Bán nguyệt san – Số 218 – Chúa nhật 16. 03. 2014


BIẾN ĐỔI THEO THÁNH Ý CHÚA



tải về 0.76 Mb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu08.05.2018
Kích0.76 Mb.
#37759
1   2   3   4

 BIẾN ĐỔI THEO THÁNH Ý CHÚA


(CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY, A)



Jos. Vinc. Ngọc Biển

Mỗi khi Mùa Chay về, ấy là lúc chúng ta nghe đây đó văng vẳng bên tai: hãy đi xưng tội; làm việc lành; bố thí; hy sinh hãm mình và ăn chay để đền tội.... Tuy nhiên, điều đó cần, nhưng không đủ, nên Mùa Chay vẫn cứ đến rồi lại đi mà ít làm cho người tín hữu suy tư và quyết định biến đổi con người cũ là con người ích kỷ, kiêu ngạo, tội lỗi, để mặc lấy con người mới, con người giống hình ảnh của Đức Giêsu.  

Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Sự kiện này mời gọi mỗi chúng ta một phần biết sống những đòi hỏi của Tin Mừng. Mặt khác cũng cần phải biến đổi để trở nên con người mới thực sự theo ánh sáng của Tin Mừng, tức là theo thánh ý Thiên Chúa.

1.      Ý nghĩa Lời Chúa

Khởi đi từ bài đọc I: trình thuật việc Đức Chúa kêu gọi ông Abram: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12, 1). Ông Abram đã sẵn sàng vâng nghe tiếng Chúa truyền, sẵn sàng từ bỏ cuộc sống yên ổn tại quê nhà, để lên đường đến nơi Chúa sẽ chỉ cho trong tương lai. Sự ra đi của Abram là một cuộc từ bỏ tiên quyết. Vì thế, Chúa đã hứa ban cho ông và dòng dõi ông hưng thịnh đến độ: trở nên một dân lớn. Ông được chúc phúc, được vinh quang và trở thành trung gian để chúc phúc cho người khác cũng như mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ông mà được chúc phúc (x. St 12, 2-3).

Sang bài đọc II: thánh Phaolô mời gọi người môn đệ dấu yêu của mình là Timôthêô hãy bắt chước ngài như chính ngài đã bắt chước Đức Kitô; đồng thời cũng mời gọi ông cộng tác trên hành trình loan báo Tin Mừng mà thánh nhân đang loan báo. Lộ trình và kế hoạch đó là của Thiên Chúa đã được tiền định từ lâu. Khi được chọn và gọi để tham gia vào sứ mạng đến với muôn dân như thế, người môn đệ phải hiểu, sống và hăng say loan báo về Đấng “ ... đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử” (2Tm 1, 10). 

Cuối cùng là bài Tin Mừng: thánh Mátthêu trình thuật biến cố Đức Giêsu hiển dung như một sự kiện toàn cho tất cả những gì đã tiên trưng trong Cựu Ước mà sách Luật và lời các tiên tri đã loan báo.

Hình ảnh của Đức Giêsu sáng chói được hiện lên trong vai trò là nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Ngài hiển dung giữa hai vị đặc biệt có liên hệ đến mình là Môsê và Êlia. Tại sao lại có sự xuất hiện hy hữu và đặc biệt này? Thưa! Điều đó dễ hiểu vì:

Môsê là nhà lập luật cho Đạo Dothái. Sự hiện diện của ngài muốn nói lên rằng: nhiều lần, Đạo luật Môsê báo trước về Đấng Cứu Độ, và hôm nay Đấng Cứu Độ ấy chính là Đức Giêsu đang xuất hiện. Tiếp theo, ngụ ý rằng, Đức Giêsu đến thế gian không phải để hủy bỏ Luật cũ, và lập lên một thứ đạo hoàn toàn mới. Nhưng Ngài đến để bổ xung, hầu cho nó được kiện toàn.

Còn Êlia chính là vị ngôn sứ quan trọng trong thời Cựu Ước. Sự hiện diện của ông có thể được hiểu là đại diện cho các ngôn sứ. Bởi vì ngài là người đã gìn giữ và canh tân Luật Môsê. Điều đặc biệt hơn cả nơi tiên tri Êlia chính là vị tiền hô của Đấng Cứu Thế (x. Ml 3, 23-24).

Sự hiện diện của hai nhân vật điển hình cho thời Cựu Ước có mặt trong cuộc biến hình của Đức Giêsu muốn nói lên sự gạch nối giữa Cựu Ước và Tân Ước.  Đồng thời qua biến cố này, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các môn đệ về bản tính của mình trong vinh quang, để các ông đi vào Mầu Nhiệm Ánh Sáng của ơn cứu độ. Vì thế, thật hạnh phúc cho các ông khi được nếm trải trước giây phút huy hoàng của Nước Trời.

Đây là một trong hàng trăm ngàn phần thưởng mà Đức Giêsu hứa ban cho những ai bỏ mọi sự mà đi theo Ngài. Vì thế, Phêrô đã thốt lên: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, hay quá! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, Ngài một cái, ông Môsê một cái, và ông Êlia một cái” (Mt 17, 4). Khi các ông còn đang ngây ngất như thế, thì Chúa Cha xuất hiện như một lời chứng về Người Con yêu quý của mình; đồng thời cũng mặc khải cho các ông hiểu rằng: muốn được vào vinh quang thì phải vâng nghe lời Đức Giêsu. 

 

2.         Hãy vâng nghe Lời Người

Nếu trước đó, Đức Giêsu đã mời gọi những môn đệ từ bỏ mọi sự để đi theo mình, đồng thời  Ngài cũng đưa ra khuôn mẫu của người môn đệ cần có là: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Lúc khác, Ngài nhấn mạnh hơn khi nói: "Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10, 37). Rồi ngài cũng tiên báo cho các ông biết rằng: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10, 22).

Những điều kiện mà Đức Giêsu vạch ra và đòi hỏi các môn đệ đi theo như thế, không phải là một con đường xa lạ đối với Ngài, bởi chính Ngài đã vâng lời Thiên Chúa để đi trên con đường đau khổ đó hầu cứu chuộc nhân loại. Vì thế, đã nhiều lần Đức Giêsu tiên báo về cuộc thương khó của mình để các ông hiểu rõ sứ vụ của thầy và chính các ông sẽ tiếp bước (x. Mt 16, 24). Lời mời gọi này được Đức Giêsu đưa ra đúng vào thời điểm mà các môn đệ đang tranh nhau chỗ nhất, nhì trong vương quốc của Ngài; lại có những môn đệ đang so đo tính toán thiệt hơn, thì có thể sẽ làm cho các ông chùn bước vì phải bước đi theo Thầy trên hành trình đầy gian nan khốn khổ và chết chóc.

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không để các môn đệ của mình thất vọng, nên ngay sau khi tiên báo về cuộc thương khó lần thứ nhất, người đã đưa các ông lên trên núi để biến hình trước mặt các ông, hầu như một động lực nâng đỡ và khuyến khích họ tiến bước trên con đường khổ giá. Việc Đức Giêsu biến hình là một lời mời gọi cho các môn đệ: nếu muốn được vào vinh quang thì phải trải qua thập giá. Muốn tiến tới hạnh phúc vĩnh cửu thì cũng phải biến đổi hình dạng, tức thay đổi con người cũ trở thành con người mới, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu.

Qua biến cố này, Đức Giêsu hé mở cho các ông thấy một chút tương lai của cuộc hành trình ấy. Đây chính là phần thưởng mãn nguyện, tuyệt vời nhất mà Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ thân tín của mình.

Nhưng để được như vậy, người môn đệ phải trải qua con đường tập giá, phải biến đổi.

Ngày hôm nay, Đức Giêsu cũng đang mời gọi mỗi chúng ta đón nhận cùng một sứ điệp như đã mặc khải cho các môn đệ khi xưa.



3.      Một cuộc biến đổi của chúng ta

Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Êphêsô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối [...] và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để sống thật sự công chính và thánh thiện” (Ep 4,22.24). Thật vậy, chúng ta theo Chúa, là chúng ta phải chấp nhận con đường phưu lưu, đầy gian khổ và đôi khi cả cái chết nữa. Chấp nhận biến đổi. Như vậy, người đi theo Chúa và sống những điều Chúa đòi hỏi phải là những người liều. Liều vì Chúa. Liều vì sứ mạng. Liều vì Giáo Hội. Chứ không phải liều cách mù quáng. Liều vì bị ép phải liều.

Biến đổi! Lời mời gọi mang tính quyết định. Nếu chúng ta không biến đổi con người cũ là con người tội lỗi như: tham, sân, si, của bản năng con người, thì chúng ta chẳng khác gì dòng sông không chảy, một cái ao tù được tạo thành ngay trong tâm hồn những ai cố chấp không chịu biến đổi.

Tuy nhiên, nói biến đổi thì dễ lắm, nhưng khi thực sự quan tâm mới thấy là khó.

Trong đời sống thực tế, chúng ta vẫn thấy đây đó có nhiều người hô hào canh tân, đổi mới, cách mạng, nhưng là thứ biến đổi mù quáng, nhằm tôn thờ khoái lạc, coi trọng tiền bạc, thượng tôn quyền thế, và đề cao những thứ hạnh phúc nhất thời, tạm bợ. Họ sẵn sàng bỏ qua hay coi thường sự hy sinh, nhẫn nại, khiêm nhường... Canh tân như vậy thì không những không đem lại cho con người hạnh phúc, mà lại mở đường đưa con người vào chốn diệt vong. Canh tân như thế chính là canh tân, hy sinh theo kiểu Biệt Phái, chứ không theo cung cách và đòi hỏi của Tin Mừng.

Trong đời sống đạo hiện nay nơi chúng ta, hẳn mỗi người không lạ gì khi vẫn thấy đây đó những người luôn tự hào, can đảm cũng như sẵn sàng vác thánh giá cho cả làng, nhưng thánh giá của chính mình thì đè đầu ấn cổ và bắt người khác vác thay. Hy sinh như thế là hy sinh người khác chứ không phải hy sinh chính mình. Lại có những người hy sinh giả tạo mà Đức Hồng y Fx. Nguyễn Văn Thuận đã nói đến trong sách Đường Hy Vọng: “Trong một cuộc hành hương long trọng, nghìn vạn người tham gia, ai cũng muốn vác thánh giá đi tiên phong. Nhưng trong cuộc hành hương của mỗi ngày, mấy ai sẵn lòng vác thánh giá của mình? Anh hùng thinh lặng khó lắm!” (ĐHV số 171).

Biến đổi giả tạo hay ngụy trang như vậy thì chẳng khác gì “đánh bùn sang ao”. Thậm chí còn tệ hơn trước. Họ hô hào cách mạng người khác, chứ bản thân thì không hề thay đổi. Những người như thế được ví như: “Thay quần, thay áo, thay hơi, thay dáng, thay dấp, mà người chẳng thay” (Ca dao). Những chuyện “đao to búa lớn” được cất lên hiệu triệu để làm cho con người, cuộc sống, xã hội được tốt hơn, nhưng trên thực tế không biết bao lần nhân loại đã phải đau đớn mà nhận định rằng: “thay đổi kiểu đó thì chẳng khác gì ‘treo đầu dê, bán thịt chó’”, hay “cái đầu thì không thay đổi mà chỉ ngồi bẻ mấy đốt ngón tay”.

Biến đổi và canh tân mà sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta thi hành chính là: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Đòi hỏi này phải chăng rất khó! Tuy nhiên, con đường này là con đường dẫn đến hạnh phúc, bình an và hoan lạc. Nhưng tiếc thay, con đường này rất ít người đi.

Thật vậy, con người ngày hôm nay rất sợ hy sinh, và người ta tìm mọi cách để làm sao cho mình thoát ra khỏi những sự bất trắc của cuộc sống. Nhưng nên nhớ rằng: chúng ta là người kitô hữu, nên nếu tránh gian khổ, chúng ta đừng mong làm thánh. Hay thánh mà không qua đau khổ chính là thánh giả, thánh lâm thời. Khi những đau khổ, gian nan thử thách ập đến, nước sơn giả tạo bên ngoài phai nhạt đi thì lúc đó tượng thánh sẽ lộ hiện lên nguyên hình Quỷ.

Cuộc đời của chúng ta đi theo Chúa không chỉ có chuyện hoa thơm, trái ngọt; chỉ có niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống; nhưng vẫn luôn còn đó những thất bại, mật đắng, dấm chua... Nhưng điều quan trọng là ta “thay thái độ để đổi cuộc đời” và phải hiểu rằng: thử thách gian khổ là "giấy phép theo Chúa" để hưởng hạnh phúc hân hoan với Chúa: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thánh giá..." (ĐHV 714). Sống được như thế, thì trong mọi hoàn cảnh, mọi biến cố chúng ta đều: "loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại".

Như vậy, Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy xé lòng chứ đừng xé áo. Hãy hướng về Đức Giêsu để làm một cuộc cách mạng biến đổi cái cũ là tội lỗi, ích kỷ, tham lam, kiêu ngạo... để trở thành một con người mới với nhiều hoa thơm nhân đức như: hy sinh, từ bỏ, khiêm nhường, dấn thân, liên đới và bao dung...

Lạy Chúa, xin cho chúng con được ơn biến đổi và canh tân. Xin tăng thêm niềm tin cho chúng con để chúng con can đảm bước theo Chúa cho trọn cuộc đời, hầu qua đau khổ, chúng con được tiến vào vinh quang Nước Trời. Amen.

 

VỀ MỤC LỤC


ĐỆ TAM NHÃN  –  CON MẮT THỨ BA  

Tác giả


Linh Mục Vincent Travers, OP 

ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚA

Nguyên Tác

IN STEP WITH GOD 

Dịch giả: Đỗ Tân-Hưng (Nhà Văn Hương Vĩnh)



C.- MÙA CHAY

Bài suy niệm 21



ĐỆ TAM NHÃN  –  CON MẮT THỨ BA  

“Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê. Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. 

Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu và hai nhân vật đứng bên Người. Đang lúc hai vị này từ biệt Chúa Giêsu, ông Phêrô thưa với Người rằng: ‘Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia.’ Ông không biết mình đang nói gì. 

Ông còn đang nói thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: ‘Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!’ 

Tiếng phán vừa dứt thì chỉ còn thấy một mình Chúa Giêsu. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.” (Lc 9, 28-36) 

* * * * * 

Theo đoạn Phúc Âm trên đây, Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Tabo với Chúa Giêsu. Sau khi chứng kiến sự lạ, Phêrô la lên: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!” 

Thật thế, các ông thấy được một khía cạnh nơi Chúa Giêsu mà các ông chưa bao giờ nhìn thấy trước đó. Điều này lưu lại một ấn tượng sâu xa giúp các ông đứng vững trong những ngày đen tối đầy thử thách đang trải dài trước mắt các ông. Từ đây trở đi, Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần là một rabbi, con ông thợ mộc ở Nagiarét. Giờ đây Ngài là Chúa Kitô, con yêu dấu của Thiên Chúa.

 

Đã thấy vinh quang 

Dòng chữ đầy ý nghĩa nhất ở trong phần mở đầu của đoạn Phúc Âm này là: “Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê.” Chúng ta cũng có thể nhớ lại một dịp về sau khi Ngài đem riêng bộ ba đó theo Ngài. Đó là khi ở trong vườn Giếtsêmani.

Ở trên núi Tabo, họ đã thấy vinh quang của Chúa. Ở trong vườn cây dầu, họ đã chứng kiến cảnh hấp hối của Chúa. Đó là lúc trèo lên núi cao và đó cũng là khi tụt xuống đất thấp. Ở trên cao họ đã được hỗ trợ cho khi phải xuống đất thấp.

Kinh Tiền Tụng trong Thánh lễ Chúa nhật thứ hai Mùa Chay đã ghi lại như sau: “Ngài đã mạc khải vinh quang của Ngài để tăng sức cho họ khi phải đối diện với sự nhục nhã của thập giá.” Thật đúng như vậy, nhưng một câu hỏi đã được đặt ra: “Còn đối với chúng ta thì sao?” 

Chúng ta có thể đối diện với nhiều chống đối và bách hại, thử thách và áp lực, nếu chúng ta có được một dấu chỉ về sự hiện diện của Chúa cho thấy rồi ra cuối cùng mọi sự sẽ được êm xuôi, đâu vào đấy. Chúng ta có điều gì để bám víu vào, có mạc khải nào cho thấy chúng ta sẽ trải qua cơn khủng hoảng khi mất đi một người thân yêu, khi bị sa thải mất việc hoặc bị chối bỏ trong một sự tương giao mà những điều đó xem như là cả một vũ trụ đối với chúng ta? Câu trả lời là “”.  

Trong thực tế, chúng ta đã có những lúc được thấy Chúa hiển dung khi Ngài tự mạc khải cho chúng ta. Chỉ cần chúng ta thấy – thấy và nhận thấy điều gì đang xảy ra đó. Sự nghịch lý lớn lao ở trong Thánh kinh là: ai có đôi mắt thì bị mù, còn ai mù thì có thể thấy.

 

Thiên Chúa vô hình 

Những nhà thần bí đã đề cập đến “đệ tam nhãncon mắt thứ ba”. Họ nói tới việc nhìn thấy với con mắt của linh hồn. Họ nói cho chúng ta rằng nếu chúng ta nhìn xem bề ngoài thì chúng ta đánh mất điều cơ bản, cái thực tại ở bên trong. Có một câu đầy ý nghĩa trong sách “The Little Prince” (“Vị Tiểu Hoàng Tử”). Câu đó là: “Điều gì cơ bản thì con mắt không thể thấy được.” 

Một quyển sách khác – quyển “Reaching For The Invisible God” (“Nắm Bắt Thiên Chúa Vô Hình”) – đã đặt câu hỏi: “Ở đâu chúng ta có thể trông mong gặp được Thiên Chúa Vô Hình?” Thi sĩ Ái-Nhĩ-Lan là Joseph Mary Plunket, với khả năng con người, đã nhìn thấy Thiên Chúa vô hình ở trong thiên nhiên. Ông đã cảm hứng viết ra bài thơ sau đây: 

Tôi đã thấy huyết Ngài trên đoá hoa hồng,

 Và vẻ đẹp của đôi mắt Ngài trên những vì sao.

 Thân thể Ngài chiếu sáng giữa màn tuyết trắng muôn thuở,

 Những giọt lệ Ngài rơi lã chã từ bầu trời cao.” 

Thiên nhiên đã cung ứng cho thi sĩ Plunket những dịp Thiên Chúa hiển dung và ngạc nhiên thay, ông đã chiêm ngắm vinh quang Thượng Đế trong một đoá hoa tươi, một hạt mưa rơi và một cụm tuyết trắng. 

Chúng ta cũng thế, chúng ta được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa vô hình với khả năng con người chúng ta. Không phải đôi khi chúng ta đã bảo một người thân yêu “hãy tìm kiếm chúng ta” trong đám đông đó sao?  Họ đã làm như vậy, và thật thế, đã tìm thấy chúng ta; chúng ta vui sướng biết bao khi thấy họ nhận ra chúng ta trong đám đông đó.  

Chúng ta hãy nhận ra Thiên Chúa với con mắt linh hồn. Ngài đến với chúng ta không phải theo cung cách chúng ta nhưng theo cung cách của Ngài. Có thể chúng ta không nhận chân sự hiện diện của Ngài trừ khi chúng ta cố nhìn ra Ngài.

 

Thiên Chúa trong tô cháo gà 

J.D. Salinger đã viết quyển sách “Fanny and Zooey” khiến người đọc phải choáng váng. Một cảnh gây nên ấn tượng mạnh mẻ là khi Fanny từ trường cao đẳng về nhà, thần kinh bại hoại thê thảm. Cô đang nghiên cứu tỉ mỉ môn thần bí tôn giáo và cố gắng đó đã khiến cô căng thẳng tột độ.  

Thêm vào đó, mẹ cô cảm thấy lo lắng bồn chồn và để biểu lộ điều đó, bà đã dọn cho cô một tô cháo gà. Fanny rõ biết mẹ cô đang ra sức an ủi cô nhưng sự chăm sóc đó chọc giận cô khiến cô văng tục. 

Em trai Fanny đang ngồi bàn ăn, nhảy nhổm lên và đối đầu với cô. Cậu thẳng thừng bảo cô là toàn bộ lối tiếp cận của cô đối với tôn giáo đều sai bét hết: “Nếu tôn giáo là điều chị tìm kiếm, thì đây là lúc có người nói cho chị biết là chị đang đánh mất mỗi một tác động tôn giáo đang xảy ra trong căn nhà này. Chị không có chút nhận thức nào khi thưởng thức một tô cháo gà đã được thánh hoá và đó là loại cháo duy nhất mà mẹ dọn ra trên bàn ăn này.”

Cậu em đã thấy điều mà cô chị không trông thấy. Cậu đã nhìn thấy – với con mắt thứ ba – sự mạc khải của tình yêu Thiên Chúa ở trong tô cháo gà của mẹ cậu.  

Fanny mù mắt. Cô có đôi mắt nhưng cô đã không thể thấy. Cô đã không thể thấy Chúa Kitô ở trong cuộc sống tầm thường. Cô không thể thấy Ân Sủng Thiên Chúa trong một tô cháo gà. Có thể cô đã ganh tị với Phêrô, Giacôbê và Gioan khi họ ở trên núi Tabo, nhưng cô cũng có một kinh nghiệm về Thiên Chúa hiển dung và giả như cô đã quan sát, có thể cô đã được biến đổi và cô sẽ la lên: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, thật thích thú được ở nơi đây, tại bàn ăn này.” 

Sự mạc khải có thể đã nuôi dưỡng cô, nâng đỡ cô khi sa sút tinh thần và giúp đỡ cô qua cơn khủng hoảng.

 

Thiên Chúa ở đây 



Đối với chúng ta thì sao? Chúng ta cũng có thể chứng kiến những cuộc Thiên Chúa hiển dung ở trong đời sống chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều đó, nhưng thường khi đôi mắt chúng ta mất cơ hội thấy Ngài trong cuộc sống thường nhật – khi chúng ta thưởng thức một tô xúp nóng, khi ngắm xem một buổi chiều tà hay một đoá hoa xinh, khi được trao tặng một nụ cười tươi, khi đón tiếp những người anh em chị em bất hạnh nhất của chúng ta.  

Thánh kinh cho biết rõ hoặc là chúng ta thấy Chúa khắp mọi nơi hoặc là chúng ta không thấy Ngài ở đâu hết. Mỗi một cuộc thăm viếng của Thiên Chúa vô hình là một lúc đầy ân sủng khiến chúng ta phải la lên: “Lạy Chúa, chúng con ở đây thật thích thú biết bao!” 

Thích thú cho đến nỗi Phêrô, Giacôbê và Gioan đã muốn ở lại mãi trên đỉnh núi Tabo. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn dắt họ xuống núi. Không ai sống mãi trên một đỉnh núi. Thỉnh thoảng người ta lên đó một lúc và rồi sau đó phải đi xuống thật xa để có những hoài vọng và cảm hứng mới.

Chúng ta phải xuống núi.  Sống là sống trong những thung lũng, làng mạc và thị thành. Chính ở đó có nhà cửa, trường ốc, bệnh xá, nhà tù, công sở, hảng xưởng và dinh thự…Đó là nơi người ta sinh hoạt, nơi có sự yêu thương và tha thứ, nơi có được miếng cơm manh áo, nơi vác thánh giá hằng ngày, nơi pha lẫn tiếng khóc lẫn tiếng cười, đàn hát nhảy múa kể cả sinh hoạt cho phần rỗi linh hồn.

Đó là nơi làm cho những mảnh đời chúng ta có ý nghĩa. Đó là nơi chúng ta đem thi thố những hoài bão và ước vọng. Chúng ta nên làm chiếu toả ánh sáng của núi Tabo trong đời sống chúng ta, ánh sáng mà qua đó bộ mặt nhân loại của chính Thiên Chúa được mạc khải.


VỀ MỤC LỤC


GIẢI ĐÁP THẮC MẮC : LINH MỤC BẤT XỨNG, CẦU NGUYỆN CHO THAI NHI, CHỨNG HÔN CHO NGƯỜI ĐỒNG TÍNH.


Xin cha giải đáp  các thắc mắc sau đây:

1-    Linh mục bất xứng làm lễ có thành hay không ?

2-    Có cần cầu nguyện cho các thai nhi hay không ?

3-    Có được chứng hôn cho các cặp hôn nhân đồng tính hay không ?

Trả lời:

1-    Thế nào gọi là linh mục bất xứng ?

Tôi  không hiểu rõ ý của người hỏi về câu này. Chắc muốn nói đến các linh mục không tôn trọng kỷ luật độc thân của Giáo Hội ?  hay sách nhiểu tình dục trẻ em ?( Sexual abuses of children) ? hay không có chức linh mục mà dám làm lễ  giải tội ?

Nhưng dù câu hỏi là thế nào, thì cũng xin được  giải thích  rõ như sau :

Trước hết, theo thành ngữ Latinh  Ex opere  Operato  về thần học bí tích ( sacramental theology) thì bí tích thành sự ( validly) vì được cử hành đúng theo Nghi thức bí tich ( Sacramental Rite) của Giáo Hội chứ không thành sự vì phẩm chất  hay xứng đáng ( worthiness) của thừa tác viên cử hành ( minister)

Mặt khác, khi cử hành bất cứ bí tích nào, như  rửa tội, thêm sức, Thánh Thể, hòa giải, sức dầu bệnh nhân .v.v Thừa tác viên con người như linh mục và Giám mục  phải cử hành nhân danh Chúa Kitô ( in persona Christi) chứ không nhân danh cá nhân mình. Nghĩa là chính Chúa Kitô rửa tội, thêm sức, cử hành Thánh lễ Tạ Ơn ( Eucharist), giải tội và sức dầu .. qua tay thừa tác viên con người. Vì thế ,bí tích thành sự vì chính Chúa Kitô làm chứ không phải là linh mục hay giám mục.

Đây là nền tảng thần học của Giáo Hội về việc cử hành các bí tích .

Tuy nhiên, dù nhân danh Chúa Kitô , nhưng thừa tác viên  vẫn phải theo đúng nghi thức mà Giáo Hội đã qui định. Thí dụ, bí tích rửa tội chỉ thành sự khi thừa tác viên dùng nước và công thức Chúa Ba Ngôi ( Trinitarian format). Không có nước để đổ trên đầu hay trên trán trẻ em hay người lớn  và đọc  đúng công thức trên thì bí tích không thành sự dù thừa tác viên là  giám mục, linh mục hay phó tế.

Cũng vậy, nếu không có chức linh mục thực sự thì không thể cử hành thành sự các bí tích Thánh Thể, Hòa giải, Thêm sức  và Sức dầu bệnh nhân. Phải nói lại điều này vì  nghe đồn có người kia đã giả danh linh mục để cử hành thánh lễ cho một Công Đoàn và giải tội cho nhiều người cho đến khi bị phát giác và bỏ trốn !

Trở lại với câu hỏi đặt ra, thì xin trả lời là cho dù bất xứng đến đâu theo nhãn quan của người đời, linh mục đã được chịu chức thành sự,  vẫn cử hành thành sự các bí tích khi áp dụng đúng Nghi thức bí tích và Phụng vụ của Giáo Hội. Nếu linh mục “ bất xứng “ theo cách suy diễn của giáo dân, thí dụ đang sống chung hay giao du thân mật với phụ nữ,   ăn cắp tiền của giáo xứ, cờ bạc, làm gương xấu… thì khi cử hành bí tích nhất là bí tích Thánh Thể,  sẽ  mắc thêm tội “ phạm thánh= Sacrilege”và vi phạm giáo luât số 916 cấm không được làm lễ và rước lễ ai đang có tội trọng.Tuy nhiên   bí tích vẫn thành sự như đã nói ở trên, vì linh mục cử hành nhân danh Chúa Kitô chứ không danh danh cá nhân mình.

 Như vậy, giáo dân cứ an tâm đi xưng tội hay tham dự Thánh lễ do các linh mục cử hành, cho dù biết linh mục nào “bất xứng” theo nhãn quan con người.

Vị nào thật sự “bất xứng” thì  đã có Chúa phán xét không sai lầm. Chúng ta chỉ nên cầu nguyện cho các linh mục , đặc biết cho linh mục nào bị coi là “bất  xứng” theo phán đoán của dư luận mà thôi, chứ không nên rỉ tai nhau để làm xấu, mất danh dự của nạn nhân.

2-    Có nên cầu nguyện cho các thai nhi hay không ?

Chắc câu hỏi này liên quan đến các bào thai bị giết trong bụng mẹ tức là bị phá thai ( abortion) như thực trạng đang sảy ra ở khắp nơi trên thế giới hiện nay.. Đây là một tội ác, một trọng tội xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa là nguồn mạch của mọi sự sống của  con người và vạn vật trong vũ trụ hữu hình này.

Nhưng tiếc thay, không những ở các quốc gia vô thần mà ngay ở các quốc gia có truyền thống Kitô Giáo lâu đời như Pháp ,Ý, Đức, Tây Ban Nha, Canada và nhất là ở Hoa kỳ, việc phá  thái đã được công khai cho phép, khiến hàng triệu thai nhi đã bị giết ở Mỹ mỗi năm. Đây là một sỉ nhục cho niềm tin Kitô Giáo mà đa số người Mỹ vẫn tự nhận mình là Christians, là tín đồ của các giáo phái Tin lành,  Chính Thống và Công Giáo La Mã, nhưng có rất nhiều phụ nữ  đã phá thai hay phụ giúp vào việc này.

Liên quan đến các bào thai bị giết khi còn đang phát triển trong lòng mẹ, chúng ta tin chắc rằng các bào thai này hoàn toàn vô tội vì chưa được sinh ra mà đã bị giết nên,  không thể được rửa tội để được tha hậu quả của tội nguyên tổ ( original sin). Còn tội cá nhân, thì chúng chưa được sinh ra nên cũng  không  thể có tội cá nhân được. Vì thế , chúng ta không cần phải cầu nguyện cho chúng vì chúng hòan toàn vô tội,  và xứng đáng được Chúa nhân lành đón nhận vào Nước Hằng Sống.  Các bào thai này thực đáng thương vì bị tước mất quyền sống bởi  chính cha mẹ và xã hội vô luân ,vô  tín ngưỡng.

Như vậy, có cầu  xin thì phải cầu cho những ai  đã  hay  sắp  phá thai hoặc  giúp cho việc phá thai được thành tựu, để họ nhận biết tính chất nghiêm trọng  của việc sai trái này  mà từ bỏ cũng như ăn năn sám hối vì vô tình hay cố ý phạm tội sát nhân này.

3-    Có  được phép chứng hôn cho người đồng tính không ?

Đây là một vấn đề đang gây nhức nhối cho những ai biết tôn trọng và bảo vệ truyền thống hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Đây không những là truyền thống tốt đẹp của mọi nên văn hóa nhân loại từ xưa đến nay,  mà trên hết,   còn là một định chế linh thiêng ( sacred institution) được chính Thiên Chúa thiết lập từ đầu khi  tạo dựng con người có nam có nữa. Và  Adam và Eva  là cắp hôn phối đầu tiên Thiên Chúa đã se kết và  truyền cho họ sinh  sôi nảy nở  cho thật nhiều , cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. ( St  1:  28)

Nghĩa là hôn nhân chỉ được thành lập giữa một người nam và một người nữ cho mục đích “ sinh sôi nẩy nở”  như Thiên Chúa đã truyền cho Adam và Eva.

Nhưng đáng buồn thay là một số quốc gia trên thế giới- đặc biệt là Hoa Kỳ- người ta đang muốn định nghĩa lại hôn nhân để cho phép các người đồng tính ( gay & lesbian) kết hôn như những người bình thường khác.


Giáo Hội không lên án hay chỉ trích những người có khuynh hướng bất thường về phái tính ( Abnormally  sexual tendency), nhưng chắc chắn không thể công nhận hôn nhân của những người này  được vì trái tự nhiên( unnatural)  và vô luân ( immoral).

Giáo luật số 1096, triệt 1 qui định rằng:   Để có sự ưng thuận kết hôn, điều cần thiết là hai người kết hôn phải biết ít ra rằng hôn nhân là đời sống  chung vinh viễn giữa người nam và người nữ, nhằm đến việc sinh sản con cái bằng việc giao hợp sinh lý cách nào đó.”

Giáo lý của Giáo Hội cũng dạy rằng : Giao ước hôn nhân nhờ đó một người nam và một người nữ làm thành một cộng đoàn cho cả cuộc đời , tự bản chất nó hướng tới lợi ích của những người phối ngẫu  cũng như hướng tới việc sinh sản và giáo dục con cái . Giao ước này đã được Chúa Kitô nâng lên hàng bí tích giữa những người đã nhận lãnh pép Rửa tội. ( SGLGHCG ,số 1601)

Như thế không thể có hôn nhân giữa hai người nam hay hai người nữ được  vì không có luật nào của Giáo Hội cho phép việc này. Chắc chắn như vậy.

Cho dù các xã hội “ bệnh hoạn và mỵ dân” đã công nhận hôn nhân của những người đồng tính, nhưng những cặp hôn nhân này  không thể xin hợp thức hóa hôn nhân của họ trong Giáo Hội Công Giáo được vì những lý do  nêu trên. Tuy chưa có giáo luật mới ngăn cấm việc này, nhưng để bảo toàn định chế hôn nhân  mà Thiên Chúa đã thiết lập từ đầu và được Chúa Kitô nâng lên hàng bí tích, thì trong thực hành mọi linh mục cũng hiểu rằng Giáo Hội sẽ không  bao giờ nhượng bộ  trào lưu tục hóa của thế giới mà cộng nhân hôn nhân đồng tính,  vì việc này đi ngược lại mục đích của hôn nhân như giáo lý và giáo luật hiện hành của Giáo Hội qui định.  

Ước mong những giải đáp trên đây thỏa mãn những câu hỏi được đặt ra.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
VỀ MỤC LỤC


CHRISTOPHER REEVE



 

Christopher Reeve (1952 – 2004) là một diễn viên kiêm đạo diễn điện ảnh nỗi tiếng tại Hoa Kỳ, đặc biệt với bộ phim Siêu Nhân (Superman) đã làm cho tên tuổi anh được nhiều người chú ý và cảm mến. Tuy nhiên, vào ngày lễ Tưởng Niệm năm 1995, Christopher bị ngã ngựa; hậu quả là cổ anh bị gãy và khó thở. Một Siêu Nhân giờ đây phải đối diện với phận người giới hạn và bị bại liệt. Tuy nhiên, trong cuốn tự truyện của anh, anh đã cho người đọc thấy giá trị tự do chọn lựa bằng thái độ đáp trả với hoàn cảnh qua dòng suy nghĩ của anh: “Tôi nghĩ người anh hùng thật sự là những con người bình thường, họ tìm được sức mạnh để chịu đựng trước những gian khổ thách đố mà họ gặp phải.”[1]

* * *

Thường khi chúng ta đối diện với một hoàn cảnh khó khăn trong đời, ví dụ như hoàn cảnh của Christopher Reeve, thái độ thông thường chúng ta hay phản ứng là một loạt câu hỏi “tại sao.” Tại sao tôi phải chịu số phận này? Tại sao con người tôi đã hành động xấu như thế? Tại sao tôi đã có lời nói thiếu kiểm soát như vậy?... Cứ như thế, hết câu hỏi “tại sao” này lại đến cấu hỏi “tại sao” khác. Câu hỏi “tại sao” có thể giúp ta tìm giải pháp cho những vấn đề về khoa học kỹ thuật, nhưng nó không thể giúp ta giải quyết được vấn nạn của cuộc đời. Thực tế cho thấy, dường như càng cố hỏi “tại sao” thì càng thấy bế tắc tìm câu trả lời cho nó. Càng cố tìm hướng trả lời cho câu hỏi “tại sao” thì càng nhìn mình và lấy mình làm trung tâm. Càng lấy mình làm trung tâm thì càng bị lệ thuộc và nô lệ cho cái tôi của mình. Lấy mình làm trung tâm một cách nào đó là biểu hiện sự thiếu tự do đích thực. Chính vì lẽ đó, thay vì là hỏi “tại sao” ta nên đặt câu hỏi “làm thế nào?”



Viktor Frank, một tù nhân của Đức Quốc Xã đã chia sẻ: “Khi mọi thứ đã bị tước đoạt... thì có một điều cuối cùng của một nhân vị mà không ai có thể tước đoạt được - đó là sự tự do – tự do để chọn lối suy nghĩ.”[2]Nghịch lý, nhưng chí lý với suy nghĩ của Viktor Frank!

Cuối cùng, tự do chọn lối suy nghĩ là điều không ai tước đoạt khỏi con người của ta được. Sự tự do ấy có thể áp dụng ngay trong câu hỏi, thay vì là “tại sao,” ta có thể hỏi “làm thế nào” để tôi đáp trả hoàn cảnh này? Một tù nhân mà cứ loay hoay hỏi “Tại sao tôi bị bắt, tại sao tôi phải ở đây, tại sao tôi đã hành động như thế, tại sao tôi liên lạc với người đó,...?” thì cứ tiếp tục bị bế tắc trong nhà tù. Nhưng nếu tù nhân đặt câu hỏi “Làm thế nào để tôi ra khỏi đây sớm hơn, khoẻ mạnh, bình an ngay trong phòng giam này.” Điều này sẽ giúp anh ta được giải thoát ít nhất là không bị quẩn trí với những hoàn cảnh tiêu cực mà mình đang đối diện trong nhà tù. Đó chính là sức mạnh tự do chọn lối suy nghĩ mà không ai có thể tước đoạt khỏi chúng ta được.

Tương tự như thế, khi đã đối diện một căn bệnh, thay vì là câu hỏi “tại sao” chúng ta nên bắt đầu bằng “làm thế nào” – Làm thế nào để tôi phục hồi sức khoẻ tốt hơn. Khi bị cô đơn ruồng bỏ bạc tình, chúng ta đừng nên hỏi “tại sao” mà nên là “tôi cần đáp trả hoàn cảnh này như thế nào?” Khi bị thất nghiệp, khi bị chê cười, khi bị thất bại, đừng nên hỏi “tại sao” nhưng là “làm thế nào để tôi đáp trả lại hoàn cảnh này tốt nhất.” Khi bị vấp ngã, yếu đuối lỗi tội đè nặng trong tâm hồn, ý niệm “tại sao” sẽ dẫn ta vào ngõ cụt chính ta không lối thoát, nhưng với ý niệm, “với thân phận yếu đuối của tôi, làm cách nào để tôi vẫn phụng sự Chúa và phục vụ anh em tôi” sẽ giải thoát chúng ta khỏi ngục tù của chính mình.

Thưa bạn, cũng như Christopher Reeve,ai trong chúng ta lại không gặp khó khăn, bệnh tật, thất bại, yếu đuối? Nếu cứ loay hoay tìm câu trả lời cho vấn nạn “tại sao” chúng ta sẽ kiệt sức và bỏ qua biết bao cơ hội giá trị đẹp trong đời. Khi bị lấy đi tất cả, mất đi tất cả, điều cuối cùng chúng ta vẫn còn đó là sự chọn lựa được bắt đầu từ lối suy nghĩ – thay vì là “tại sao” ta nên bắt đầu bằng “làm thế nào.”

Fr. Huynhquảng

[1] Alex Pattakos. Prisoners of Our Thoughts: Viktor Frankl's Principles for Discovering Meaning in Life and Work (Kindle Locations 535-538). Kindle Edition.

[2] Alex Pattakos, (506-506).

 

VỀ MỤC LỤC



LIÊN QUAN GIỮA CÁI CHẾT VÀ VẤN ĐỀ THIÊN CHÚA THEO QUAN NIỆM CỦA FEUERBACH [1]



Gs. Trần Văn Toàn

Tiến sĩ Trần Văn Toàn:, nguyên giáo sư triết học ĐH Huế, Sài Gòn, và Đà Lạt (1960-1965), ĐH Lovanium (Kinshasa, Congo, 1965-1973), và ĐH Công Giáo Lille, Pháp (1963-1996). Tác giả nhiều biên khảo về triết học và tôn giáo bằng Việt và Pháp ngữ.

Thiên khảo luận này đã viết bằng Pháp văn « La mort et  le problème de Dieu dans la pensée de Ludwig Feuerbach» và in trong tạp chí Revue philosophique de Louvain (Bỉ), t. 73 (1975), tr. 304-361. Nay tu bổ thêm và viết lại bằng tiếng Việt.


Cái mộ chôn con người ta

chính là nơi sinh ra các thần linh

So ist das Grab der Menschen

die Geburtstätte der Götter

(Feuerbach, Sämtliche Werke, I, tr 369)



(tiếp theo kỳ trước)

3 - Cái chết, tính bất tử và ý niệm Thiên Chúa 

Trong sách Những cảm nghĩ …  Feuerbach có ý minh chứng rằng Thiên Chúa cũng chính là cái chết của con người cá nhân. Ông viện ra hai chứng lý : một là vì Thiên Chúa là tình yêu, mà tình yêu là khuynh hướng đòi vượt ra ngoài hay là xóa bỏ giới hạn của cá nhân ; hai là vì Thiên Chúa là nền tảng đã tạo ra các vật khác bên ngoài cá nhân.

Ý kiến đó đã được giải thích trong bài Vấn đề tính bất tử ... như sau : “ Cái chết, hay là Thiên Chúa, thì cũng là một, Thiên Chúa chỉ là bản tính của cái chết đã được nhân cách hóa ; vì tất cả các đặc tính của cuộc đời và hiện hữu thiết thực, như thể xác, thời gian, nhu cầu, ước muốn, đam mê, tính bất thường, khuyết điểm, đều tiêu tan đi trong Thiên Chúa, cũng như trong cái chết. Vì thế người ta gọi cái chết là đi về Thiên Chúa, thành ra thần – người thời Thượng cổ cũng gọi như thế ( ... )” [63].

Về tính bất tử, thì ta có thể ngạc nhiên một điều, là : trong Những bài khóa trình về bản chất của tôn giáo (Vorlesungen über das Wesen der Religion, thuyết trình năm 1848-1849), Feuerbach nhắc lại rằng không những vấn đề con người bất tử có liên quan đến vấn đề Thiên Chúa, như Kant đã nêu ra, mà hơn nữa hai vấn đề cũng chỉ là một (Xem : Bài khóa trình II); ông lại chua thêm trong khóa trình XXIX : “Trong biểu tượng, trong lý thuyết, thì tính bất tử là hậu quả của niềm tin Thiên Chúa, nhưng trong thực hành hay trong thực tế, thì niềm tin con người bất tử lại là nền tảng cho niềm tin có Thiên Chúa”[64].  Điều đáng ngạc nhiên là vì bây giờ nói như thế, mà trước kia lại bảo rằng cái chết và Thiên Chúa cũng là một.

Thực ra thì ngay trong phần kết luận của sách Những cảm nghĩ ...  Feuerbach đã chủ trương rằng cái chết, tính bất tử và Thiên Chúa, đều không là gì hết, và ông chỉ muốn nói có một điều là cái thế giới hình sắc này mới là thiết thực mà thôi. Cho nên trong những hàng chữ cuối cùng của Những khóa trình ... Feuerbach tuyên bố gắt gao rằng công tác của ông, đó là: “đổi những người mến Thiên Chúa, thành những kẻ yêu con người, đổi những tín hữu thành những nhà tư tưởng, đổi những người cầu nguyện thành những kẻ làm việc, đổi những người đang sửa soạn vào thế giới bên kia thành những kẻ tìm hiểu thế giới bên này, đổi những tín đồ đạo Thiên Chúa, là những người cho rằng mình một nửa là thú vật một nửa là thiên thần, thành ra những con người, hoàn toàn là con người”[65].

Cũng không khó hiểu gì, vì nếu chỉ có thế giới hình sắc, nếu chỉ có cá nhân hữu định là có thực, thì cái chết, tính bất tử, cũng như Thiên Chúa, đều không là gì cả. Như đã nói trên đây, Feuerbach cho rằng tin có linh hồn bất tử tức là tin có ma. Cũng thế ông viết về khoa Theologie tức là thần học hay là Thiên Chúa học : “Thần học là tin có ma. Khoa thần học thông thường thì thấy ma do trí tưởng tượng trong phạm vi hình sắc, còn khoa thần học suy luận thì thấy ma do óc trừu tượng trong phạm vi vô hình sắc”[66]. 

Tuy vậy, nếu Thiên Chúa không có thực, thì cái ý niệm “Thiên Chúa” cũng không phải là vô nghĩa. Vì ý niệm đó nói lên cái bản tính của con người và cái bản tính của thiên nhiên. Nó chỉ là một ý niệm, một cái tên dùng để chỉ loại (Gattungsname, Gattungswort), một cái tên chung, đã được nhân cách hóa. Cho nên tin có Thiên Chúa, tin có bất tử, chẳng qua chỉ là tin rằng nhân loại là chân thực, là vô biên, bao trùm được cá nhân hữu hạn vậy[67].

 

4 – Feuerbach và cánh chung luận (Eschatologie) của Hegel 

Các bài vở của Feuerbach về các chết và tính bất tử thì đã được viết vào lúc đầu và lúc cuối quãng thời gian mà vấn đề cánh chung luận, nghĩa là vấn đề cứu cánh cuối cùng của con người, đang được tranh luận sôi nổi trong nhóm đồ đệ của Hegel. Cuốn sách nặc danh Những cảm nghĩ ... (1830) của ông, tuy có tính cách tiên phong và đã làm cho ông mất hẳn con đường tiến thân trong đại học, nhưng cũng không có âm hưởng là bao nhiêu.

Quan niệm Hegel về tính bất tử thì mãi ba năm sau mới được Fr. Richter bắt đầu đem ra tranh luận, với sự tham gia của Ch. H. Weisse, C. Fr. Goeschel, C. Conradi , v.v. Tuy vậy những điều tranh luận của họ kể là không ảnh hưởng gì đến Feuerbach  khi ông này cho xuất bản bài Vấn đề tính bất tử ... (1846)[68].  Đã thế, cũng như Feuerbach đã nhận định, dần dần họ cũng lại hạn hẹp cánh chung luận vào một vấn đề tính bất tử của cá nhân mà thôi[69].

Thực ra Hegel và Feuerbach không còn quan niệm cứu cánh của con người như nhau, vì hai người đã đứng vào hai lập trường triết lý khác nhau.

Một đàng thì Hegel muốn phá quan niệm nhị nguyên, tách rời thế giới bên này với thế giới bên kia, cho nên nhìn cái chết và tính bất tử theo một lối độc đáo. Vẫn biết là ông công nhận rằng quan niệm tính bất tử và ý niệm Thiên Chúa có liên quan với nhau, nhưng ông không có ý nói đến tính bất tử của con người sau khi chết, cũng không cho rằng Thiên Chúa phải tách rời ra khỏi toàn thể thực tại. Albert Chapelle chú giải quan niệm Hegel như sau : “ Theo như suy tư triết học thì phải hiểu tính bất tử của linh hồn như là sự có mặt của Tinh thần khách quan và phổ thông ở trong cái ý thức chủ quan của cá nhân. Theo lý luận biện chứng thì nó cũng chính là cái chết của cá nhân ...  Nếu bảo rằng sau khi cá chân chết đi thì vẫn còn tiếp tục một nếp sống cá nhân, thì tức là chưa nhận ra chân lý về mặt tinh thần của cái bản tính phải chết của con người : như thế nghĩa là chưa nhận ra rằng cái chết chính là chỗ Tinh thần xuất hiện ra như là phủ định thể tuyệt đối ...  Cái chết của tôi cũng chính là tôi ở trong Tinh thần“ [70].

Nên nhớ rằng Hegel không quan niệm Tinh thần là cái ý niệm trừu tượng, nhưng là cái tổng hợp cái ý niệm trừu tượng với cái cá vật cụ thể ; ông nói đến cái chết của đức Ki-tô, vừa là người vừa là Thiên Chúa, nghĩa là cái chết của Thiên Chúa, và vì thế cho nên khi đức Ki-tô chết, thì các yếu tố nhân loại, có hình sắc đều tiêu tan đi, lúc đó mới có điều kiện để Tinh thần xuất hiện một cách toàn diện. Có thế ông mới tương đối hóa được cái chết, cái chết của đức Ki-tô, nhưng Hegel tránh không nói đến cái chết của con người.

Trái lại thì Feuerbach không nói đến Tinh thần, vì ông quan niệm nó là quá trừu tượng, cũng không nói như Hegel về đức Ki-tô, nhưng ông nói đến nhân loại, vì có vẻ thiết thực hơn. Trong quan niệm đó thì bất cứ ai là người có hình sắc, kể cả đức Ki-tô, đều chết mất tăm, chết một cách dứt khoát. Feuerbach lấy lại lập luận của Hegel, cho rằng thân xác có chết đi, thì đó mới là điều kiện để con người trở thành tinh thần. Nhưng có điều là nếu không phải vừa là người vừa là Thiên Chúa, mà chỉ là con người mà thôi, thì làm sao chết rồi lại trở nên tinh thần được ? Chính Feuerbach cũng nhận rằng người chết không còn là gì hết đối với chính mình, mà chỉ còn là đối tượng của kỷ niệm của người còn sống mà thôi.

Rốt cục thì Feuerbach đẽ trở lại quan niệm duy vật của Epikouros.

Mấy nhận xét tổng quát 

Người ta có thể biết được gì ?

Sau khi Hegel (1770-1831) mất thì các đồ đệ đem vấn đề tính bất tử và vấn đề Thiên Chúa ra tranh luận. Đặt hai vấn đề đó, không phải là để biết vậy, trong lúc trà dư tửu hậu, nhưng là để biết xem cái đời sống hạn hẹp này có ý nghĩa gì, có đáng sống hay không. Người đương thời đã quen với quan niệm rằng Thiên Chúa là siêu việt tuyệt đối và con người cá nhân sẽ được bất tử ; nhưng hai niềm thâm tín đó không còn được bảo đảm trong hệ thống triết học của Hegel nữa.

Feuerbach thừa tự được của Hegel quan niệm cho rằng cái có tính cách tổng quát và bao trùm thì chiếm phần ưu tiên. Nhưng cái tổng quát đó là gì, thì ông đã thay đổi lập trường nhiều lần. Khi viết luận văn tiến sĩ (1828) thì ông cho đó là “lý trí duy nhất, phổ thông, vô biên“, sau thì ông cho đó là nhân loại, và sau cùng thì lại cho đó là thiên nhiên, là cái đối nghịch với cái Tinh thần của Hegel.

Đứng vào quan điểm của thực tại toàn diện, thì mạng sống hay cái chết của con người không có quan trọng gì, nhưng đối với cá nhân có ý thức về mình, về vũ trụ, và đang băn khoăn về vận mệnh của mình, thì lại rất quan trọng. Đối với Feuerbach, hễ đã là một hiện hữu cá biệt thì tất nhiên là hữu hạn, về mặt thể xác cũng như tinh thần, và vì thế có chết cũng là lẽ đương nhiên. Cái khuynh hướng yêu thương là một dấu chỉ rõ ràng là con người phải vượt ra bên ngoài cái giới hạn cá nhân để hòa mình với toàn thể nhân loại.

Tuy vậy, theo như Feuerbach thì cá nhân ai cũng có cái bản năng tự tồn, làm cho người ta muốn tồn tại, và nếu không tính lâu dài, sống được ngày nào hay ngày ấy, thì hoạt động của con người thành ra vô nghĩa. Cho nên người ta coi cái chết là một viễn tượng không thể chấp nhận được. Feuerbach giải thích rằng chính vì thế mà người ta vượt ra bên ngoài giới hạn của lý trí và của thế giới này, rồi dùng biểu tượng và tưởng tượng, mà hình dung ra cá nhân được bất tử ở trong thế giới bên kia. Niềm tin đó có phổ thông mấy đi nữa, thế giới bên kia có được mô tả một cách tỉ mỉ phong phú đến đâu đi nữa – như nhiều tôn giáo đã làm – thì cũng chẳng minh chứng được gì cả, vì đó chỉ là những hình ảnh nói lên sự thật của thế giói này mà thôi. Hơn nữa, mô tả như thế chỉ tỏ ra là người ta còn thiếu văn hóa, trí tưởng tượng vẫn còn lông bông bên ngoài lý trí và thực tại.

Trong viễn tượng ấy, cái lâu bền không phải là cái hiện hữu chốc lát của cá nhân, nhưng là thực tại vô biên của nhân loại. Cá nhân cũng biết như thế, nhưng vì  quên rằng chính mình tham gia vào thực thể vô biên của nhân loại, cho nên hình dung ra nhân loại như là một thực tại siêu việt, ở bên ngoài mình. Và cái đó, ông kết luận, chính là ý niệm Thiên Chúa vậy : Thiên Chúa là ý niệm nhân loại được coi như là thực tại biệt lập.

Xét như thế thì Thiên Chúa chỉ là một ý niệm tiêu cực, vì, cũng như nhân loại, Thiên Chúa chỉ là cái xác định giới hạn của cá nhân, là cái phủ nhận cá nhân. Thiên Chúa là cái chết của cá nhân. Và vì thế, như đã trưng dẫn ở đầu bài này, Feuerbach cho rằng “cái mộ chôn con người ta chính là nơi sinh ra các thần linh“. Còn những điểm tích cực của ý niệm Thiên Chúa, thì trong sách Bản chất đạo Thiên Chúa (1841), và trong Những khóa trình về bản chất của tôn giáo (xuất bản năm 1851), Feuerbach coi đó chỉ là những đặc tính của con người và của thiên nhiên mà thôi.

Feuerbach đinh ninh rằng một khi lý trí phát triển, văn hóa lan rộng, thì  những biểu tượng về Thiên Chúa sẽ không còn nữa, và  từ nay người ta sẽ chỉ còn để tâm lo lắng cho nhân loại trong thế giới này mà thôi. Các phong trào nhân bản về sau, tuy có khác nhau, nhưng cũng đều lấy lại ý kiến này.

Nói như Feuerbach rằng cái chết chỉ thành vấn đề đối với cá nhân, thì cũng đúng. Trong cuốn sách Thử bàn về ý nghĩa của cái chết [71], triết gia Jules Vuillemin cũng xác nhận rằng con vật thì không thấy, không ý thức được cái chết, không đặt vấn đề cái chết, vì lẽ nó không có vận mệnh riêng, mà chỉ sống chìm trong giống, hay là trong loại của nó, chứ không sống như là một cá vật biệt lập có ý thức. Con người là cá vật có ý thức, là một nhân vị, cho nên mới thấy cái chết là một vấn đề đối với vận mệnh riêng của mình.

Nếu Feuerbach chủ trương rằng con người đặt vấn đề như thế là không được, là không phải lẽ, thì là vì ông, cũng như Hegel và Marx, không quan tâm đến giá trị của nhân vị cá biệt, mà cho rằng chỉ có cái tổng quát, như : Tinh thần, nhân loại, mới là có giá trị, còn con người cá nhân thì cũng chỉ là một vật sống chìm trong đó, như con vật sống một cách vô danh, đồng nhất với loại với hạng của nó. Feuerbach không giải quyết vấn đề, vì ông cho là không có vấn đề. Ông chỉ xét lý, chỉ đứng vào quan điểm lý trí. Có điều là lý trí chỉ là một khả năng hình thức, nó đem hình thức suy luận lý thuyết, có lý sự, mạch lạc và thứ tư, vào trong các vật liệu cụ thể, do cảm giác, quan niệm, cảm tình, ước vọng, hành động, làm cho những yếu tố đó hợp lý. Nhưng tự nó trống rỗng, nếu không có vật liệu cụ thể. Ông không xét đến ước vọng của con người, vì nó đi ra ngoài thực tại có hình sắc trước mắt, và cho đó là vô lý, là không thiết thực. Nhưng như thế là bỏ mất một thành tố quan trọng của con người. 



Người ra có thể hi vọng gì ?

Đến đây ta có thể đặt ra câu hỏi sau đây : Phải chăng những tư tưởng về Thiên Chúa và về thế giới bên kia bao giờ cũng làm cho người ta lãng quên công việc ở thế giới bên này và không còn nghĩ gì đến việc tranh đấu cho phẩm giá con người ? Nếu quả là như thế thì cứ việc xóa bỏ những tư tưởng đó đi thì phẩm giá con người sẽ được đề cao. 

Nếu trả lời là có như thế, thì cũng không phải là hoàn toàn sai : ta biết có những người nại vào thế giới bên kia, để trốn tránh việc đời, có những chế độ lấy danh nghĩa Thiên Chúa, Thượng đế, mà dùng bạo động đàn áp con người. Nhưng ta cũng thấy có nhiều trường hợp lịch sử trong đó người ta không tin Trời Phật hay Thiên Chúa nào cả, thế mà con người vẫn bị đè nén, không những vì tư lợi hay lợi ích của tập đoàn, thậm chí của vị lãnh tụ cao minh đang cầm quyền ; mà còn nhân danh những ý niệm trừu tượng, những thần tượng, như : nòi giống, dân tộc, giai cấp, nhân loại, xã hội tương lai, v.v.  Như thế đã rõ là chính câu hỏi trên đây cũng cần được điều chỉnh cho xác đáng, vì lẽ có khá nhiều quan niệm khác nhau về Thiên Chúa và về thế giới bên kia, như ta biết và như Hegel đã trình bầy trong Những khóa trình về triết lý của tôn giáo.

Điều chỉnh như thế cũng là đặt thêm một câu hỏi khác : Chắc gì là những quan niệm mà Feuerbach phê bình lại hoàn toàn đúng như quan niệm của người tín hữu về Thiên Chúa và về thế giới bên kia ?

Tuy vậy cũng phải công nhận là Feuerbach có công khá lớn, là đã phê bình triệt để các biểu tượng về thế giới bên kia. Vì hễ đã nói là thế giới bên kia – “bỉ ngạn”, bờ bên kia, theo kiểu nói của nhà Phật – thì tất nhiên phải công nhận là nó ở bên ngoài phạm vi của cảm giác, của những hình ảnh mà ta theo kiểu mẫu thế giới bên này mà tạo ra. Feuerbach đã nhận xét rằng khi nói về thiên đường hay địa ngục, là những thế giới mình chưa bao giờ kinh nghiệm được, thì có nhiều tôn giáo thường lấy những hình ảnh ở thế giới này để mô tả, để tô vẽ, cho nó có vẻ đáng yêu hay đáng gớm.

Nếu thế giới hình sắc của chúng ta là hữu hạn, thì ta đoán được là bên kia giới hạn của nó, có thể có cái gì khác, nhưng ta chưa chắc là có, tuy vậy đôi khi ta có lý do để dám chắc là có, dám tin là có. Ví dụ về thời gian : xét cho cùng thì chỉ có thực tại hiện hữu là có thực bây giờ, dĩ vãng thì đã có rồi, và tương lai thì chưa có cho nên bây giờ thì nó không có thực. Nhưng ta biết là không thể coi nó là hoàn toàn hư vô. Vì rằng thời gian có bề dầy của nó : dĩ vãng bây giờ vẫn còn nằm trong ký ức của ta, làm cho ta có thể “ rút kinh nghiệm“ để hành động bây giờ cho hữu hiệu ; còn tương lai, tuy nó chưa có thực, nhưng bây giờ nó đã có trong đầu óc ta với tư cách là “dự định“, vì nhờ có nó mà ta lên khuôn sẵn cho hành động. Nếu người ta chỉ bám vào cái có sẵn chốc lát trước mắt, không sống theo bề dầy của thời gian, không dám có hi vọng gì hết, thì sẽ không bao giờ có dự định gì cho mình hay cho xã hội cả. 

Tuy Feuerbach không đem lại hi vọng gì, nhưng từ nay trở đi, khi nói về hi vọng thế giới bên kia, người ta không thể bỏ qua những điều ông đã phê bình.

Ví dụ : trong giáo hội Tin lành, có một số nhà thần học cũng làm theo Feuerbach, nghĩa là không chủ trương quan niệm nhị nguyên (tách rời linh hồn với thể xác, rồi cho là sau khi chết thì linh hồn bất tử vẫn tồn tại), và cho rằng chết là hết con người. Ta đọc trong sách Già đi và chết  của Roger Mehl về đạo Thiên Chúa : “ Có lẽ đây là trường hợp duy nhất : có một tôn giáo không ngần ngại trình bầy cái chết như là sự hủy diệt hoàn toàn của con người, của linh hồn trong âm phủ, một tôn giáo không ngần ngại cao tuyên trong lễ nghi trọng đại nhất là lễ Đại tạ (Eucharistie) : “Chúng tôi loan báo là Chúa đã chết ...” . Cái thuyết dậy về sự sống lại thì hoàn toàn không có liên quan gì với thuyết dậy rằng con người vẫn tiếp tục sống sót (survie), hay là với thuyết dậy rằng linh hồn bất tử ...  Vị Thiên Chúa làm cho người chết sống lại, thì không tìm ra được trong người đó sẵn có cái gì để khởi đầu một cuộc sống mới. Chính vì người đó đã hoàn toàn chết, cho nên phải được Thiên Chúa tái tạo lại. Và con người được sống lại thì phải được một nếp sống mới, khác hẳn cái đời sống tự nhiên trước đây đã kết liễu bằng cái chết“ [72] .

Về phía giáo hội Công giáo thì trong bài Nếp sống của những người đã chết , nhà thần học Karl Rahner có nhắc tới Feuerbach, và giải thích rằng cái đời sống này không thể tiếp tục sau khi chết, và chết là chết cả con người. Cái mà ta tạm dùng từ ngữ về thời gian mà gọi là “vĩnh cửu“ (Ewigkeit, éternité), thì nó không phải là cái tiếp tục sau lúc sinh thời, nhưng là cái vượt quá thời gian và không gian của những vật do liên hệ nhân quả định hình, vì nó như là cách thức mà tinh thần và tự do nảy nở và thực hiện ngay trong lòng thời gian [73] .

Như thế cũng đủ thấy là những lời phê bình của Feuerbach đã được coi là nghiêm trọng. Cho nên có ai nói về bất tử hay về thế giới bên kia, thì từ nay phải nói khác đi, chứ không thể lại đưa ra những hình ảnh mà Feuerbach đã phi bác. Tuy vậy cũng nên hiểu rằng các hình ảnh đó về những cái ở ngoài tầm cảm giác và quan niệm của ta, thì không phải là mô tả đích xác, nhưng chưa hẳn là vô lý, vì lý do của nó chỉ là nói lên cái ý nghĩa, cái phương hướng của hi vọng của con người đang sống. Hi vọng bao giờ cũng là dám hi vọng, vì mình có lý do riêng của mình. 



Vấn đề còn phải bỏ dở.

Nói tổng quát thì tuy có tuyên bố là mình bỏ quan niệm Tinh thần trừu tượng của Hegel, để trở về con người cụ thể, nhưng Feuerbach đã làm cho con người què cụt đi khá nhiều. Thực vậy, cái nhân loại của ông đã mất đi những liên quan xã hội, kinh tế, chính trị và lịch sử – mà Hegel và Marx đề cao – để hạn hẹp vào liên quan sinh lý tự nhiên. Đã thế, cá nhân cũng què cụt đi, vì như đã nói trên đây, Feuerbach đánh giá rất thấp trí tưởng tượng và ước vọng là hai thành phần của con người. Làm như thế thì thật khó mà tránh được những vấn đề nan giải.     

Trong phần cuối chương I của sách Bản chất đạo Thiên Chúa (1841), Feuerbach ghi nhận : “Con người không bao giờ có thể vượt ra ngoài bản tính (Wesen) đích thực của mình. Nhờ vào trí tưởng tượng, con người có thề hình dung ra những đơn vị của một loại khác, mà mình cho là cao quí hơn mình. Nhưng không bao giờ có thể thoát ra khỏi cái loại hay cái bản tính của mình. Những đặc tính (Wesensbestimmungen) mà mình gán cho những đơn vị loại khác, thì bao giờ cũng chỉ là những đặc tính lấy ra từ bản tính của chính mình“ [74]. Có điều là cái bản tính con người, thì đã khó mà biết đích xác nó là gì ? Còn cái khả năng của con người đi tới đâu lại càng khó biết hơn nữa. Thế nhưng bản tính con người đã bị Feuerbach thu hẹp lại nhiều, không cho ước vọng cái gì ngoài cái bản tính, nghĩa là chỉ ước vọng những cái ... đã có sẵn rồi.

Đành rằng người ta căn cứ vào ước muốn và tưởng tượng mà dự định. Dự định là dám dự định. Dám làm như thế, có thể đó là việc hão huyền, nhưng chắc gì là bao giờ cũng hão huyền ? Vì lẽ rằng ai có thể biết chắc là ngoài giới hạn của mình thì không có gì hết ? Dù sao cũng nhờ có tưởng tượng và ước muốn mà người ta mạo hiểm tìm ra những cái trước đây không thấy có.

Đây không phải là chỗ trình bầy có thế giới bên kia, có Thiên Chúa hay không. Như đã nói trên đây, nếu có ai nói về thế giới bên kia thì chắc là không thể quan niệm nó như là thời gian và không gian của ta bây giờ. Còn về vị Thiên Chúa, thì cũng chắc một điều là không thể quan niệm vị ấy như một nhân vật trong thế giới chúng ta, hay theo kiểu Feuerbach, như là cái ý niệm nhân loại hay là cái ý niệm thiên nhiên đã được nhân cách hóa. Nếu nói là không có Thiên Chúa, thì tất nhiên cũng phải nói mình hiểu vị đó là như thế nào đã [75]. Thiết tưởng đó là vấn đề còn phải bỏ dở.  

Vì sao vấn đề còn bỏ dở ?

Lý do chính là Immanuel Kant đã phê bình lý trí và đi tới kết luận là lý trí lý thuyết thuần túy thì chỉ dùng được trong tri thức khách quan về sự vật bên ngoài, đo lường được và hoàn toàn theo luật nhân quả tất định. Tri thức này đòi phải đối lại với chủ thể (phải có ai biết ?, thì mới có thể nói là biết gì ?) [76].  Còn những vấn đề như ; tự do, bất tử, tha nhân,Thiên Chúa, thì không thuộc về phạm vi đó, nhưng thuộc về phạm vi lý trí thực hành.

Nếu đứng vào lập trường lý trí lý thuyết thì rất dễ đi tới chủ nghĩa duy tâm hay là duy chủ, do triết gia Pháp Descartes (1596-1950) xướng xuất. Thực vậy, phải có chủ là tôi tư tưởng, tôi cảm giác, thì mới nói được là có sự vật ; sự vật có thể thay đổi hay biến mất, nhưng tôi vẫn còn đó như điều kiện để chúng xuất hiện. Triết gia người Anh, Berkeley (1685-1753) cho rằng cái gì có thì nó được cảm giác thấy (tiếng la-tinh : esse est percipi). Nói thế khác, chỉ có cái tôi là chắc chắn có, còn các đối tượng bên ngoài, kể cả thân xác của tôi là cái tôi trông thấy, đều không chắc. Do đó thì vạn sự tại tâm, và như thế rõ ràng là duy tâm. Cứ theo cái đà ấy mà đi thêm một bước lý thuyết nữa, thì lại có một số nhà tư tưởng cho rằng tất cả cái thế giới này chỉ là ảo ảnh do cái tâm của ta sinh ra mà thôi. Thêm một bước cuối cùng thì có người chủ trương rằng chính cái tôi, cái bản ngã, cũng không có nốt, vì các thành phần của nó đều là những đối tượng mà ta nói đến cả !

Đó là lý thuyết lúc trà dư tửu hậu. Descartes cũng như bao nhiên nhà duy tâm khác, tuy chỉ chắc là có mình mình, hay là mình cũng chẳng có nốt, nhưng trong đời sống thường nhật thì cũng biết né tránh đồ vật chung quanh, và cũng vẫn tiếp xúc và đối thoại, giảng giải cho người khác, v.v. Chính Feuerbach cũng có lần chấp nhận rằng cái có tính cách khách quan (objectivité) nhất, lại chính là chủ thể khác, là người khác, vì người khác có khả năng không đồng ý và phá ngang (ob-jet, Gegen-stand) cưỡng lại quan niệm và hành động của ta [77]. Tiếc rằng ông không đào sâu vấn đề, để nhận định rằng ta không biết hết và không làm chủ được tất cả thực tại. 

Cho nên đã rõ là còn có những vấn đề mà lý thuyết không giải quyết được, và cần phải đặt lại trong thực hành, chú trọng vào con người toàn diện vậy. 

Suy luận của Feuerbach đã đưa tới đâu ?

Đối với Feuerbach, và sau đó đối với Marx, thì vấn đề đã giải quyết xong một cách dứt khoát. Con người được giải phóng, thoát khỏi tay thần linh và Thiên Chúa, nhưng để rồi hoàn toàn ở trong quyền lực của nhân loại, hay của nhà nước. Cá nhân không có vận mệnh nào khác. Đến đây ta sực nhớ đến câu nhận xét của một triết gia người Nga là N. Berdiaev (1874-1948), theo đạo Thiên Chúa thuộc tông phái Chính thống, mà rất am tường cộng sản Liên Xô: “Nếu không có Thiên Chúa, ông viết, thì con người hoàn toàn tùy thuộc vào thiên nhiên và vào xã hội, vào vũ trụ và vào nhà nước“ [78], nghĩa là vừa tùy thuộc vào những định luật nhân quả tất yếu trong thiên nhiên, vừa tùy thuộc vào áp lực tự tiện của những người nắm chính quyền.

Căn cứ vào thực tế lịch sử của chế độ cộng sản xô viết mà nói như thế thì đúng, nhưng không phải vì thế mà không có nền tảng lý thuyết. Vì chính tay Feuerbach đã viết : “Nhà nước là tổng cộng tất cả thực tại. Nhà nước đứng ra quan phòng cho con người. Trong khuôn khổ của nhà nước, thì người ta đại diện cho nhau và bổ túc cho nhau – cái mà tôi không thể làm và không biết, thì có người khác có thể làm. Tôi không hiện hữu cho mình tôi ; các người khác hiện hữu cho tôi, tôi ở trong vòng tay của một thực tại phổ quát, tôi là thành phần của một toàn thể.  Nhà nước đích thực là con người không có giới hạn, con người vô biên, chân thực, hoàn hảo, thần thiêng. Nhà nước, và chỉ có nhà nước, mới là con người, con người tự quyết, con người tự qui, con người tuyệt đối [79]. 

Marx cũng viết hùa theo quan niệm là từ nay Thiên Chúa hay thần linh của con người cũng lại chính là con người, và ông chủ trương đưa quan niệm đó ra thực hành trong chính trị. Vấn đề oái oăm rất khó xử là không biết ai sẽ là thần linh đối với ai, vì địa vị của cái ai  trước và cái ai sau thì khác nhau một trời một vực !

Sau khi Thiên Chúa bị đồng hóa với nhân loại và chết đi biệt tích (la mort de Dieu, thì đến lượt con người cũng bị đồng hóa và đắm chìm mất tăm (la mort de l’homme) trong thế giới đồ vật, như Michel Foucault đã nhận định trong Les mots et les choses (1966). Thực vậy, không biết là vô tình hay hữu ý, nhưng có một số học giả trong ngành khoa học cũng như triết học, đang có cái chủ trương nước đôi rất khó hiểu : một đàng thì các vị đó nói truyện nhân bản, nhân nghĩa, nhân phẩm, nhân quyền, có vẻ rất thích thời, nhưng đàng khác thì lại hạ thấp con người, với lý luận rằng con người, tiếng là “linh ư vạn vật“, nhưng cũng chỉ là một động vật, một mớ cơ quan, một mớ tế bào, nguyên tử, điện tử, nghĩa là một mớ vật liệu có thể mua chẵn bán lẻ, đổi chác, như các động vật hay các đồ vật khác [80].

Sau cùng vấn đề còn phải bỏ dở nữa là vì sau câu nhận xét trên đây, Berdiaev lại viết : “Nếu có Thiên Chúa, thì về mặt tinh thần, con người là tự lập, và liên quan với Thiên Chúa là liên quan tự do, chứ không phải là liên quan tùy thuộc“. Đủ biết đây không phải là thứ Thiên Chúa như Feuerbach quan niệm. Nhưng đây lại là một vấn đề khác. 



Vận mệnh hay định mệnh

Vấn đề khác đó lại bao trùm nhiều câu hỏi mâu thuẫn với nhau về vận mệnh con người. Ví dụ : con người ta có vận mệnh gì để mình tự do định đoạt, hay là chỉ có định mệnh, do thiên nhiên hay xã hội bên ngoài định hình, hoàn toàn theo luật nhân quả ? Rồi nếu có vận mệnh, thì con người đạt thân là do tự lực hay là nhờ tha lực ? Nếu tự lực quả thực là có hạn, thì biết làm sao ? Còn tha lực thì có gì là chắc chắn và đáng tin cậy ? Lại nữa, nếu giả sử rằng không có ai cả, chẳng có người mà cũng chẳng có ta, thì không còn vấn đề gì hết, có nói cũng là không. Nhưng đã chắc gì là như thế ?

Cho nên đến đây thì ai nấy tùy tiện nhận định xem cuộc sống này có ý nghĩa gì, có hướng đi gì không. Xin đan cử ra đây hai ví dụ về suy tư căn cứ vào tri thức khoa học.

Ví dụ thứ nhất : trong cuốn sách Ngẫu nhiên và tất định. Bàn về lập trường triết học về thiên nhiên của khoa sinh vật học thời mới, nhà sinh vật học đã được giải thưởng Nobel, là Jacques Monod (1910-1976), đã đưa ra kết luận sau đây : “Rốt cục thì con người biết được rằng trong cái vũ trụ bao la và vô tình thì mình nảy sinh ra một cách ngẫu nhiên. Định mệnh cũng như nhiệm vụ của mình đều không có ghi sẵn ở đâu cả. Tới được nơi cực lạc hay là sa vào chốn tối tăm, thì đều là do mình lựa chọn cả“ [81].

Ví dụ thứ hai : trong cuốn sách Hiện tượng con người, trình bầy con đường tiến triển từ những yếu tố nhỏ hơn nguyên tử cho đến con người có ý thức tự qui, đã kiến tạo nên văn hóa và xã hội, thì nhà cổ vật học Pierre Teilhard de Chardin (1881-1954) đặt vấn đề vận mệnh con người như sau. Ông viết : “Một đàng, nếu chúng ta có những đòi hỏi về tương lai, mà lại bế tắc về phía Thiên nhiên, thì Tư tưởng là kết quả của hàng triệu năm cố gắng cũng phải chết nghẹt ngay khi phát sinh trong cái vũ trụ vô lý, như cái thai sẩy. Đàng khác, nếu có lối thoát – nếu có cái linh hồn siêu đẳng ở bên trên linh hồn chúng ta, thì phải có điều kiện hẳn hoi ta mới có thể chấp thuận dấn thân vào đó : lối thoát đó phải mở rộng nhãn giới vô biên của tâm linh, trong một cái Vũ trụ mà ta có thể tín cẩn được. ( ... ). Cả hai đàng thì không có đàng nào hiển nhiên cả. Nhưng có những điều hữu lý như lời mời gọi ta dám tín cẩn chọn con đường mình đi. ( … ). Thực ra, Vũ trụ là một công trình quá ư quan trọng. Chính vì ngay từ khởi thủy, vũ trụ đã vận dụng một cách lạ lùng quá nhiều yếu tố rất mong manh, để sinh ra ta, cho nên nếu ta có dấn thân theo cái đà ấy mà đi xa hơn, đi đến cùng, thì cũng không sợ mất mát gì. Nếu vũ trụ đã khởi công như thế thì hẳn là nó có thể cứ theo đường lối chắc chắn đã đi mà hoàn tất công trình. ( ... ). Để hoạt động thì ta có hai điểm tựa chắc chắn : một là trong tương lai, thì dưới hình thức này hay hình thức khác, hay ít ra là dưới hình thức tập thể, chúng ta không những sẽ sống sót tại (survivance), mà còn sống vượt bực (survie) nữa. Và hai là : để hình dung ra, tìm cho ra hay là đạt tới cái hình thức hiện hữu vượt bực đó, thì ta chỉ cần tư tưởng và cứ tiến đi theo như phương hướng của những con đường hợp lý nhất mà vũ trụ đã đi theo trong quá trình biến hóa“ [82].

Đó là niềm tin. Mà tin, thì không phải là vì không biết gì, nhưng là dám tin, dám có hi vọng để đi xa hơn cái tri thức hữu hạn và vô vọng của mình. Vấn đề là : ai dám tin ? ai đáng tin ?

Lambersart, 01/01/2008.

******

Chú thích

[1]  Thiên khảo luận này đã viết bằng Pháp văn « La mort et  le problème de Dieu dans la pensée de Ludwig Feuerbach» và in trong tạp chí Revue philosophique de Louvain (Bỉ), t. 73 (1975), tr. 304-361. Nay tu bổ thêm và viết lại bằng tiếng Việt.



Xin chú ý : khi trưng dẫn tác phẩm của Feuerbach, thì tôi dùng các lối viết tắt sau đây : 1) SW = Sämtliche Werke (Tác phẩm toàn tập, do chính Feuerbach cho in thành 10 tập, do NXB Otto Wigand, tại Leipzig, 1846-1866).  2) SW(B)= cũng là tác phẩm toàn tập (10 tập), nhưng do W. Bolin và F. Jodl cho in lại năm 1903-1911, và in lại lần thứ hai năm 1959-1960, tại NXB Frommann, tại Bad Cannstadt, gần Stuttgart. Tiếp theo đó thì năm 1962 Hans Martin Sass cho in thêm phần phụ lục là 3 tập nữa : như thế bộ SW(B) gồm tất cả là 13 tập.  3) GW = Gesammelte Werke  (Tác phẩm sưu tầm, được ấn hành tại Berlin (Đông-Đức, từ năm 1967 trở đi, do Werner Schuffenhauer đảm nhiệm, và đã trù tính   tất cả là 16 tập).

[63]  SW, t. III, tr. 318.

[64]  SW, t. VIII, tr. 346.

[65]  SW, t. VIII, tr. 370.

[66]  Luận đề  tạm thời để cải cách triết học (1842), luận đề 19, SW, t.II, tr. 249 ; GW, t. 9, tr. 247.

[67]  SW, t. VIII, tr. 122+153+155. - Cũng xem : Der Gottesbegriff als Gattungswesen des Menschen, SW(B), t. VII, tr. 259-265.

[68]  Xem : H.M. Sass, Untersuchungen sur Religionsphilosophie in der Hegelschule 1830-1850, Münster, 1963.

[69]  Xem : Peter Cornehl, Sđd ở cước chú số 16, tr. 29.

[70]  Albert Chapelle,  Hegel et la religion, tập II-C : La dialectique / La Théologie et l’Eglise, Paris, 1971, tr. 21.

[71]  Essai sur la signification de la mort, Paris, 1948, tr. 11.

[72]  Roger Mehl, Le vieillissement et la mort, Paris, 1962, tr.74-75.

[73]  Karl Rahner, « Das Leben der Toten », trong : Schriften zur Theologie, t. IV, Einsiedeln-Zürich-Köln, 1960, tr. 429-430.

[74]  SW, t. VII, tr. 17.

[75]  Xem : Trần Văn Toàn, « Vô thần và tôn giáo », Triết Đạo (Journal of Vietnamese Philosophy and Religion, Vienna, VA, USA), số 8, năm 4, Thu 2004, tr. 111-127

[76]  Ta thường nghĩ tri thức khách quan (objectivité) là biết đích xác sự vật là thế nào, chứ không như hình ảnh chủ quan của cảm giác hay quan niệm riêng ta ; nhưng nếu ta không có cảm giác hay quan niệm, thì không biết được gì hết ; và rút cục thì trong thực hành, cái khách quan chính là cái mà các chủ thể đều đồng tình chấp nhận. Vì lẽ rằng ta là chủ ở bên trong, nhưng ta chấp nhận quan điểm của người khách bên ngoài ta. Chữ « khách quan » của chúng ta có ý nghĩa hay hơn là chữ « objectivité » (Pháp) hay « Gegenständlichkeit » (Đức), vì hai chữ này làm cho ta nghĩ đến đồ vật hay đối tượng (Objet hay Gegenstand). (Xem : Trần Văn Toàn, « Mấy nguyên tắc về khoa học con người », Tạp chí Nghiên cứu con Người (Hà Nội), 1 (10) 2004, tr. 59-71.

[77]  Grundsätze der Philosophie der Zukunft (Những nguyên lý của triết lý tương lai), 1843, GW, t. 9, tr.316.

[78]  N. Berdiaev, Essai d’Autobiographie Spirituelle, Paris, Buchet-Chastel, 1958, tr. 222.

[79]  Nothwendigkeit einer Reform der Philosophie (Cần phải cải cách cho triết học), 1842, GW, t. 9, tr. 134.

[80]  Xem : Jean-Claude Guillebaud, Le principe d’humanité, Paris, Seuil, Coll. Points, n° 1027, 2001.

[81] Le hasard et la nécessité. Essai sur la philosophie naturelle de la biologie moderne (1964), Paris, 1970, Seuil, Points n° 43, tr. 224-225.

[82]  Le phénomène humain, trong bộ ŒUVRES ( tác phẩm),t. I, Paris, 1955, Seuil, tr. 258-259.
VỀ MỤC LỤC


 TĨNH TÂM LINH MỤC GP. VINH 12/2013 - BÀI 3: TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ LINH MỤC

        



Giới thiệu tác phẩm: LINH MỤC GIÁO PHẬN NHƯ LÒNG MONG ƯỚC



 

Trọng kính Đức Hồng Y, Quí Đức Cha, Quí Cha, Quí Độc Giả CGVN.



 

Trong niềm tri ân cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội Công Giáo một Vị Mục Tử Như Lòng Mong Ước Là Đức Thánh Cha Phanxico - Đúng dịp Đại Lễ Phục Sinh Năm Thánh Đức Tin 2013 - Nhà Sách Đức Mẹ ( email: nsachdcct@gmail.com ) thuộc Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam đã phát hành tác phẩm Linh Mục Giáo Phận Như Lòng Mong Ước do Linh mục Micae-Phaolo Trần Minh Huy, pss. biên soạn.

  

Tập sách rất vinh hạnh vì đã được ưu ái cấp IMPRIMATUR: bởi Đức Cha Pet. NGUYỄN VĂN ĐỆ, SDB. Giám mục Giáo phận Thái Bình. Quí Đức Tổng Phero Nguyễn Văn Nhơn, Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, Đức Cha Anton Vũ Huy Chương vui mừng viết Lời Giới thiệu.


Sách được phục vụ tại các nhà sách Công Giáo.

 

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và Giáo Hội Việt Nam bay lên!



 

Chúng con xin chân thành cảm ơn.



 

BBT CGVN
TĨNH TÂM LINH MỤC GP. VINH 12/2013 - BÀI 3: TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ LINH MỤC

1. Lời Chúa mời gọi tái định hướng đời sống và sứ vụ linh mục

Thiên Chúa luôn đổi mới lời mời gọi của Ngài qua từng biến cố của cuộc sống, thì chúng ta cũng phải đổi mới lời đáp trả của mình sao cho phù hợp với lời mời gọi của Chúa trong từng biến cố đó. Sách Khải Huyền vừa nhìn nhận những việc tích cực vừa kêu gọi vượt lên những tiêu cực để chỉnh đốn tái định hướng đời sống cho tốt đẹp: 

Ta biết việc ngươi làm, nỗi vất vả và lòng kiên nhẫn, chịu khổ không mệt mỏi vì danh Ta... Nhưng Ta trách ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu… hãy nhớ xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu…[1] 

Ta biết nỗi gian truân, và cảnh nghèo khó của ngươi... Đừng sợ các nỗi đau khổ sắp phải chịu, những gian truân lâm phải... Nhưng hãy trung thành cho đến chết, Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống[2].  

Ta biết ngươi ở nơi đặt ngai của Satan. Nhưng ngươi gắn bó với danh Ta và không chối bỏ lòng tin vào Ta... Vậy hãy hối cải, kẻo Ta đến ngay tức khắc và sẽ dùng lưỡi gươm mà giao chiến với ngươi[3].

Ta biết các công việc, đức ái, đức tin, việc phục vụ, lòng kiên nhẫn, và những việc của ngươi bây giờ nhiều hơn trước kia... Ta dò thấu lòng dạ và sẽ tuỳ theo việc mà thưởng phạt mỗi người. Vậy cái gì đang có, hãy nắm chắc cho tới khi Ta đến[4].  

Ngươi được tiếng đang sống mà thực ra đã chết. Hãy tỉnh thức và củng cố chút sức còn lại đang suy tàn... Hãy nhớ lại đã nghe và lãnh nhận Lời Chúa thế nào, hãy tuân giữ và hối cải! Nếu không Ta sẽ đến bắt chợt ngươi như kẻ trộm[5]

Này Ta để một cửa mở trước mặt ngươi, không ai có thể đóng lại được, vì ngươi đã giữ lời Ta, kiên nhẫn chịu đựng, không chối bỏ danh Ta, nên Ta cũng giữ gìn ngươi cho khỏi giờ thử thách sắp xảy đến. Hãy nắm chắc cái gì đang có, đừng để ai lấy mất triều thiên dành cho ngươi[6].

Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Ngươi hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta... hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn! Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà và dùng bữa với người ấy[7]. 

Xin cho Lời Chúa thực sự soi sáng trí khôn, mời gọi tới đức tin, mở lớn niềm hy vọng, thức tỉnh và đổi mới tình yêu của chúng ta: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người[8]. Chúng ta hãy đặt cuộc sống mình dưới sức mạnh của Lời Chúa và làm cho Lời Chúa phát sinh hiệu quả: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.[9] 

 

  2. Tái định hướng đời sống và sứ vụ linh mục trong viễn ảnh Quyền Bính Đích Thực



Quyền bính của chính Chúa Giêsu đã bị đặt thành vấn đề: “Do quyền bính nào mà ông làm những việc ấy? Ai cho ông quyền đó?”[10]. Quyền bính của các Tông đồ và những người kế vị vẫn tiếp tục bị thách đố. Mọi quyền bính đều phát xuất từ Thiên Chúa. Sứ vụ giảng dạy, thánh hóa và điều khiển Dân Chúa dựa trên thần quyền, được trao phó cho Giáo Hội trong từng thời đại phát triển khác nhau. Và cũng trong từng giai đoạn lịch sử đó, Giáo Hội nhìn nhận nhu cầu phải kiểm điểm và canh tân chính mình, như những nỗ lực mà ĐTC Phanxicô đang tiến hành.  

Nhưng việc kiểm điểm đó sẽ không thành công, nếu chỉ đựa vào các chuẩn mực loài người. Mọi quyền bính trong Giáo Hội đều bắt nguồn từ Chúa Giêsu, nên phải quay trở lại với Chúa Giêsu, Đấng cai trị từ Thập giá. Ánh sáng của thập giá Chúa Kitô phải soi sáng mầu nhiệm quyền bính của Giáo Hội. ĐTC Phanxicô đã minh định điều đó vào đầu sứ vụ Giáo Hoàng của ngài: “Cuộc sống chúng ta là đi đường, nếu chúng ta ngừng đi thì có cái gì đó sai rồi, nên phải luôn bước đi với Chúa và dưới ánh sáng của Chúa. Sau đó là Xây dựng Giáo hội với những viên đá sống động, những viên đá được Chúa Thánh Thần xức dầu. Không phải xây trên nền tảng bất kỳ nào, nhưng trên viên đá gốc là chính Chúa. Chúng ta có thể bước đi tùy ý chúng ta, có thể xây dựng nhiều công trình, nhưng nếu chúng ta không tuyên xưng Đức Giêsu-Kitô, thì có điều gì đó không phải rồi… Tôi mong ước chúng ta tất cả có được sự can đảm bước đi cùng Chúa, với Thánh Giá của Chúa, xây dựng Giáo hội trên máu Chúa Kitô đổ ra trên Thánh Giá, và tuyên xưng một vinh quang duy nhất, đó là Đức Kitô bị đóng đinh trên Thánh Giá. Như thế, Giáo hội có thể tiến lên[11]

Quyền bính Giáo Hội được mạc khải và tuôn đổ xuống từ trên Thập giá không che đậy tội lỗi, nhưng phơi bày tội lỗi hầu chữa trị nó bằng sức mạnh của Chúa. Quyền bính được trao ban cho Giáo Hội là để rao giảng, thanh tẩy, tha tội và qui tụ những ai được tái sinh bởi nước và Thánh Thần quanh bàn tiệc Hy Tế của Chúa[12]. Quyền bính của Giáo Hội phải lớn lên, mạnh mẽ và hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng, kế vị thánh Phêrô mà chính Chúa Kitô bảo đảm sự bền vững. Quyền bính của Giáo Hội Địa phương được diễn tả qua nhiều vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là Giám Mục Bản Quyền. Tất cả quyền bính đều qui về Giám Mục và phát ra từ Giám Mục, đến đỗi “linh mục không thể làm gì mà không có Giám Mục”“Giám mục không làm gì ngoài Ý Thiên Chúa”[13]

Không được rời khỏi thập giá nếu muốn hiểu và thực hiện tốt quyền bính. Mỗi quyết định phải được thực hiện với Chúa Giêsu chịu đóng đinh ở trước mắt. Thập giá phải là thước đo mức độ tận hiến của chúng ta và cách chúng ta đối xử với người khác. Thập giá phải là dấu hiệu tình yêu đối với Chúa mà chúng ta biểu lộ qua lòng nhiệt thành, sẵn sàng cho đi tất cả những gì chúng ta có và những gì chúng ta là, trong khi giáo huấn, thánh hóa và dẫn dắt giáo dân, vì chính từ thập giá mà Chúa Giêsu chứng tỏ tình yêu lớn nhất cho chúng ta. ĐTC Phanxicô nói: “Chúng ta không bao giờ được quên rằng quyền bính đích thực là phục vụ, và để thi hành quyền bính này, cả Giáo Hoàng cũng ngày càng phải tiến sâu hơn vào việc phục vụ có tột đỉnh sáng ngời trên Thập Giá[14].

 

3. Tái định hướng đời sống và sứ vụ linh mục trong viễn ảnh Vâng Lời Đích Thực

Trong ba lời khuyên Phúc Âm, Vâng Lời là nền tảng và khó nhất, vì nó chạm tới tự do, bản ngã và ý riêng của con người. Nhờ vâng lời triệt để trong mọi sự có liên quan, nguời sống đời độc thân thánh hiến mới có thể giữ được hữu hiệu đức khó nghèo và khiết tịnh. Lời hứa vâng lời khi chịu chức linh mục là sự cam kết công khai long trọng kéo dài suốt đời với Chúa và với Giáo Hội. Đó là tiếng “Xin Vâng” trong mọi sự Chúa và Giáo Hội đòi hỏi, mà chẳng biết trước được cái gì các ngài sẽ yêu cầu. Chúng ta không tự quyết định lấy sứ vụ của mình, song chúng ta được sai đi: Có khi kinh ngạc, có khi hân hoan, có khi lo buồn…, nhưng với tinh thần đức tin siêu nhiên, chúng ta vâng lời, dù có thể được sai tới nơi không muốn, ở với người không ưa, làm việc không thích. 

Sự vâng lời đòi hỏi cái gì nhiều hơn là xác định chúng ta ở đâu và làm gì. Sự vâng lời không thể tránh khỏi thập giá: Chết cho chính mình không dễ lắm đâu, vì không phải chỉ trong chốc lát, song trong từng phút giây của cuộc sống mỗi ngày suốt đời. Vâng lời là tham dự đầy đủ vào công cuộc cứu thế Chúa Kitô đã kiện toàn mà chúng ta có nhiệm vụ tiếp tục trong đức tin vâng phục. Hãy dõi bước theo con đường Chúa Kitô đã đi qua, gắn bó thảo hiếu và vâng giữ kỷ luật Giáo Hội, thích nghi với những yêu sách đặc biệt của từng hoàn cảnh cụ thể. ĐTC Biển Đức XVI dạy: Không ai có khả năng chăn dắt đoàn chiên của Chúa, nếu không sống sâu xa và đích thực sự vâng lời Chúa Kitô và Giáo Hội: Sự ngoan ngoãn của Dân Chúa đối với linh mục tùy thuộc sự ngoan ngoãn của linh mục đối với Chúa Kitô. Do đó, phải luôn có sự gặp gỡ cá nhân và liên lỉ với Chúa, hiểu biết Chúa sâu đậm và nên một với ý muốn của Chúa. 

Sự vâng lời còn đi xa hơn và ở tại sentire cum Ecclesia. Cảm thông với Giáo Hội là có mối thiện cảm sâu xa và trung thành với giáo huấn, phượng tự và sứ vụ của Giáo Hội, là để truyền thống và quan niệm hiện hành của Giáo Hội thấm sâu và chi phối cuộc sống của chúng ta. Vâng lời đòi hỏi sự sẵn lòng để ra một bên mọi sự vì tình yêu Chúa Kitô và Giáo Hội. Vâng lời như thế dẫn đến một cuộc sống được Chúa Kitô tác động sâu xa mà thánh Phaolô diễn tả: “Không còn phải là tôi sống nữa, mà là Chúa Kitô sống trong tôi[15]. Trong sự cảm thông với Giáo Hội đó, chúng ta được mời gọi nói lên sự thật như chúng ta nhận thấy, những ý kiến và thỉnh nguyện tốt nhất đã được cầu nguyện, suy nghĩ chín chắn và luôn sẵn sàng vâng lời, dù có trái ý chúng ta, biết rằng Bề Trên có ơn đoàn sủng, ơn phân định đặc biệt của Chúa Thánh Thần mà chúng ta không có. Đức vâng lời là một sư phạm cho sự qui phục Thánh ý Chúa: Bề Trên là người có kinh nghiệm tìm ý Chúa cho mình, cho những quyết định của mình trên cộng đoàn và mỗi thành viên; Bề trên không chỉ dạy bề dưới tìm ý Chúa, mà còn cùng bề dưới tìm Ý Chúa nữa[16]

Đi cho tới cùng, vâng lời đòi hỏi chúng ta nhượng bộ mọi sự cho Chúa, coi vâng lời như diễn tả trọn vẹn sự lệ thuộc vào Chúa và vào Giáo Hội: trí khôn, con tim, ý muốn, và cả đời sống: Lạy Chúa, con xin dâng tư tưởng của con cho Chúa, để chúng luôn hướng về Chúa; để lời nói của con có Chúa làm đề tài; để việc làm của con phản ánh tình yêu của con cho Chúa; để đau khổ của con được chịu đựng cho vinh danh Chúa hơn. Xin Chúa soi sáng trí khôn con, đốt nóng ý chí con, thanh tẩy trái tim con và thánh hóa linh hồn con. Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tất cả tự do của con, ký ức của con, trí hiểu của con, trọn vẹn ý muốn của con, tất cả những gì con có và sở hữu. Chúa đã cho con mọi sự và mọi sự là của Chúa, xin hãy sử dụng như ý Chúa muốn. Xin ban cho con tình yêu và ân sủng của Chúa, và như thế đã đủ cho con.

 

4. Tái định hướng đời sống và sứ vụ linh mục trong viễn ảnh Chỉ Bảo Huynh Đệ Đích Thực

Chúa Giêsu dạy chỉ bảo huynh đệ trực tiếp với người có lỗi: Nếu anh em ngươi trót phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó, riêng ngươi với nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được người anh em”[17]. Để thực hiện việc chỉ bảo huynh đệ ấy, chúng ta sử dụng Feed-Back, một kỹ thuật cảm thông và giao tế có nghĩa chuyên môn là “gửi trả lại”: một người xin kẻ khác nhận xét về mình, người kia cho nhận xét, và người này trả lời lại về nhận xét đó, ta gọi là Kỹ Thuật Chỉ Bảo Huynh Đệ.

Cuộc đời mỗi người có bốn ô không đều:



1. Phần mù là ô chỉ người khác biết về ta những điều mà ta không biết hay ý thức được.

2. Phần che đậy là ô chỉ ta ý thức và biết về mình, còn người khác không biết được.

3. Phần hiển nhiên là ô người khác biết về ta, và ta cũng biết và ý thức được.

4. Phần vô thức, bí mật và huyền nhiệm cuộc đời là ô người khác không biết về ta, mà ta cũng chẳng ý thức được.

Ta cần được người chỉ cho ta biết điều họ biết về ta mà ta không biết và ta cũng phải nói với người điều ta biết về họ mà họ không biết. Khi được ta xin, người khác sẽ nói cho ta biết phần mù của ta, và ta sẽ trả lời lại, giải thích cho họ về điều họ nói, đồng thời nói cho họ biết phần còn che đậy của ta. Như thế, người và ta sẽ dần dần thu hẹp lại phần mù lẫn phần che đậy, và khai mở biên giới của phần hiển nhiên, để rồi cả đôi bên hiểu biết nhau hơn, cảm thông với nhau hơn, tín nhiệm nhau hơn, thân nhau hơn, thương nhau hơn và cộng tác tích cực với nhau hơn. 



Tám điều kiện của người cho Feed-Back

1. Đợi cho người nghe phải sẵn sàng đã mới góp ý.

2. Mô tả một hành vi như quay một cuốn phim, không phê phán.

3. Việc xảy ra không lâu, để người đó còn nhớ rõ mà kiểm chứng.

4. Nói những điều người kia vô tình không ý thức được.

5. Nói những điều có thể sửa đổi được (hiện tượng chứ không phải bản chất).

6. Chỉ nói những điều có thể sửa đổi được, nhưng không bắt buộc người kia phải sửa đổi.

7. Nói để giúp ích cho người kia, chứ không phải nói cho hả giận/ để trả thù.

8. Nói với sự kính trọng và yêu thương, như chia sẻ một mối ưu tư, một cảm tưởng, một phản ứng tự nhiên.

 

Bốn điều kiện của người nhận Feed-Back

1. Phải xin người khác cho mình Feed-Back.

2. Lắng nghe và kiểm chứng là mình đã hiểu rõ.

3. Đừng mất tinh thần, nếu gặp phải Feed-Back tiêu cực (bị chê, bị chỉ trích).

4. Trả lời cho người cho mình Feed-Back với lòng biết ơn, vì người ta đã bởi lòng bác ái mà cho mình nhận xét, nhất là khi feed-back làm cho mình khó chịu.  

Vấn nạn: Người cho nhận xét phải đợi người nhận sẵn sàng đã, nhưng nếu người nhận chưa sẵn sàng (không xin), mà việc cần góp ý ngay thì phải làm sao? – Thưa phải theo gương Chúa Giêsu chủ động đi bước trước: “Ông Simon, tôi có điều này muốn nói với ông. – Xin Thầy cứ nói”.    

Muốn xin người góp ý hay muốn góp ý cho người đều phải tế nhị, đừng quá đường đột, bằng cách xin hẹn một cuộc gặp gỡ, một cuộc nói chuyện. Bề dưới có thể chủ động xin giờ hẹn để Bề Trên chuẩn bị tâm lý sẵn sàng lắng nghe trình bày và góp ý. Bề Trên cũng có thể hẹn trước để bề dưới chuẩn bị tinh thần, nhất là đối với người dễ phản ứng mạnh. Anh em ngang hàng với nhau cũng thế. Tất cả cũng chỉ vì bác ái, muốn điều tốt nhất cho nhau và cho công cuộc đào tạo, được đào tạo và tự đào tạo. Có thể nói rằng nếu anh em linh mục không sẵn lòng chỉ bảo và lắng nghe nhau thì không ai dám làm công việc đó. 

Feed-back mang lại cơ hội tốt để giải thích rất nhiều hiểu lầm (x. Chuyện Khổng Tử và Nhan Hồi). Nó giúp ta và tha nhân ý thức được những khía cạnh nhân bản và giao tế của mình rõ hơn để thăng tiến; Gia tăng sự tin cậy, tình bằng hữu và loại trừ sợ hãi, tạo bầu khí bình an và an toàn vốn là đặc tính thiết yếu của một cộng đoàn giáo dục.

Nếu thấy lỗi lầm cụ thể của anh em, trước hết hãy cầu nguyện cho mình và cho anh em được biến đổi, rồi đến nói trực tiếp với người anh em như Chúa dạy, nếu anh em quyết tâm sửa thì thôi, bỏ qua, không nói tới với ai nữa. Nếu người anh em chưa sửa được, hãy nhẫn nại cầu nguyện và khích lệ, vì cái gì cũng cần có thời gian. Khi nói chuyện với các chủng sinh và tập sinh, ĐTC Phanxicô dạy: “Nếu tôi có điều gì chống lại một người anh một người chị, tôi sẽ nói điều đó trước mặt họ, hoặc tôi sẽ nói điều đó cho ai có thể giúp đỡ, nhưng tôi sẽ không nói với người khác để bôi tro trát trấu vào mặt họ. Ngồi lê đôi mách thì thật kinh khủng! Đằng sau việc ngồi lê đôi mách, và ẩn dưới việc ngồi lê đôi mách này là đố kỵ, ghen tuông, tham vọng. Các con hãy nghĩ về điều này[18]

Nếu gặp một lỗi nghiêm trọng mà người anh em thiếu tinh thần phục thiện và ngoan cố thì để tránh thiệt hại lớn cho cộng đoàn lẫn đương sự, sau khi đã cầu nguyện và trực tiếp làm mọi cách có thể, hãy theo lương tâm, can đảm đích thân kín đáo trình bày với người có thẩm quyền và sẵn sàng chịu trách nhiệm kiểm chứng về điều mình nói, cả khi đương sự có mặt. ĐTC Phanxicô căn dặn: “Hãy nói điều đó với bề trên, với giám mục là những người có thể sửa chữa. Nhưng đừng nói điều đó cho người không thể giúp ích gì”[19].

           



5. Tái định hướng đời sống và sứ vụ linh mục bằng việc tích cực tham gia thường huấn

a.Yêu sách của Huấn quyền về thường huấn linh mục:

Sắc lệnh Chức Vụ và Đời sống Linh Mục dành trọn chương III, số 69-92, để nói về việc đào tạo thường xuyên này như “một bổn phận và quyền lợi chính đáng của linh mục… và của Hội Thánh”, phù hợp với “mục đích cơ bản của sự trưởng thành trong đời sống thiêng liêng[20] mà “không ai có thể thay thế được linh mục trong việc canh chừng chính mình[21].  

Pastores Dabo Vobis dành trọn ch. VI, số 70-82, để nói về thường huấn linh mục, như “sự tiếp tục tự nhiên và tuyệt đối cần thiết của tiến trình xây dựng nhân cách của linh mục, vốn đã được khởi sự và phát triển từ trong chủng viện[22].  

Optatam Totius khuyến cáo rằng “việc đào tạo linh mục, nhất là trong bối cảnh của xã hội hiện đại, cần phải được tiếp tục và hoàn thiện hoá sau khi đã hoàn tất chương trình đào tạo trong chủng viện[23].  

Số 100-101 của Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis mô tả việc đào tạo hậu chủng viện rằng “cách riêng trong những năm đầu tiên sau khi chịu chức… để các linh mục mới ra trường có thể được trang bị tốt hơn, ngõ hầu họ có thể gánh vác và hoàn thiện các bổn phận của người tông đồ[24].

Định hướng và chỉ dẩn Đào tạo Linh mục của HĐGMVN dành cả ch. VII nói về Đào tạo sau Đại chủng viện[25].

Ecclesia in Asia mở ra một hướng rộng lớn: “Để phục vụ Hội Thánh như ý Chúa Kitô, các Giám mục và linh mục cần một sự đào tạo chắc chắn và thường xuyên, có thể cung ứng những cơ hội khả dĩ cho một cuộc canh tân thiêng liêng và mục vụ[26].

Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã thực hiện lời khuyên này sớm nhất, qua cuộc hội thảo số 5 mang tựa đề “đào tạo tiếp tục cho các linh mục Á Châu[27].  

Chỉ Nam về Thừa tác vụ và Đời sống linh mục 1994 của Bộ Giáo sĩ dành cả chương III để bàn về việc huấn luyện thường xuyên các linh mục, trong mọi phương diện tuổi tác, khả năng, hoàn cảnh sống và phận vụ mục vụ[28].

Chỉ Nam hướng dẫn về thừa tác vụ và đời sống linh mục 2013 cũng dành trọn chương III để nói về thường huấn với các đề tài chính: Các nguyên tắc - Việc tổ chức và các phương tiện - Các vị hữu trách - Các lứa tuổi và các hoàn cảnh đặc biệt.

b. Những năm đầu đời linh mục:

Người mới chịu chức dần dần đi vào đời sống linh mục thực sự: Càng sống tư cách linh mục càng trở nên linh mục hơn. Việc chịu chức khép lại giai đoạn được đào tạo và tự đào tạo ở chủng viện, nhưng lại mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn đào tạo thường xuyên kéo dài suốt đời linh mục. “Việc huấn luyện không bao giờ được xem như chấm dứt, cả về phía Giáo Hội trao ban lẫn về phía thừa tác viên nhận lãnh[29]. Các linh mục trẻ tự trắc nghiệm mình giữa cái học có tính cách lý thuyết hàn lâm trong Chủng viện và sự thực hành trong các thực tại của đời sống sứ vụ của họ[30]. Giai đoạn này nhằm giúp họ chu toàn cách trung thành và vui tươi sứ vụ trong những hoàn cảnh khác nhau, chấp nhận và vượt thắng những chiến đấu và cám dỗ cả bên trong lẫn bên ngoài. Những phương tiện tự nhiên và siêu nhiên sẽ thực sự bảo đảm cho sự thành công và lòng trung thành của linh mục.  

Việc thường huấn nhấn mạnh thực hành nhiều hơn; nó sẽ giúp họ trưởng thành trong suy nghĩ, tự mình quyết định và hành động, cũng như trong mọi lãnh vực đời sống. Tự mình điều chỉnh và thăng tiến các mối tương quan hài hoà, quân bình và trưởng thành với Thiên Chúa, với chính mình, với người khác, nam cũng như nữ, giáo dân và tu sĩ, cả với môi trường sống thiên nhiên. Chỉ Nam 1994 số 74 lưu ý giúp linh mục phát triển nhân cách trưởng thành, về mặt trí thức, cả trong các khoa học tự nhiên và nhân văn, lẫn trong các khoa học thánh, làm chứng đức tin một cách hữu hiệu hơn, có được một đời sống thiêng liêng sâu xa, được nuôi dưỡng bằng tình thân mật với Chúa Giêsu Kitô và tình yêu Giáo Hội, giúp linh mục chu toàn thừa tác vụ mục vụ với nhiệt tình và nhiệt tâm.  

Phải khuyến khích một sự huấn luyện đích thực, cầu nguyện, hiệp thông và làm việc mục vụ... Liệu sao cho các văn kiện của huấn quyền được đào sâu chung với nhau, dưới sự hướng dẫn của một nhân vật có thẩm quyền, để đưa tới sự thống nhất giải thích và thống nhất chương trình hành động mục vụ trong giáo phận[31]



c. Những năm cao tuổi linh mục:

Sau nhiều năm thi hành thừa tác vụ, các linh mục cao tuổi cần đến sự hiệp thông và tình bạn của Giám mục để lướt thắng những kinh nghiệm mệt mỏi, thất vọng, cô đơn... để duyệt xét lại chính mình và công việc mình làm hầu tìm lại được những nguồn mạch sâu thẳm của linh đạo linh mục[32]. Các linh mục cao niên tìm “xác nhận lại một cách thư thái và ôn hòa vai trò các ngài còn được mời gọi nắm giữ trong linh mục đoàn... để tự thấy mình còn hữu dụng, như làm cha giải tội kinh nghiệm, linh hướng, chia sẻ kinh nghiệm, khích lệ, đón tiếp, lắng nghe và trấn tĩnh anh em đồng sự[33]

Các linh mục ở vào một hoàn cảnh suy yếu thể lý hay mệt mỏi tinh thần, cô đơn, thất vọng cần được khích lệ tiếp tục phục vụ Giáo Hội một cách bình thản và can trường, nêu cao chứng từ ghi dấu thánh giá, bằng lòng đón nhận trong hy vọng và niềm vui Vượt Qua[34]. Trách nhiệm của Giám mục và linh mục đoàn là phải tránh sự cô đơn nảy sinh do sự chểnh mảng tình hiệp thông linh mục đối với các anh em đó[35]. ĐTC Phanxicô nói rằng những thách thức cuối đời của Mosê, Gioan Tiền Hô và thánh Phaolô đã nhắc nhở về những đền thờ của sự thánh thiện là các nhà hưu dưỡng của các linh mục và các nữ tu già yếu: Mang gánh nặng của sự cô đơn, các linh mục và nữ tu nầy đang chờ đợi Chúa đến gõ cửa trái tim mình và ngài hối thúc đừng lãng quên họ, nhưng hãy năng thăm viếng họ[36].

d. Hoạt động tương tác giữa các thành phần liên hệ:

Lãnh vực thường huấn này có thể mở rộng có hiệu quả hơn nữa nhờ các nguồn lực kiến hiệu này: Các cha giáo Đại Chủng Viện đến thăm các linh mục cựu sinh viên tại môi trường mục vụ để nâng đỡ, thúc đẩy, phối hợp và điều chỉnh cái học lý thuyết ở Chủng viện và cái thực tiễn trong sứ vụ mục vụ giáo xứ. Các linh mục cựu sinh viên lớn tuổi và hưu trí chia sẻ, hướng dẫn, cảnh báo, đào tạo và nâng đỡ đàn em, khi đàn em tới chỗ mình, hoặc khi về thăm chủng viện và Bề trên mời chia sẻ với các em chủng sinh những kinh nghiệm thực tiễn tích cực lẫn tiêu cực của đời sống ơn gọi và mục vụ giáo xứ.  

Các chủng sinh trong các kỳ nghỉ dài đến ở với các đàn anh linh mục để học hỏi kinh nghiệm mục vụ và phục vụ các ngài, đồng thời được các ngài bảo ban dạy dỗ và giúp đỡ, vừa tinh thần vừa vật chất cần thiết trong thời gian tu học (con nhớ lại kinh nghiệm này với lòng biết ơn sâu xa các cha đàn anh ngày con còn là chủng sinh gặp nhiều khó khăn về kinh tế). 

Không phải ai vào chủng viện đều được làm linh mục tất cả. Các anh em cựu chủng sinh sẽ thẳng thắn nói lên những điều tai nghe mắt thấy và những kiểm chứng dư luận, hầu giúp các anh em linh mục phát huy điều tốt, chỉnh đốn điều chưa tốt, cũng như những đóng góp tích cực và các hoạt động đa dạng của họ. Chính các cựu chủng sinh này là một vốn rất quí của Giáo Hội trong sứ mệnh tông đồ giáo dân. Họ là những người thành đạt trong xã hội dân sự sẽ trở nên những cố vấn chuyên môn và nhà tài trợ về các lãnh vực trần thế cho Giáo Hội. 



6. Tái định hướng đời sống và sứ vụ linh mục bằng việc tìm Chúa hơn là công việc của Chúa

Để sống tốt và thành công trong đời sống và sứ vụ linh mục, chúng ta phải luôn luôn đặt Chúa làm trung tâm chứ không phải mình, và tìm Chúa hơn là công việc của Chúa. Quả vậy, sứ vụ tông đồ là cái chung nhất của những ai muốn dấn thân phục vụ tha nhân, muốn đi truyền giáo, muốn xả thân cho người nghèo, nghĩa là nhắm đến phục vụ, tức Công Việc của Chúa. Các cơ cấu Giáo Hội được nhắm tới và được đón nhận như điểm tựa mục vụ, vì chúng giúp ta dấn thân cho sứ vụ tông đồ. Việc hoàn thiện các đức tính nhân bản, thăng tiến các tài năng, nghiệp vụ là những yếu tố giúp việc tông đồ hiệu năng hơn.

Việc đánh giá cao thành tích tông đồ và coi thường người thiếu khả năng khiến một số người bỏ bê đời sống cầu nguyện và nội tâm thiêng liêng để chạy theo tính hiệu quả của công việc. Nếu coi hoạt động tông đồ là động lực tối hậu thì khi không còn hoạt động tông đồ được nữa (do hoàn cảnh, bệnh tật, tuổi tác), các vấn đề tiêu cực sẽ nổi lên, vì sự quá lý tưởng vào việc tông đồ sẽ gặp chán nản và không còn hứng khởi kiên trì theo đuổi sứ vụ ơn gọi. Lúc đó những tiêu cực hay việc rời bỏ đời tu là kết quả đương nhiên của cơn khủng hoảng. 

Sự xung đột thường xảy ra giữa các cơ cấu tông đồ nặng tính truyền thống của thế hệ lớn tuổi và lối sống tông đồ sáng tạo của thế hệ mới. Nếu không điều chỉnh hài hoà được thì gánh nặng cơ cấu truyền thống sẽ bị kết thúc bởi khủng hoảng và những cuộc ra đi. Có những người ở lại chỉ vì đối với họ, việc rời bỏ đời tu là một sự sụp đổ hoàn toàn. Trong hoàn cảnh ấy, đức khiết tịnh cũng chỉ được duy trì bởi sự khổ hạnh, một khổ hạnh gắn liền với kỷ luật hơn là với tình yêu tự nguyện và hạnh phúc trọn vẹn cho Thiên Chúa. 

Có người chọn giải pháp tiêu cực: đã quá muộn để rời bỏ đời tu, phải cố chịu đựng cuộc sống như định mệnh đã an bài, luôn đau khổ vì tiếc nuối những hoạt động thật ý nghĩa trong quá khứ mà bây giờ không còn nữa. Người khác ở lại vì đời tu mang lại cho họ một cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, an toàn, dù rất tầm thường và chấp nhận một số công việc tông đồ ít ỏi mà họ có thể làm. Nếu sứ vụ tông đồ là động lực đời tu mà còn như thế thì người mang động lực có tính cách trần thế khác sẽ thế nào khi gặp khó khăn thử thách? Họ sẽ bỏ cuộc hoặc sẽ sống một đời tu miễn cưỡng, đã không triển nở hạnh phúc, mà còn sẽ có những tiêu cực nguy hại cho bản thân, cho tha nhân, cho Giáo Hội và sứ mệnh của Giáo Hội, vốn là công trình của Thiên Chúa. 

Trái lại, việc dấn thân vì chính Chúa giúp ta nhận biết Chúa là tuyệt đối và có qui chiếu tối hậu nơi Ngài, đến đỗi ngay cả giữa những cơn thử thách lớn lao và ngờ vực của đêm tối đức tin, chúng ta cũng cảm nhận được Chúa Là Tất Cả. Xác tín này cổ vũ dấn thân sống bền đỗ đời sống và sứ vụ ơn gọi trong mọi hoàn cảnh cuộc đời. Nó đem lại bình an, vui tươi và kích hoạt sức mạnh cần thiết để chúng ta sống vui tươi cuộc đời ơn gọi của mình. 

Kinh nghiệm này là một ân ban được tăng trưởng nhờ kiên trì cầu nguyện, chiêm niệm và đời sống nội tâm sâu xa. Nó là đá tảng vững chắc trong những thời khắc khó khăn, chán nản, lầm lạc và cả tội lỗi nữa. Nó mời gọi ta sám hối trở về cùng Chúa với lòng nhiệt thành ban đầu. Trong những cơn khủng hoảng tình cảm hay tính dục, kinh nghiệm này là sức vượt lên, vì tin chắc rằng Chúa luôn yêu thương tha thứ cho đến tận cùng, bất chấp tất cả yếu đuối và tội lỗi của chúng ta. 

Kinh nghiệm Chúa là Tất Cả là hàn thử biểu cho đời sống và sứ vụ ơn gọi. Nó không được đo lường bởi tính hiệu quả và thành công. Nó soi sáng và kích hoạt mọi hoàn cảnh sống, và là nguồn đặc sủng năng động tông đồ. Cảm nhận kinh nghiệm này giúp chúng ta không bao giờ phải đi tới ngõ cụt là lìa bỏ ơn gọi vì một sự thay đổi công việc hay nhiệm sở, tuổi tác hay bệnh hoạn làm cản trở công việc tông đồ. Chính kinh nghiệm này giải thích thái độ của những người ngày đêm âm thầm phục vụ trong những nơi và công việc tầm thường, khuất ẩn, chẳng ai để ý tới, hoặc thái độ của những người đang dấn thân trong các hoạt động tông đồ đang thành công bất ngờ bị bứng đi, và phải lặng lẽ ra đi như tới một nơi lưu đày.  

Kinh nghiệm Chúa là Tất Cả được nuôi dưỡng bởi các lời khuyên Phúc Âm: - Đức khó nghèo giúp lệ thuộc tuyệt đối vào Chúa: Chúa Giêsu sai các môn đệ đi truyền giáo không được mang theo gì cả để họ tín thác vào Thiên Chúa[37]; - Đức vâng lời dạy qui phục ý Chúa qua Bề Trên, là người có kinh nghiệm tìm ý Chúa cho mình cũng như cho bề dưới, và cùng bề dưới tìm Ý Chúa; - Đức khiết tịnh diễn tả một tình yêu trọn vẹn cho Thiên Chúa, không chia sẻ cho ai hay cái gì khác[38]. Kinh nghiệm về sự tuyệt đối của Thiên Chúa giúp từ bỏ ý riêng: nhượng bộ ý muốn và kế hoạch riêng cho Chúa, như Trinh nữ Maria trong ngày truyền tin đã qui phục ý muốn và kế hoạch đời Mẹ cho ý muốn và kế hoạch cứu độ của Chúa cho Mẹ và cho cả nhân loại.

Kinh nghiện nền tảng Chúa là Tất Cả phải vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm phải đến: Mọi sự đều qua đi, nhưng Thiên Chúa không hề thay đổi. Ai có được Thiên Chúa thì chẳng thiếu gì hết: Một mình Thiên Chúa là đủ. Do đó, phải ưu tiên tìm chính Chúa trong các công việc của Chúa và qui hướng các công việc của Chúa về chính Chúa. Chỉ khi nào vượt lên được chính mình và những thứ kéo ghì mình xuống để vươn lên chính Chúa hơn là công việc của Chúa thì chúng ta mới thực sự có được một đời tu bình an, thành công và hạnh phúc. 

Cần có một sự điều hợp giữa chính Chúa và công việc của Chúa trong đời sống linh mục. Nếu chính Chúa là động lực ơn gọi, ta có được bảo đảm cho tính trung thực của đời tu. Nếu công việc tông đồ là động lực, thì phải xem nó có kiên vững và tiến triển hướng về chính Chúa không? Nếu chỉ tìm công việc của Chúa mà quên chính Chúa thì sẽ có nguy cơ đi tới tình huống thiếu động lực đích thực. Như vậy kinh nghiệm Chúa là Tất Cả đã có mặt ngay từ đầu, hoặc đã trỗi lên qua dòng đời dâng hiến với việc thực thi các sứ vụ tông đồ. Việc dấn thân trong sứ vụ, sự nhiệt tình tông đồ, lòng tận tụy truyền giáo có thể là những trung gian quí báu dẫn tới kinh nghiệm “Chỉ một mình Chúa là đủ.” Trái lại, kinh nghiệm Chúa là Tất Cả cho ta ánh sáng, sức mạnh, và nhiệt huyết tông đồ. 

Có hai cách thức để đạt tới: hoặc ngay từ đầu đã có kinh nghiệm về chính Chúa, hoặc dần dần tiến lại với chính Chúa qua trung gian sứ vụ tông đồ, tức các công việc của Chúa. Công cuộc đào tạo và tự đào tạo phải đưa mỗi người đến trung tâm của ơn gọi là chính Chúa. Do đó, không được ham công việc của Chúa mà không ở với chính Chúa. Phải luôn tìm Chúa trong mọi công việc của Chúa và qui hướng mọi việc tông đồ về chính Chúa, để khi không thể làm việc của Chúa thì vẫn luôn còn có chính Chúa, và như thế là đủ. Có thể nói đó là đường hướng và nội dung căn bản của đời sống cầu nguyện liên lỉ sâu xa.

Thường ta không đạt được kinh nghiệm Chúa là tất cả ngay từ bước đầu tiên của ơn gọi, nhưng trong suốt hành trình được đào tạo và tự đào tạo, cũng như trong cuộc sống và sứ vụ tông đồ, nó phải được tôi luyện qua các khủng hoảng hay những thách đố lớn. Ta phải nhanh chóng thanh tẩy các động lực ơn gọi và đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu, “Đấng vẫn là một hôm qua, hôm nay và mãi mãi[39]. Trong thư gửi tín hữu Colossê, thánh Phaolô cho chúng ta tầm nhìn sâu sắc và tổng thể về vai trò trung tâm này của Chúa Giêsu[40]. ĐTC Phanxicô nói: “sự bất tuân phục và sự hoài nghi của chúng ta là những gút mắc chồng chéo trong linh hồn của mỗi người. Những gút mắc này lấy đi sự bình an và thanh thản của chúng ta. Chúng thật nguy hiểm, vì nhiều gút mắc có thể hình thành một mớ càng lúc càng đau đớn và khó tháo gỡ hơn. Tin vào Chúa Giêsu có nghĩa là dâng hiến cho Chúa trọn thân xác chúng ta với lòng khiêm nhu và can đảm của Mẹ Maria, để Chúa có thể tiếp tục ngự trong tâm hồn chúng ta[41]. 

Trong bài giảng thánh lễ ngày 5/12/2013, Ngài khẳng định rằng những lời nói và hành động của một Kitô hữu phải tập trung vào Chúa Giêsu, nếu không thì sẽ là trống rỗng, dẫn đến chia rẽ và điên rồ của tự phụ… Một tín hữu nói lời không bắt rễ từ Chúa Kitô là người tín hữu không có Chúa Kitô. Và việc không có Chúa Kitô này tạo nên chia rẽ giữa chúng ta, chia rẽ trong Giáo Hội. Hãy khiêm nhường xin Chúa giúp đỡ để nói lời bắt nguồn từ Chúa Giêsu Kitô[42].  

Sự qui chiếu về Chúa Giêsu phải là tuyệt đối. Dostoievski xác tín: “Tôi tin rằng không có gì đẹp hơn, không có gì sâu xa hơn, không có gì thiện cảm hơn, không có gì hữu lý hơn, không có gì mạnh mẽ hơn, và không có gì hoàn hảo hơn Chúa Kitô”. Thánh Patrice nói: “Chúa Kitô ở với tôi, Chúa Kitô ở trong tôi, Chúa Kitô ở sau lưng tôi, Chúa Kitô ở trước mặt tôi, Chúa Kitô ở bên cạnh tôi, Chúa Kitô đến nắm tay tôi, Chúa Kitô đến an ủi tôi, Chúa Kitô đến bổ sức cho tôi, Chúa Kitô ở dưới chân tôi, Chúa Kitô ở trên đầu tôi, Chúa Kitô ở trong sự bình tâm, Chúa Kitô ở trong hiểm nguy, Chúa Kitô ở trong trái tim của những người yêu mến tôi. Chúa Kitô ở nơi môi miệng của bạn hữu cũng như của người xa lạ.” 

Thánh Vinh sơn đệ Phaolô khuyên: “Bạn hãy nhớ rằng chúng ta sống trong Chúa Kitô nhờ cái chết của Chúa Kitô, và chúng ta phải chết trong Chúa Kitô để được sự sống của Chúa Kitô, đời sống chúng ta phải được giấu ẩn trong Chúa Kitô và tràn đầy Chúa Kitô, và để rồi nếu muốn được chết như Chúa Kitô thì phải sống như Chúa Kitô.” Còn thánh Gioan Tiền Hô ước muốn “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải bé đi”, và thánh Phaolô xác tín: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi.” - “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi thì nay vì Đức Kitô tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi[43].

Cầu mong cho mỗi người chúng ta ngày càng cam kết đi theo chính Chúa Kitô toàn thể, vừa với thập giá khổ nạn vừa với vinh quang Phục sinh, và có thể nói được cùng với thánh Phaolô: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. “Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta[44]. Tuy nhiên chúng ta vẫn phải luôn cảnh giác, vì trong thực tế, rất lắm lần chúng ta đã để một ai đó hay một cái gì đó tách biệt Chúa Giêsu ra khỏi tình yêu và cuộc đời của chúng ta, cho dù không hề có cái gì tách biệt chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Giêsu: chúng ta có thế nào đi nữa thì Ngài vẫn hằng thương yêu chúng ta, và thương yêu chúng ta cho đến cùng.  

Chúng ta sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian mà là thuộc về Thiên Chúa và Giáo Hội, có sứ mệnh tiếp tục công việc của Chúa Kitô, làm cho Ngài được nhận biết và yêu mến, qua việc rao giảng, giáo huấn, cử hành Thánh lễ và các bí tích, hoạt động bác ái và công lý, dưới sự hướng dẫn và tác động của ơn Chúa Thánh Thần. Thánh Gioan căn dặn: “Anh em phải coi chừng để khỏi đánh mất những gì anh em đã làm được, hầu lãnh được đầy đủ phần thưởng”[45]. Amen.

 

[1] Kh 2, 1-7 Với Ephêsô.

[2] Kh 3,8-11 Với Smiếcna.

[3] Kh 2, 12-17 Với Pécgamô.

[4] Kh 2, 18-39 Với Thyatira.

[5] Kh 3, 1-6 Với Sácđê.

[6] Kh 3, 7-13 Với Philađenphia.

[7] Kh 3, 14-22 Với Laođikia.

[8] Dt 4,12

[9] Is 55,10-11

[10] Mt 21,23.

[11] ĐTC Phanxicô nói trong bài giảng đầu tiên cho 114 vị Hồng Y bầu chọn mình.

[12] x. Mc 16,15-16.

[13] x. Thư thánh Inhaxiô Antiôkia gửi thánh Polycap, Bài đọc 2 Kinh Sách thứ sáu XVII TN.

[14] Trong ngày lễ khai mạc sứ vụ Giáo Hoàng ngày 19/3/2013.

[15] Gl 2,20.

[16] x. Huấn thị Phục vụ Quyền Bính và Vâng Lời của Bộ Tu Sĩ ra năm 2008.

[17] x. Mt.18, 15-17.

[18] ĐTC Phanxicô phát biểu với các chủng sinh và tập sinh tham dự Đại Hội Đời Sống Thánh Hiến tại Rôma ngày 6/7/2013.

[19] http://www.vietcatholic.net/News/Html/113268.htm

[20] PO số 72 và 82.

[21] PO số 87; x. 1 Tm 4, 16.

[22] PDV số 71.

[23] OT số 22.

[24] RFIS số 100.

[25] Định hướng và chỉ dẩn Đào tạo Linh mục tr. 241-272.

[26] EA số 43.

[27] FABC 92e.

[28] Chỉ Nam 1994 số 69-97.

[29] Chỉ Nam 1994 số 73.

[30] Chỉ Nam Linh mục 1994, số 93.

[31] Chỉ Nam 1994 số 77-78.

[32] PDV số 77; Chỉ Nam 1994 số 94.

[33] Chỉ Nam 1994 số 95.

[34] x. Col 1,24; Chỉ Nam số 96-97.

[35] Chỉ Nam 1994 số 97.

[36] Theo Radio Vatican - http://xuanbichvietnam.net/trangchu/duc-thanh-cha-phanxico-cac-linh-muc-va-nu-tu-gia-yeu-trong-cac-nha-huu-duong-den-tho-dich-thuc-cua-su-thanh-thien/

[37] x. G 1,21; 2,10b.

[38] x. 1 Cr 7, 32-35.

[39] Dt 13,8.

[40] x. Cl 1, 15-20.

[41] Trích lời ĐTC Phanxicô nói trong Đêm cánh thức Thánh mẫu tại quảng trường thánh Phêrô ngày 12/10/2013.

[42] VATICAN CITY, December 5 (CNA/EWTN News).

[43] x. Pl 3,7-14.

[44] Rm 8, 35 – 39.

[45] 2 Ga 1, 8.
VỀ MỤC LỤC


GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2014 - BẢN TIN 05



Thưa quý độc giả và quý tác giả,

Giải Viết Văn Đường Trường do Ban mục vụ Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn khởi xướng. Nó muốn gợi lên nơi bạn trẻ Công giáo ý định thử viết một truyện ngắn có nội dung Kitô giáo, rồi từ đó dần dần sẽ khám phá ra mình có thể trau dồi khả năng này để phụng sự Thiên Chúa và Giáo hội.

Chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu 6 truyện dự thi mới.

http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=12285

Xin mời quý độc giả cùng theo dõi, đánh giá và tham gia bình chọn qua hai câu hỏi: 1. Theo bạn, truyện nào xứng đáng đạt giải nhất? 2. Có bao nhiêu người cùng ý kiến như bạn? Ba độc giả đáp đúng nhất sẽ được tặng quà lưu niệm đồng thời được hỗ trợ tiền xe về dự họp mặt trao giải và hành hương “dấu chân Hàn Mạc Tử”.

Quý độc giả có thể gửi phiếu bình chọn ngay sau từng đợt bài được giới thiệu. Khi đọc các truyện ở các đợt tiếp theo, nếu thay đổi ý kiến, có thể gửi phiếu bình chọn mới. Chúng tôi sẽ tính theo phiếu gởi sau cùng của mỗi người.

Ước mong quý độc giả khắp nơi tích cực vận động để có thêm nhiều tác giả hưởng ứng và tiếp tục tham gia cuộc thi.

Xin mời xem Bản Thể Lệ Giải Viết Văn Đường Trường đính kèm cuối bản tin này. http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=12285

Nhân đây Ban Tổ chức xin thông báo: Để tạo điều kiện cho các tác giả có thời gian hoàn thiện bản thảo dự thi, thời hạn nhận bài của giải 2014 được gia hạn kéo dài thêm một tháng, hạn cuối nhận bài đến hết ngày 31-3-2014.

Xin trân trọng giới thiệu 6 tác phẩm dự thi mới được chọn qua vòng sơ tuyển. Một số bài không lọt qua vòng loại do chưa phải là truyện ngắn (chỉ mang dạng chia sẻ tâm tình, tùy bút hoặc kể chuyện), do kết cấu lủng củng, chưa thống nhất ý tưởng, hoặc do lấy lại câu chuyện từ một truyện nào đó (phóng tác chứ không phải là sáng tác). Nếu quý độc giả phát hiện bài nào chỉ là phóng tác từ một tác phẩm khác đã công bố, xin vui lòng cho Ban Tổ chức được biết.

Xin chân thành cám ơn các trang truyền thông Công giáo đã và đang hỗ trợ truyền bá chương trình này, cám ơn quý tác giả đã gửi bài tham gia và cám ơn quý độc giả đang quan tâm theo dõi cuộc thi. Nguyện xin Thiên Chúa giàu lòng thương xót chúc lành cho tất cả chúng ta.

Qui Nhơn, ngày 15-03-2014

Thay lời Ban Tổ chức

Linh mục TRĂNG THẬP TỰ



VỀ MỤC LỤC


DƯỢC THẢO


Dược Thảo đã giữ vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe con người từ nhiều ngàn năm, khi mà y học tây phương chưa xuất hiện. Dược thảo dùng cây thuốc để phòng bệnh và chữa bệnh.

Theo cơ quan Y tế Thế giới, một sản phẩm được coi là  dược thảo khi thành phần chính gồm một bộ phận của thảo mộc nằm ở trên không hoặc ở dưới đất, trong hình dạng nguyên thủy hay sau khi được chế biến. Khi có pha lẫn hoá chất hay khoáng chất thì sản phẩm đó không còn là dược thảo nữa.

Cũng theo cơ quan này, hiện nay có tới 80% dân chúng trên thế giới dùng dược thảo. Kỹ nghệ chế biến dược thảo, bốc thuốc rất phát triển, thịnh vượng, thu vào nhiều chục tỷ mỹ kim.  

Riêng tại Hoa Kỳ, vào năm 1998, dân chúng Hoa Kỳ tiêu hơn 4 tỷ mỹ kim để mua các lọai  dược thảo. Từ năm 1990 tới 1997, số người dùng dược thảo tăng 380%, số người đi khám bác sĩ giảm, mà số người đi khám bệnh thầy thuốc không chính thống lại tăng.

Dược thảo được bầy bán khắp nơi, đôi khi ngay cả trong tiệm chuyên bán âu dược. Những môn thuốc của Mẹ Thiên Nhiên như lá, củ, rễ, vỏ, hoa đã mau chóng trở nên phương tiện trị liệu ưa thích của người dân. Họ mua để chữa các bệnh như cảm cúm, đau nhức, tiểu đường, tới bệnh trầm trọng hơn như ung thư các loại, tê liệt tứ chi.

Với cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm Hoa kỳ ( FDA ) thì dược thảo được xếp hạng thực phẩm phụ, như đã quy định trong Dietary Supplement Health and Education Act năm 1994. Dược thảo được bầy bán không cần thử nghiệm, nghiên cứu như âu dược, mặc dù dược thảo có tính cách trị bệnh và cũng có tác dụng phụ. Dược thảo không được quảng cáo là có công dụng trị bệnh mà chỉ được nói chung chung về ích lợi của sản phẩm, thí dụ thuốc làm lợi tiểu tiện, bổ gan, tăng cường miễn nhiễm...

Khi thuốc bị coi là không an toàn thì cơ quan này sẽ không cho bầy bán.  

Đa số dược thảo hiện có trên thị trường đều được sản xuất theo kinh nghiệm đã dùng hoặc dựa vào những bài thuốc được lưu truyền trong giòng họ và được coi như đáng tin cậy. Vì dược thảo không được cơ quan FDA cấp bằng đặc quyền chế tạo, nên các nhà sản xuất không chịu bỏ vốn cho chi phí nghiên cứu khoa học như âu dược. Ngoài ra còn các vị lương y cổ truyền tiếp tục chẩn mạch, bốc thuốc phục vụ bệnh nhân.

Để đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi cuả dân chúng, chính quyền các quốc gia cũng bắt đầu lưu ý, dành ngân khoản, lập cơ quan nghiên cứu  công dụng và an toàn cuả dược thảo.

Gần đây, viện National Institutes of Health, Hoa Kỳ, đã thành lập một trung tâm nghiên cứu về dược thảo cũng như các phương tiện trị liệu không chính thống, và đã dành nhiều ngân khoản cho việc nghiên cứu này. Đó là do áp lực của người tiêu thụ dược thảo mồi ngày một tăng, vì nhiều lý do như:

- âu dược quá đắt, đôi khi không công hiệu, mà lại có nhiều tác dụng có hại, không muốn;

- dân chúng thích dược thảo có nguồn gốc trực tiếp từ cây cỏ hơn là âu dược hóa chất;

- bất bình với nhóm tài phiệt bao thầu quản trị y tế giới hạn việc sử dụng tây y để kiếm nhiều lợi nhuận.

Năm 2008, Cơ quan Y tế Thế giới cũng lập một ủy ban để phối hợp với các quốc gia ngõ hầu hệ thống hóa và hữu hiệu hóa môn trị bệnh cổ truyền giá trị này.

Một vài đặc điểm về dược thảo.

Trước khi dùng dược thảo để trị bệnh, tưởng cũng nên tìm hiểu một vài dữ kiện về loại thuốc này:

         

1- Sự an toàn của dược thảo.

Ý kiến chung coi dược thảo an toàn hơn âu dược, ít gây chứng bệnh phụ và rất ít khi gây tai nạn tử vong.

Tuy nhiên dược thảo vẫn là một loại thuốc, khi dùng ta cần cẩn thận, không nên nghĩ vì nó là cây thiên nhiên thì không có hại.

Cam thảo ( licorice ) là một trong những thuốc cây cỏ dùng nhiều nhất trên khắp thế giới để chữa bệnh loét bao tử, ho, suyễn, nhưng nếu dùng lâu ngày, có thể gây cao huyết áp, nhức đầu, mệt mỏi. Khi mới dùng lần đầu, nên dùng với phân lượng nhỏ rồi tăng dần cho tới liều chỉ dẫn bởi nhà sản xuất.

Một thí dụ khác là cà phê, một loại họ thảo ta dùng mỗi buổi sáng để nâng cao tinh thần. Nếu uống hai ly mỗi sáng thì có tác dụng tốt như ý muốn, năm ly là có nhức đầu, nóng nẩy, 15 ly thì bắt đầu thấy ù tai, chóng mặt.

Dược thảo bán trên thị trường không được thử nghiệm về sự tinh khiết và hiệu nghiệm, nên đôi khi có lẫn chất không cần như phấn hoa, phấn lá có thể gây dị ứng hoặc cây thuốc đã bị hư mục.

 

2- Công hiệu của dược thảo.

Các nhà sản xuất cũng như hơn 4 tỉ người đang dùng dược thảo đều cho là cây thuốc công hiệu trong việc trị bệnh và ngừa bệnh. Đã có nhiều nghiên cứu khoa học hỗ trợ ý kiến này.

Có điều là tác dụng của dược thảo thường từ từ, nhẹ nhàng, cần thời gian lâu để có hiệu quả, do đó tốt trong việc phòng bệnh.

 Dược thảo, với nhiều chất thuốc khác nhau, có tác dụng vào nhiều bộ phận cơ thể hơn là âu dược, với một dược chất có tác dụng tập trung vào một số dấu hiệu triệu chứng hoặc một bệnh .

Dược thảo thường không đủ mạnh để trị cấp cứu, nhất là các bệnh do vi khuẩn gây ra, do đó kháng sinh vẫn là thuốc căn bản.

         



3- Dược thảo không gây ghiền.

Thường thường cây thuốc gây ghiền như cây á phiện, cần sa... không được phép bán công khai tại tiệm thuốc âu dược hay tiệm thuốc thiên nhiên.

Ngoài ra dược thảo không có kích thích tố hay chất chống viêm steroid, nhưng một vài dược thảo có tác dụng hỗ trợ sự sản xuất các chất này trong cơ thể.

         



4- Nguồn gốc dược thảo.

Theo các nhà sản xuất, thì dược thảo đều do cây cỏ được trồng trong môi trường có kiểm soát, đôi khi không dùng hoá chất diệt sâu bọ, cỏ dại hoặc phân bón nên phẩm chất tốt, thiên nhiên. Nhiều khi cây  mọc hoang cũng được dùng để chế thành thuốc.

         

5- Chọn lựa dược thảo

Như đã nói ở trên, nhà sản xuất  không cần chứng minh sự an toàn và công hiệu của dược thảo khi tung ra thị trường, mà chỉ khi nào có chuyện xẩy ra thì thuốc đó mới bị bỏ đi.

Tiêu chuẩn bào chế của mỗi nhà sản xuất đều khác nhau, nên tỷ lệ dược liệu đều thay đổi. Tỷ lệ này cũng thay đổi tuỳ theo cây cỏ được trồng ở địa phương nào, được hái vào mùa nào, được tồn trữ ra sao và phần nào ( rễ, thân hay lá ) của cây được xử dụng để chế thuốc.

Những điều này gây khó khăn không ít cho người tiêu thụ khi mua thuốc. Vì thế các nhà sản xuất đã tổ hợp với nhau để thống nhất bào chế.

Khi mua, nên lựa sản phẩm do sự liên kết với các công ty ở Âu châu,  vì thường thường họ có cơ sở nghiên cứu đầy đủ về phân lượng, tinh khiết và công hiệu.

Cũng nên lựa  sản phẩm cũng có nhãn hiệu với chỉ dẫn cách dùng, tác dụng phụ, loại cây cỏ, ngày hết hạn.

 

Những điều cần lưu ý khi dùng dược thảo,.

Tại Hoa Kỳ, Tây y  được xây dựng trên căn bản sinh hóa học tiến bộ. Cơ quan  Thực Phẩm và Dược Phẩm, với nhiệm vụ điều hợp thực dược phẩm, bảo vệ sức khoẻ con người, thường nhìn dược thảo với con mắt dè dặt, nghiêm khắc. Họ cho là dược thảo không có công dụng trị liệu và nguy hiểm.

Một luật gia than  phiền là hiện giờ có hai chế độ dược phẩm: một chế độ muốn được bầy bán phải chứng minh có công hiệu trị liệu và tuân theo luật lệ; chế độ kia được bán tự do, không cần kê khai giá trị.

Bác sĩ Marcia Angel, Chủ bút tập san Y học uy tín New England Journal of Medecine khẩn khoản kêu nài dân chúng đừng tự chữa bệnh, dùng dược thảo vì thuốc có nhiều thành phần không khai báo được pha thêm vào như chì, thạch tín, rất nguy hiểm.

 Còn giáo sư dược khoa nổi danh Varro Tyler  cho là sự nghiên cứu về dược thảo của các quốc gia Âu Châu rất đáng tin cậy, tuy nhiên, độc tính dài hạn của thuốc cần được theo dõi, tác dụng phụ có hại thường được che dấu, giảm thiểu.

Dù vậy, dược thảo vẫn được người dân tiêu thụ, vì niềm tin có bệnh thì vái tứ phương, vì có ngay khi cần, không phải mất công lấy hẹn, ngồi chờ bác sĩ, cũng như  khi gặp trọng bệnh mà Tây Y bó tay. Tuy nhiên cũng nên lưu ý mấy điều để tránh chuyện chẳng lành:

            1-  Thông báo cho bác sĩ nếu đang dùng dược thảo để tránh tác dụng không tốt giữa âu dược và thuốc cỏ cây. Không dùng ginkgo biloba (bạch quả ) với thuốc trị đau nhức Aspirin, thuốc ngừa tai biến não Ticlid, Persantine; âu dược trị trầm cảm với St John Wort...

            2- Không dùng dược thảo khi mang thai, nuôi con bằng sữa mẹ, không cho con nhỏ dùng dược thảo vì  ở trẻ em và thai nhi, gan chưa đủ sức vô hiệu hóa độc chất cuả dược thảo. Xin đan cử một thí dụ: khi uống một ly cà phê, người lớn chỉ cần 5 giờ để loại khỏi cơ thể mà con nít cần đến cả 80 giờ.

            3- Tuy dược thảo có nguồn gốc thiên nhiên nhưng không thiên nhiên với cơ thể con người. Cho nên  thuốc có thể gây bất lợi khi dùng, nhất là vì thiếu kiểm soát nên thành phần không thống nhất, phẩm chất không tinh khiết, đôi khi pha lẫn chất có hại cho cơ thể.

            4- Không nên dùng dược thảo quá dăm tuần lễ vì an toàn dùng dài hạn chưa được chứng minh, cũng như không dùng quá nhiều vì nguy cơ gây độc cho gan và thận. Cũng không nên dùng nhiều dược thảo khác nhau một lúc vì tác dụng tương phản của thuốc.

            5- Dược thảo cũng có tác dụng phụ như bạch quả gây xuất huyết; mã hoàng (ephedra ) gây tăng huyết áp, nhức đầu, rối loạn nhịp tim; St John wort làm chóng mặt, mệt mỏi khô miệng , mất định hướng...

Và cuối cùng là không nên quá tin tưởng ở lời quảng cáo, giới thiệu của nhà sản xuất vì những lời này không được cơ quan trách nhiệm xác định giá trị, đồng thời cũng nên tìm hiểu về đặc tính trị liệu của loại dược thảo đang dùng.

Vì sau khi dùng mà “thuốc” không công hiệu hoặc có tác dụng không muốn thì ta còn “kiện tập thể”, để đòi bồi thường. Chứ chẳng lẽ lại “ngậm miệng”, chịu đau.

Đau hơn là mới bị “thiến” hay sao?!



 

Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC

Tuyển tập Videos Sống Vui Sống Khoẻ

Vài hàng giới thiệu : Xin trân trọng giới thiệu tuyển tập Videos "Sống Vui Sống Khoẻ" của BS Nguyễn Ý Đức. Tuyển tập này là những bài nói chuyện hữu ích về y tế, dinh dưỡng và sức khoẻ của BS Nguyễn Ý Đức trên các đài truyền hình được đưa lên Internet. Cùng với bộ sách "Câu Chuyện Thầy Lang" và những ấn phẩm đã được xuất bản, những bài viết trên Internet, tuyển tập Videos "Sống Vui Sống Khoẻ" này sẽ cung cấp nhiều thông tin hữu ích, đóng góp vào việc cải thiện vấn đề sức khỏe cho cộng đồng người Việt Nam khắp nơi.

http://www.youtube.com/user/DrNguyenYDuc/videos


VỀ MỤC LỤC


Giáo sĩ: xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân



- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca Phạm Quốc Sử USA



tải về 0.76 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương