đoàn dân riêng của Chúa ? Và như vậy, Cung chi đã có cùng một chọn lựa như Nguyễn Gia Thiều khi viết Cung Oán Ngâm Khúc, như Ðoàn Thị Ðiểm khi viết Chinh Phụ Ngâm Khúc, như Phan Huy Ích khi viết Tỳ Bà Hành, như Nguyễn Du khi viết Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh ? Phải chăng Cung Chi muốn vận dụng thể loại Song Thất Lục Bát này để hội nhập vào văn thơ công giáo hầu thể hiện hiểu biết về văn chương của các linh mục tu sĩ Việt Nam và chuyên chở một kiến thức rộng lớn về đức tin sâu xa của Thánh kinh và tri thức khoa học bao la của đời sống thực tế ? 


 

Paris, Ngày 27 tháng 12 năm 2012

Tuần 8 ngày Lễ Giáng Sinh, kính thánh Gioan tông đồ chép Phúc Âm

Đọc lại ngày thứ ba tuần thánh 22.03.2016


Thanh Hương Trần Văn Cảnh

 

Ghi chú :



  1. Bài thơ này cha Đinh Đồng Thượng Sách đã gửi cho người viết ngày 19.12.2012, với lời ghi « gửi anh bài BỐN MƯƠI dưới đây để "chia xẻ " với tôi trong dip Noel này ».Sách Sáng Thế Ký, chương 6-9.

  2. Báo TIN, số 1, 25.12.1976, tr. 4

  3. Cha Sách đã gửi báo « TIN », số 1, ngày 25.12.1976 cho người viết với lời nhắn « Mong sự cộng tác của anh ». Suốt từ ngày ấy cho đến hôm nay, trong thái độ tương kính, ngài vẫn giữ một tâm tình mời gọi cộng tác và người viết vẫn giữ một ứng xử cộng tác tích cực.


VỀ MỤC LỤC


tải về 2.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương