Chính sách cạnh tranh
104. Đại diện của Việt Nam cho biết trong giai đoạn kinh tế kế hoạch tập trung ở Việt
Nam, các cơ quan Chính phủ kiểm soát tất cả các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động
trong từng ngành. Hiện nay, các cơ quan Chính phủ không còn quyền kiểm soát đó nữa
nhưng vẫn chịu trách nhiệm về chính sách phát triển ngành ("quản lý chuyên ngành").
105. Luật Cạnh tranh đã được thông qua ngày 3/12/2004. Luật này có hiệu lực thi hành
từ ngày 1/7/2005. Luật Cạnh tranh được áp dụng đối với tất cả các doanh nghiệp dù là
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp do nhà nước kiểm soát,
doanh nghiệp được cổ phần hoá hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, và áp dụng
cho cả các hiệp hội ngành nghề (Điều 2). Luật Cạnh tranh công nhận quyền tự do cạnh
tranh của doanh nghiệp và bảo vệ quyền cạnh tranh trong kinh doanh. Luật Cạnh tranh
cấm các hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh. Luật cũng ngăn cấm
các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện một số hành vi nhất định, như buộc các doanh
nghiệp, tổ chức hay cá nhân mua hoặc bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ với các
doanh nghiệp được cơ quan này chỉ định (trừ các lĩnh vực độc quyền nhà nước hoặc
trong các trường hợp khẩn cấp); phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp; ép buộc các
doanh nghiệp hoặc các hiệp hội ngành nghề phải liên kết với nhau để loại trừ, hạn chế
hoặc cản trở các doanh nghiệp khác cạnh tranh trên thị trường; và thực hiện các hành vi
khác cản trở các hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp.
106. Các hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm trong luật bao gồm các thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung
49
kinh tế (Điều 8). Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm các thoả thuận ấn định giá
hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; thoả thuận về việc phân chia thị
trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá hay dịch vụ; thoả thuận hạn chế hoặc kiểm
soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả thuận hạn chế
phát triển kỹ thuật, công nghệ hay hạn chế đầu tư; thoả thuận áp đặt các điều kiện mua
hoặc bán hàng hoá hoặc dịch vụ đối với các doanh nghiệp khác hoặc ép buộc các doanh
nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không có liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp
đồng; thoả thuận ngăn cản, kìm hãm hoặc không cho các doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh; thoả thuận nhằm loại bỏ khỏi thị trường các doanh
nghiệp không phải là các bên của thoả thuận; và thông đồng để một hoặc các bên của
thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Ba loại thoả
thuận hạn chế cạnh tranh cuối cùng nêu trên là các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
tuyệt đối. Các loại khác bị cấm nếu thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các bên
tham gia thoả thuận chiếm trên 30%, trừ trường hợp quy định tại điều 10. Hành vi lạm
dụng vị trí thống trị được quy định tại Điều 13 của Luật này và hành vi lạm dụng vị trí
độc quyền được quy định tại Điều 14. Tập trung kinh tế (sát nhập, hợp nhất, mua lại, liên
doanh và các hành vi tập trung kinh tế khác) bị cấm theo Điều 18 nếu thị phần kết hợp
của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% thị trường liên quan. Có
3 trường hợp ngoại lệ: (i) sau khi thực hiện các doanh nghiệp vẫn thuộc loại doanh
nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của Luật (Điều 18); (ii) một hoặc nhiều bên tham gia
tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc phá sản; hoặc (iii) tập trung kinh tế
đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội, kỹ thuật và công nghệ, hoặc có tác dụng mở
rộng xuất khẩu như quy định tại Điều 19. Các dự án tập trung kinh tế phải được thông
báo trước khi thực hiện nếu thị phần kết hợp của các bên tham gia chiếm từ 30% tới 50%
thị trường có liên quan, trừ trường hợp sau khi thực hiện, các doanh nghiệp vẫn có quy
mô nhỏ hoặc vừa. Các thủ tục thông báo được quy định trong các điều từ Điều 21 tới
Điều 38 của Luật Cạnh tranh.
107. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại Chương III của Luật
Cạnh tranh bao gồm việc cung cấp chỉ dẫn gây nhầm lẫn; xâm phạm bí mật kinh doanh;
ép buộc trong kinh doanh; gièm pha doanh nghiệp khác; gây rối hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp khác; quảng cáo hoặc khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
phân biệt đối xử trong hiệp hội; bán hàng đa cấp bất chính (mô hình kim tự tháp); và các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại Khoản 4, Điều 3 của
Luật Cạnh tranh và theo quy định của Chính phủ.
50
108. Luật Cạnh tranh quy định về các trình tự, thủ tục điều tra, về phiên điều trần, về
quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng, các hình thức xử lý vi phạm. Các tổ
chức, cá nhân có thể khiếu nại các hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh với Cơ quan
quản lý cạnh tranh (Điều 58 khoản 1). Cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm điều
tra sơ bộ nhằm xác định dấu hiệu vi phạm (Điều 59 và 86). Trong trường hợp có dấu
hiệu vi phạm thì việc điều tra chính thức được tiến hành (Điều 87). Cơ quan quản lý cạnh
tranh cũng có thể tự mình tiến hành điều tra nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm. Sau khi
kết thúc điều tra, báo cáo kết quả điều tra được chuyển đến Hội đồng cạnh tranh (Điều
93), Hội đồng cạnh tranh sẽ thành lập Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Hội đồng xử lý
vụ việc cạnh tranh sẽ ra quyết định hoặc sẽ mở phiên điều trần, hoặc sẽ trả lại hồ sơ cho
Cơ quan quản lý cạnh tranh để điều tra bổ sung, hoặc đình chỉ giải quyết vụ việc cạnh
tranh (Điều 99 và 100). Phiên điều trần sẽ được tổ chức công khai. Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh ra quyết định bằng cách bỏ phiếu kín và quyết định theo đa số (Điều
104). Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh sẽ có hiệu lực pháp luật sau 30 ngày kể từ
ngày ký nếu trong thời hạn đó không bị khiếu nại theo quy định tại Điều 107 (Điều 106).
Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có thể được khiếu nại lên Hội đồng
Cạnh tranh và quyết định của Cơ quan Quản lý Cạnh tranh được khiếu nại tới Bộ
Thương mại (Điều 107). Nếu các bên không nhất trí với quyết định giải quyết khiếu nại
về quyết định của Hội đồng Cạnh tranh hay Bộ Thương mại, các bên liên quan có thể
khởi kiện vụ án hành chính đối với một phần hay toàn bộ nội dung của quyết định giải
quyết khiếu nại ra tại Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm
quyền (Điều 115). Việc thực thi quyết định được thực hiện bởi cơ quan thi hành án dân
sự cấp tỉnh của tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương nơi bên phải thực hiện quyết
định cư trú hoặc đặt trụ sở chính.
109. Để trả lời một câu hỏi cụ thể, đại diện của Việt Nam cho biết thêm là luật này không
có điều khoản nào quy định cho doanh nghiệp Nhà nước hoặc doanh nghiệp do nhà nước
kiểm soát được hưởng đặc quyền cạnh tranh theo luật so với các doanh nghiệp khác. Có
thể tham khảo bản tiếng Anh của luật này tại trang web của Bộ Thương mại
(http://www.mot.gov.vn/en/Files/1727D5D2C1F.PDF).
KHUÔN KHỔ BAN HÀNH VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH
110. Đại diện của Việt Nam cho biết, theo Hiến pháp 1992 (được sửa đổi năm 2001),
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan có quyền lập
51
pháp. Quốc hội quyết định những chính sách về đối nội và đối ngoại, các nhiệm vụ kinh
tế - xã hội, các vấn đề quốc phòng và an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về
tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công
dân. Quốc hội cũng thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước. Bên cạnh đó, Quốc hội có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó
Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác
của Chính phủ.
111. Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội; có quyền tổ chức
việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; ban hành pháp lệnh và nghị quyết. Uỷ ban thường vụ
Quốc hội có quyền giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; đình chỉ việc thi hành các văn bản của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của
Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
112. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại
biểu Quốc hội; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ tịch nước có
các quyền, trong đó có công bố luật, pháp lệnh sau khi được thông qua ; bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ. Chủ
tịch nước đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước
quốc tế đã trực tiếp ký; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế, trừ trường
hợp cần trình Quốc hội quyết định.
113. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao
nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý công
tác đối ngoại; đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp Chủ tịch nước quyết định đàm phán và ký kết điều
ước quốc tế nhân danh nhà nước với người đứng đầu nhà nước khác ; đàm phán, ký, phê
duyệt, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều
52
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài. Hội
đồng nhân dân bầu ra Uỷ ban nhân dân. Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân và chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước ở địa phương. Uỷ ban nhân dân
chịu trách nhiệm thi hành Hiến pháp, luật và các văn bản pháp luật của cơ quan Nhà
nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Trong phạm vi quyền hạn của
mình, Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn
bản đó.
114. Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ ra
quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó. Thủ tướng Chính phủ đình
chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, các
thành viên khác của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn
bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội
đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và các văn
bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội
bãi bỏ.
115. Đại diện của Việt Nam khẳng định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền ban hành
Hiến pháp và luật. Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (được sửa
đổi năm 2002), hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam bao gồm (i) văn bản do Quốc hội ban hành bao gồm Hiến pháp, luật,
nghị quyết; (ii) văn bản do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành bao gồm pháp lệnh,
nghị quyết; (iii) lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; (iv) nghị quyết, nghị định của Chính
phủ; (v) quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; (vi) quyết định, chỉ thị, thông tư
của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; (vii) nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao; quyết định, chỉ thị, thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; (viii) nghị quyết, thông tư liên tịch
giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ
chức chính trị - xã hội; (ix) nghị quyết của Hội đồng nhân dân và (x) quyết định, chỉ thị
của Uỷ ban nhân dân. Hiến pháp có giá trị pháp lý cao nhất và tất cả các văn bản quy
phạm pháp luật khác phải phù hợp Hiến pháp. Văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan
nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
53
nhà nước cấp trên. Các văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp và các văn bản
quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước cấp trên ban hành được huỷ bỏ và/hoặc đình
chỉ bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa
các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý tương đương do
cùng cơ quan ban hành thì những quy định được ban hành sau sẽ có hiệu lực. Đáp lại gợi
ý là Việt Nam nên ban hành các luật có thể tự thi hành ngay mà không cần có hướng dẫn,
đại diện của Việt Nam nhấn mạnh rằng Việt Nam đang nỗ lực hết sức trong việc ban
hành những quy định và hướng dẫn cần thiết cho việc áp dụng các đạo luật ngay sau khi
được ban hành.
116. Đáp lại khuyến nghị của một số Thành viên về việc tăng cường cơ hội tham vấn lấy
ý kiến trước khi thông qua luật và đẩy nhanh quá trình ban hành các văn bản hướng dẫn
luật, đại diện của Việt Nam cho rằng Việt Nam đã có tiến bộ đáng kể trong việc đẩy
nhanh thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Về việc lấy các ý kiến của nhân dân
trong quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật, Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của
Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định rằng các tổ chức xã hội, tổ chức
kinh tế, cơ quan Nhà nước và các cá nhân có quyền đóng góp ý kiến xây dựng các văn
bản pháp luật. Trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật, các cơ quan tổ chức liên
quan tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức khác và các cá nhân tham gia đóng góp ý
kiến, và tổ chức việc lấy ý kiến từ những đối tượng chịu tác động trực tiếp bởi các văn
bản đó trong phạm vi và hình thức thích hợp. Các ý kiến tham gia về dự án hoặc dự thảo
một văn bản pháp luật sẽ được nghiên cứu để tiếp thu chỉnh lý dự án, dự thảo văn bản.
117. Trả lời câu hỏi của một Thành viên về pháp luật điều chỉnh quyền đầu tư vào các
lĩnh vực cụ thể, đại diện của Việt Nam khẳng định rằng bất kỳ việc sửa đổi hoặc huỷ bỏ
nội dung nào trong danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện hoặc danh mục lĩnh vực cấm
đầu tư được nêu trong các Bảng 1 và 2 của Báo cáo này (cũng được ban hành kèm theo
Nghị định số 59/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12 tháng 6 năm 2006) sẽ phù hợp với
các nghĩa vụ của Việt Nam sau khi gia nhập WTO, bao gồm cả các nghĩa vụ về minh
bạch hoá. Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch Đầu tư hoặc các bộ ngành sẽ phối hợp với các cơ
quan liên quan trình các đề xuất sửa đổi lên Chính phủ hoặc trong trường hợp các hoạt
động đầu tư quy định bởi các luật khác (ví dụ Luật Tổ chức tín dụng, Luật về Kinh
doanh Bảo hiểm, vv…) sẽ đệ trình lên cơ quan có thẩm quyền để xem xét. Đại diện của
Việt Nam cũng khẳng định thêm rằng các ý kiến đóng góp nhận được trong quá trình
54
soạn thảo và các sửa đổi của đề xuất sẽ được công khai phù hợp với Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật. Ban Công tác ghi nhận cam kết này.
118. Được hỏi về khả năng áp dụng trực tiếp các điều ước quốc tế, đại diện của Việt
Nam cho biết ngày 14/6/2005 Quốc hội đã thông qua Luật số 41/2005/QH về Ký kết, gia
nhập và thực hiện điều ước quốc tế (Luật về Điều ước quốc tế). Luật đã có hiệu lực từ
ngày 1/1/2006. Luật này quy định về việc ký kết, gia nhập, bảo lưu, lưu chiểu, lưu trữ,
sao lục, công bố, đăng ký, thực hiện, giải thích, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu
lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế được ký kết hoặc gia nhập
nhân danh Nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Chủ tịch nước và Chính phủ quyết định đàm phán và ký kết các điều ước quốc tế
(Điều 11). Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ quyết định việc gia nhập các điều ước
quốc tế đa phương (Điều 50). Quốc hội và Chủ tịch nước có thẩm quyền phê chuẩn các
điều ước quốc tế và Chính phủ có thẩm quyền phê duyệt các điều ước quốc tế. (Điều 31,
32, 43 và 44). Điều 69 của Luật quy định việc đăng các điều ước quốc tế trên Công báo
và "Niên giám điều ước quốc tế". Đại diện của Việt Nam khẳng định rằng việc gia nhập
WTO yêu cầu phải có phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam. Quốc hội
và Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền giám sát việc thực hiện các điều ước quốc
tế tại Việt Nam.
119. Đại diện của Việt Nam bổ sung rằng theo Luật về Điều ước quốc tế, điều ước quốc
tế có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam theo thể thức và thời hạn được quy định trong điều ước quốc tế đó hoặc theo thỏa
thuận giữa Việt Nam và bên/các bên ký kết nước ngoài. Đối với Việt Nam, căn cứ vào sự
cần thiết, nội dung và tính chất của điều ước, Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ,
trong quá trình xem xét, quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế, sẽ
đồng thời quyết định việc áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đối
với các cơ quan tổ chức và cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước đã đủ rõ, chi
tiết để thực hiện; hoặc sẽ ra quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó. Trong trường
hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy
định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng các quy định của điều ước quốc tế. Đồng
thời, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật không làm cản trở việc thực hiện các
điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về cùng
một vấn đề. Khi phê chuẩn Nghị định thư gia nhập, Quốc hội sẽ xem xét quyết định về
55
việc có hay không quy định khác nhau về cùng một vấn đề giữa Nghị định thư và các
văn bản quy phạm pháp luật. Nếu Quốc hội quyết định là có sự khác nhau như vậy thì
Quốc hội sẽ quyết định một cách chính xác về cách thức các cam kết của điều ước liên
quan sẽ được ưu tiên áp dụng, cụ thể là thông qua việc áp dụng trực tiếp các toàn bộ
(hoặc từng phần) điều ước quốc tế đó hoặc sửa đổi các văn bản liên quan trong nước.
Ban Công tác ghi nhận các cam kết này.
120. Tổ chức và hoạt động của hệ thống toà án Việt Nam được quy định tại Luật số
33/2002/QH10 ngày 2/4/2002 về Tổ chức Toà án nhân dân. Theo Luật này, hệ thống toà án
bao gồm Toà án nhân dân tối cao, tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
tòa án nhân dân các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các tòa án quân sự; các tòa án
khác do luật định, (trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án
đặc biệt). Tòa án nhân dân tối cao có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: (i) Hướng dẫn
các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Tòa án; (ii)
Giám sát việc xét xử của các Tòa án các cấp; giám sát việc xét xử của Tòa án đặc biệt và các
Tòa án khác, trừ trường hợp có quy định khác khi thành lập các Tòa án đó; (iii) Trình Quốc
hội dự án luật và trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự án pháp lệnh theo quy định của pháp
luật. Tòa án xét xử công khai, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị
vũ trang nhân dân và mọi người tôn trọng.
121. Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 quy định về các thủ tục giải quyết các tranh chấp
về kinh tế và thương mại. Bộ luật Tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản
trong tố tụng dân sự như trình tự, thủ tục khởi kiện tại Toà án để giải quyết các vụ án liên
quan đến các tranh chấp hay yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự hoặc việc dân sự). Theo Bộ luật
này, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của
Nhà nước bị xâm phạm; thời hiệu yêu cầu để Toà án giải quyết việc dân sự là một năm,
kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu. Bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm có hiệu
lực pháp lý nếu không bị kháng cáo trong thời hạn được kháng cáo. Theo Bộ luật tố tụng
dân sự và Pháp lệnh thi hành án dân sự số 13/2004/PL-UBTVQH11 ngày 14 tháng 1
năm 2004, bản án hoặc quyết định có hiệu lực của Toà án phải được tôn trọng và thực
hiện bởi các tổ chức và cá nhân. Bên được thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành
56
án ban hành quyết định thi hành bản án nếu bên phải thi hành án (bên thua kiện) không
tự nguyện thi hành án. Cơ quan thi hành án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối
với người phải thi hành án như khấu trừ tài khoản, thu nhập và tịch thu tài sản. Bên cạnh
đó, theo Bộ luật hình sự, người không thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với hình phạt cải tạo không giam giữ 3 năm hoặc
phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
122. Theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án
tuyên án hoặc trong trường hợp các bên có liên quan vắng mặt tại phiên xét xử thì trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản sao bản án được trao cho các bên này hoặc từ ngày niêm
yết bản án đó, các bên đương sự có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử phúc thẩm. Bản án hoặc quyết định của
Tòa án cấp phúc thẩm sẽ có hiệu lực thi hành ngay. Lưu ý đến thông lệ quốc tế đối với
thời hạn kháng cáo thường là 30-45 ngày, một Thành viên đặt câu hỏi liệu Việt Nam có
xem xét kéo dài thời hạn kháng cáo 15 ngày theo pháp luật Việt Nam hay không. Đáp
lại, đại diện của Việt Nam cho rằng thời hạn 15 ngày là thích hợp để các bên có liên quan
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình và đẩy nhanh các thủ tục giải quyết tranh chấp dân
sự. Chính phủ Việt Nam không có kế hoạch thay đổi quy định này.
123. Trả lời câu hỏi về cách thức Việt Nam đảm bảo việc công ty tư nhân trong các tranh
chấp kinh tế với công ty nhà nước hoặc công ty thuộc nhà nước kiểm soát được hưởng
việc xét xử vô tư, đại diện của Việt Nam nêu rằng có một loạt các cơ chế nhằm đảm bảo
việc xét xử vô tư trong các tranh chấp kinh tế. Ví dụ, Điều 8 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm
2004 quy định các nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong các thủ tục tố tụng
dân sự của tất cả các cơ quan và tổ chức, không phân biệt hình thức tổ chức hay hình
thức sở hữu; Điều 12 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 4 của Pháp lệnh Thẩm phán và
hội thẩm nhân dân quy định nguyên tắc độc lập xét xử của toà án. Theo Điều 16 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, thẩm phán và hội thẩm nhân dân không được tham gia xét xử nếu họ
có thể có không vô tư trong việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Điều 46 và
47 quy định rõ ràng các trường hợp thẩm phán và hội thẩm nhân dân phải từ chối xét xử
hoặc phải bị thay đổi để đảm bảo việc xét xử vô tư. Đồng thời, các bên được quyền yêu
cầu thay đổi thẩm phán hay hội thẩm nhân dân nếu họ chứng minh được rằng những
người này có thể không vô tư (Điều 58).
124. Các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam liên quan đến quyền khiếu nại được
quy định chủ yếu trong Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản sửa đổi của Luật này (văn
57
bản sửa đổi lần cuối là Luật Sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo
số 58/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005) và Pháp lệnh về Thủ tục giải quyết các
vụ án hành chính và các văn bản sửa đổi Pháp lệnh này (văn bản sửa đổi lần cuối là Pháp
lệnh Sửa đổi và bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính số 29/2006/PL-UBTVQH ngày 5 tháng 4 năm 2006). Theo Luật Khiếu nại, tố cáo,
cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại các quyết định hành chính hoặc hành vi
hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước hay người có thẩm quyền của cơ quan này
nếu họ cho rằng các quyết định hoặc hành vi đó là bất hợp pháp, hoặc xâm hại tới quyền
và lợi ích hợp pháp của họ. Các khiếu nại được giải quyết thông qua các thủ tục hành
chính hoặc tại toà án nếu người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu
nại hành chính. Toà án hành chính là một cơ quan xét xử trong hệ thống toà án nhân dân
và độc lập với cơ quan hành pháp. Đại diện của Việt Nam khẳng định rằng tất cả các
quyết định hành chính về các vấn đề liên quan đến WTO đều có thể bị khởi kiện ra toà
án hành chính.
125. Một Thành viên lưu ý rằng hầu hết các Thành viên WTO đều cho phép sử dụng hết
con đường khiếu nại quyết định hành chính theo thủ tục hành chính trước khi khởi kiện
ra tòa án theo thủ tục tư pháp và việc tham gia vào một thủ tục không loại bỏ quyền được
sử dụng thủ tục khác. Thành viên này kiến nghị Việt Nam cân nhắc những ưu điểm của
việc cho phép sử dụng cả hai thủ tục khiếu nại và khiếu kiện nói trên trong bối cảnh Việt
Nam gia nhập WTO. Đáp lại, đại diện của Việt Nam khẳng định rằng Luật Khiếu nại, tố
cáo và Pháp lệnh về Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã giải quyết được vấn đề
được Thành viên nêu. Pháp lệnh về Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính cho phép
các bên liên quan trong vụ việc hành chính được đưa tranh chấp ra trước toà án nếu
không thoả mãn với kết quả giải quyết tranh chấp thông qua thủ tục hành chính. Lần sửa
đổi Pháp lệnh này vào tháng 4 năm 2006 đã mở rộng thẩm quyền của toà án để bao quát
tất cả các vấn đề liên quan đến WTO, bao gồm việc khiếu nại các hành vi hành chính liên
quan đến thương mại hàng hoá trong nước và quốc tế, và các hành vi hành chính trong
lĩnh vực quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Đồng thời, Pháp
lệnh còn đưa ra các quy định chi tiết và minh bạch hơn về trình tự và thủ tục cho việc
giải quyết các vụ án hành chính với quan điểm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người đi
khiếu kiện.
126. Các bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực có thể bị kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm hoặc giám đốc thẩm. Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao và Viện trưởng
58
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm và giám đốc
thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án nhân dân các cấp
theo quy định của pháp luật tố tụng. Chánh án Toà án Nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng
Viện Kiểm sát Nhân dân cấp tỉnh cũng có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm và
giám đốc thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực của tòa án cấp quận, huyện.
Hội đồng xét xử có quyền quyết định không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật, quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật để xét xử sơ thẩm lại, huỷ bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật và
đình chỉ vụ án.
127. Thủ tục xét xử các tranh chấp kinh tế thông qua trọng tài được quy định tại Pháp
lệnh Trọng tài thương mại số 08/2003/PL-UBTVQH. Nếu các bên trong tranh chấp
thương mại không muốn khởi kiện ra tòa án nhân dân, họ có thể thoả thuận lựa chọn giải
quyết vụ việc thông qua một trung tâm trọng tài kinh tế. Các Trung tâm trọng tài khi
thành lập phải hoạt động theo Điều lệ và Quy tắc tố tụng của mình và pháp luật Việt
Nam. Trừ khi có quy định khác, thời hiệu khởi kiện ra trọng tài 2 năm kế từ ngày phát
sinh tranh chấp. Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã mở rộng khái niệm hoạt động thương
mại phù hợp với thông lệ quốc tế, và quy định rằng quyết định trọng tài là chung thẩm và
có hiệu lực ràng buộc các bên, trừ trường hợp quyết định trọng tài bị huỷ bởi toà án.
Quyết định trọng tài có thể bị toà án huỷ nếu không có thoả thuận trọng tài; thoả thuận
trọng tài bị vô hiệu theo Pháp lệnh; thành phần hội đồng trọng tài và tố tụng trọng tài
không phù hợp với thoả thuận của các bên; tranh chấp không thuộc thẩm quyền của hội
đồng trọng tài; bên yêu cầu chứng minh trọng tài đã vi phạm nghĩa vụ của trọng tài viên;
hoặc quyết định của trọng tài là trái với lợi ích công cộng của Việt Nam (Điều 54 của
Pháp lệnh). Đại diện của Việt Nam lưu ý định nghĩa "lợi ích công cộng" phù hợp với các
chuẩn mực quốc tế và Công ước New York năm 1958 về Công nhận và thi hành các
phán quyết trọng tài nước ngoài. Được hỏi về việc đã có việc toà án huỷ bỏ một phán
quyết trọng tài dựa trên các căn cứ này chưa, đại diện của Việt Nam cho biết không có
thông tin về những vụ việc như vậy.
128. Quyết định của trọng tài có hiệu lực kể từ khi công bố (Điều 44.4). Nếu quyết định
của trọng tài không được các bên tự nguyện thi hành trong vòng 30 ngày kể từ ngày công
bố, bên liên quan có thể gửi yêu cầu thi hành quyết định trọng tài bằng văn bản đến các
cơ quan thi hành án cấp tỉnh. Đại diện của Việt Nam cũng khẳng định rằng Pháp lệnh
Trọng tài thương mại đảm bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử. Quyết định của trọng
59
tài nước ngoài được công nhận và có hiệu lực thi hành tại Việt Nam theo Bộ luật tố tụng
dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan của Việt Nam.
129. Tố tụng trọng tài theo nguyên tắc không công khai. Tuy nhiên, trong trường hợp có
sự đồng ý của các bên, Hội đồng Trọng tài có thể cho phép những người khác tham dự
phiên xét xử (Điều 38). Trả lời câu hỏi về việc đăng công khai các quyết định trọng tài,
đại diện của Việt Nam cho biết Pháp lệnh Trọng tài thương mại không quy định việc
đăng như vậy vì bản chất của trọng tài là phi chính phủ. Giải quyết tranh chấp thông qua
trọng tài có lợi thế là tính bảo mật thông tin và sự đảm bảo không tiết lộ thông tin nếu
không được các bên đồng ý. Do vậy, Chính phủ Việt Nam không có kế hoạch sửa đổi
quy định liên quan này.
130. Trả lời câu hỏi liên quan đến việc Việt Nam tham gia Công ước Washington về giải
quyết các tranh chấp đầu tư, đại diện của Việt Nam cho biết Chính phủ Việt Nam đang
cân nhắc để trở thành Thành viên của Công ước.
131. Một Thành viên đề nghị đại diện của Việt Nam xác nhận rằng các cơ quan địa
phương không có thẩm quyền tự mình quyết định đối với các vấn đề về trợ cấp, thuế,
chính sách thương mại hoặc các biện pháp được điều chỉnh bởi các quy định của WTO,
và rằng Việt Nam sẽ áp dụ__________ng các quy định của hiệp định WTO, bao gồm cả Nghị định
thư gia nhập WTO, một cách thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ hải quan cũng như trong
các vùng lãnh thổ khác thuộc quyền kiểm soát của mình, kể cả tại những khu vực liên
quan đến buôn bán biên mậu, đặc khu kinh tế và các khu vực khác có áp dụng cơ chế đặc
biệt về thuế quan, thuế nội địa và các quy định quản lý khác. Việt Nam cũng cần khẳng
định rằng, sau khi gia nhập, mỗi khi được thông báo về tình huống có các quy định của
WTO không được áp dụng hoặc được áp dụng không thống nhất thì các cơ quan có thẩm
quyền ở trung ương của Việt Nam phải hành động để thực thi các quy định của WTO mà
không yêu cầu các bên liên quan phải khởi kiện ra tòa án.
132. Đại diện của Việt Nam trả lời rằng các cơ quan chính quyền địa phương (Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp) có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật do các cơ quan
trung ương ban hành. Các cơ quan chính quyền địa phương thực hiện quản lý nhà nước
tại địa phương thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Theo Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, các văn
bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ban hành là nhằm
thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan trung ương. Việc uỷ quyền
60
phân cấp quản lý hành chính do các văn bản pháp luật của các cơ quan trung ương Việt
Nam quy định. Do đó, các chính sách và biện pháp do các cơ quan chính quyền địa
phương ban hành phải phù hợp với các chính sách và biện pháp của các cơ quan trung
ương ban hành. Để đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật trên toàn bộ lãnh
thổ hải quan của Việt Nam cũng như các vùng lãnh thổ khác thuộc quyền kiểm soát của
mình, Việt Nam đã thiết lập các cơ chế nhằm phát hiện và huỷ bỏ những văn bản quy
phạm pháp luật do cơ quan chính quyền địa phương ban hành mà trái với các văn bản
quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương. Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm
giám sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong phạm vi quyền hạn của
mình. Đại diện của Việt Nam cũng khẳng định rằng các cơ quan chính quyền địa phương
không có thẩm quyền quy định bất kỳ một loại lệ phí nào đối với hàng nhập khẩu.
133. Một Thành viên đánh giá cao những thông tin và cam đoan của Việt Nam liên quan
đến việc áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc, minh bạch hoá, quyền
khiếu kiện và thẩm quyền của các cơ quan chính quyền địa phương trong các vấn đề về
chính sách thương mại và đề nghị Việt Nam đưa ra những cam kết thích hợp trong các
lĩnh vực này.
134. Đại diện của Việt Nam khẳng định rằng Việt Nam sẽ áp dụng các quy định của
Hiệp định WTO một cách thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ hải quan kể cả tại những khu
vực liên quan đến buôn bán biên mậu, đặc khu kinh tế và các khu vực khác có áp dụng
cơ chế đặc biệt về thuế quan, thuế nội địa và các quy định quản lý khác, và Chính phủ
Việt Nam bảo đảm rằng các luật, các quy định dưới luật và các biện pháp khác bao gồm
các quy định và biện pháp của chính quyền địa phương tuân thủ các quy định của WTO.
Đại diện của Việt Nam cũng bổ sung là khi được thông tin về tình huống mà ở đó các
quy định của WTO không được áp dụng hoặc được áp dụng không thống nhất, các cơ
quan ở trung ương sẽ điều tra thông tin này, và nếu thông tin được kết luận là có căn cứ
thì sẽ hành động để thực thi các quy định của WTO mà không yêu cầu các bên liên quan
phải khiếu kiện ra toà án. Ban Công tác ghi nhận các cam kết này.
135. Đại diện của Việt Nam khẳng định thêm rằng Việt Nam sẽ sửa đổi các luật và các
quy định liên quan trong nước sao cho phù hợp với các yêu cầu của Hiệp định WTO về
quyền khởi kiện ra toà án để xem xét lại các quyết định và hành vi hành chính, trong đó
có Điều khoản X:3 (b) của GATT 1994 và các quy định khác. Đại diện của Việt Nam
cũng bổ sung rằng các cơ quan xét xử chịu trách nhiệm xem xét lại các quyết định và
hành vi hành chính phải vô tư và độc lập với cơ quan được giao thực thi các vấn đề về
61
hành chính, và không có bất kỳ quyền lợi đáng kể nào liên quan về kết quả của vụ việc.
Ban Công tác ghi nhận các cam kết này.
CÁC CHÍNH SÁCH ẢNH HƯỞNG ĐẾN THƯƠNG MẠI HÀNG HOÁ
Quyền kinh doanh (quyền xuất khẩu và nhập khẩu)
136. Các thành viên yêu cầu Việt Nam cam kết kể từ ngày gia nhập, bất kỳ thể nhân hay
pháp nhân, người mang quốc tịch Việt Nam hay nước ngoài đề__________u có quyền trở thành nhà
nhập khẩu hoặc xuất khẩu đứng tên trên tờ khai đối với bất kỳ sản phẩm nào được phép
nhập khẩu vào Việt Nam hoặc xuất khẩu từ Việt Nam, và trong trường hợp nhập khẩu, sẽ
có quyền bán hoặc cung cấp các sản phẩm đó cho bất kỳ thể nhân hay pháp nhân, người
mang quốc tịch Việt Nam hay nước ngoài có quyền phân phối các sản phẩm đó. Một
Thành viên lưu ý rằng hiện tại quyền nhập khẩu đòi hỏi phải có đầu tư vào Việt Nam.
Một Thành viên cũng yêu cầu Việt Nam xác nhận rằng quyền kinh doanh sẽ được quản
lý phù hợp với các điều khoản của WTO vào thời điểm Việt Nam gia nhập WTO. Một số
thành viên cũng yêu cầu Việt Nam cam kết cấp quyền kinh doanh cho tất cả các hàng
hoá do Nhà nước quản lý trong một thời hạn cụ thể và sẽ đảm bảo rằng các doanh nghiệp
nhà nước, doanh nghiệp do Nhà nước kiểm soát và các doanh nghiệp được hưởng chế độ
đặc biệt hoặc độc quyền đều tuân theo tiêu chí thương mại và nguyên tắc không phân
biệt đối xử.
137. Trả lời về vấn đề này, Đại diện của Việt Nam cho biết, các cá nhân và doanh nghiệp
của Việt Nam được cấp đầy đủ quyền kinh doanh, trừ những hàng hoá đòi hỏi phải nhập
khẩu thông qua các doanh nghiệp cụ thể (xem Bảng 8(c)). Các cá nhân được yêu cầu
đăng ký kinh doanh theo Nghị định số 88/2006/NĐ/CP ngày 29/8/2006 về Đăng ký kinh
doanh để tiến hành xuất khẩu và nhập khẩu. Đại diện của Việt Nam nói rằng cần phải có
thời gian cho việc hợp nhất hệ thống quyền nhập khẩu đối với pháp nhân trong và ngoài
nước, ban hành các quy định cần thiết và tăng cường năng lực quản lý của các cơ quan
Chính phủ liên quan. Về lý do này, Chính phủ Việt Nam dự định cấp cho tất cả các cá
nhân và doanh nghiệp (bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) quyền kinh
doanh đầy đủ không muộn hơn ngày 1/1/2007, ngoại trừ một số hàng hoá là đối tượng
của "Thương mại Nhà nước" trong Bảng 8(c), và yêu cầu các thành viên cho Việt Nam
một thời gian quá độ tới ngày 1/1/2009 đối với quyền của các cá nhân và doanh nghiệp
nước ngoài nhập khẩu một số hàng hoá cụ thể trong bảng 8(a) và tới ngày 1/1/2011 đối
với quyền xuất khẩu gạo (Bảng 8(b)). Quyền kinh doanh đầy đủ bao gồm quyền bán
62
hàng nhập khẩu cho bất ký cá nhân hoặc doanh nghiệp nào có quyền phân phối sản phẩm
tại Việt Nam.
138. Đại diện của Việt Nam khẳng định rằng trong giai đoạn quá độ, hàng hoá trong
Bảng 8(a) và 8(b) có thể được xuất và nhập bởi bất kỳ doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam
nào, trong khi các hàng hoá trong Bảng 8(c) chỉ được phép kinh doanh bởi các doanh
nghiệp được chỉ định. Đại diện của Việt Nam khẳng định thêm rằng Việt Nam sẽ đảm
bảo rằng các doanh nghiệp đó tuân theo các quy định của WTO.
139. Đại diện của Việt Nam lưu ý rằng quyền nhập khẩu không đòi hỏi đầu tư tối thiểu
vào Việt Nam mà chỉ cần đăng ký (chủ yếu để phục vụ cho mục đích quản lý hành
chính) của cá nhân hoặc doanh nghiệp muốn trở thành nhà nhập khẩu đứng tên trên tờ
khai. Đại diện của Việt Nam khẳng định thêm rằng các cam kết của Việt Nam về quyền
kinh doanh sẽ được áp dụng đối với tất cả các thành viên WTO trên cơ sở nguyên tắc
MFN. Đại diện của Việt Nam diễn giải rằng việc cấp quyền kinh doanh sẽ không ảnh
hưởng tới quyền của Chính phủ Việt Nam chấp nhận hoặc thi hành các yêu cầu phù hợp
với WTO phục vụ cho mục đích thuế quan hoặc tài chính; hoặc chấp nhận hoặc thi hành
các quy định phù hợp với các điều khoản liên quan trong Hiệp định WTO và các cam kết
về việc gia nhập WTO của Việt Nam, ví dụ như những điều khoản và cam kết liên quan
đến cấp phép nhập khẩu, thương mại nhà nước, hàng rào kỹ thuật đối với thương mại,
hoặc các biện pháp kiểm dịch động thực vật. Các nghị định hướng dẫn việc thi hành Luật
Thương mại sửa đổi về quyền xuất khẩu và nhập khẩu đang được soạn thảo. Các nghị
định đó sẽ được áp dụng một cách minh bạch, thống nhất và không phân biệt đối xử, phù
hợp với các luật lệ của WTO và các cam kết của Việt Nam về quyền kinh doanh. Ban
Công tác ghi nhận những cam kết này.
140. Một Thành viên đề nghị bổ sung thông tin về yêu cầu đăng ký để trở thành nhà
nhập khẩu đứng tên trên tờ khai, cụ thể là bản chất và hình thức của việc đăng ký này.
Thành viên này cũng yêu cầu cung cấp các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết
về quy trình đăng ký và những nội dung liên quan, nếu có thể, là nghị định gần đây về
mua bán hàng hoá quốc tế (Nghị định số 12/2006/NĐ-CP) hướng dẫn việc đăng ký và
quyền xuất/nhập khẩu
141. Một số Thành viên nhận xét rằng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không
có quyền nhập khẩu, nhập khẩu để bán lại hoặc xuất khẩu giống như các doanh nghiệp
Việt Nam. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được nhập khẩu cùng loại
63
hàng hoá mà họ sản xuất theo giấy phép đầu tư trừ khi họ đăng ký một giấy phép đầu tư
mới. Hệ thống chính sách này dành ưu đãi cho các doanh nghiệp trong nước hơn so với
các doanh nghiệp nước ngoài và không dành đối xử quốc gia cho hàng hóa nhập khẩu
như quy định tại Điều III của GATT 1994. Việc chỉ cho phép nhập khẩu những mặt hàng
được ghi trong giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có thể bị coi
như một hàng rào phi thuế quan đối với hàng nhập khẩu mà Điều XI của GATT cấm.
Những Thành viên này yêu cầu Việt Nam phải xoá bỏ hệ thống phân biệt đối xử này,
theo đó cho phép cá nhân và doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài nhập khẩu
nguyên liệu đầu vào và hàng hóa thành phẩm để bán lại và xuất khẩu phù hợp với yêu
cầu của WTO. Quá trình này phải được hoàn tất trước hoặc vào thời điểm gia nhập
WTO, bởi vì đối xử quốc gia là một nguyên tắc cơ bản của WTO. Việt Nam phải cung
cấp thêm thông tin cho Ban Công tác về kế hoạch bảo đảm tuân thủ nguyên tắc đối xử
quốc gia trong lĩnh vực này.
142. Trả lời về vấn đề này, đại diện của Việt Nam cho biết Chính phủ Việt Nam đã rà
soát luật pháp nhằm hài hoà thủ tục đăng ký/đầu tư giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài và doanh nghiệp trong nước. Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư mới đã được
thông qua và có hiệu lực từ tháng 11/2005. Theo các luật này, các nhà đầu tư trong nước
muốn được xuất khẩu hoặc nhập khẩu phải có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và
các nhà đầu tư nước ngoài phải có giấy chứng nhận đầu tư. Đối với các nhà đầu tư Việt
Nam, thủ tục cho việc đăng ký kinh doanh được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005 và
Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của Chính phủ về Đăng ký kinh doanh.
Các nhà đầu tư trong nước, bất kể doanh nghiệp hoặc hộ kinh doanh cá thể, được tự do
đăng ký ngành nghề kinh doanh, trừ những ngành nghề bị cấm bởi luật pháp Việt Nam
(xem đoạn 33). Việc đăng ký một số ngành nghề kinh doanh phụ thuộc vào những điều
kiện cụ thể. Chính phủ Việt Nam không hạn chế hoặc can thiệp vào phạm vi kinh doanh
mà các doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn và, ngoại trừ một số ngành nghề bị cấm và một
số ngành nghề kinh doanh phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể, các doanh nghiệp
100% vốn Việt Nam được quyền tự quyết định phạm vi kinh doanh (xem bảng 1 và 2 về
danh mục ngành nghề kinh doanh bị cấm và danh mục ngành nghề kinh doanh có điều
kiện). Đại diện của Việt Nam lưu ý rằng, mặc dù trước đây nhà đầu tư trong nước chỉ
được nhập khẩu hàng hoá được liệt kê trong Chứng nhận đăng ký kinh doanh của họ
nhưng hiện nay, hạn chế đó đã không còn hiệu lực theo quy định tại Điều 3 Nghị định số
12/2006/NĐ-CP về mua và bán hàng hoá quốc tế.
64
143. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, các thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư được
quy định trong Luật Đầu tư 2005 và Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư. Các nhà đầu tư nước
ngoài đã có giấy chứng nhận đầu tư và mong muốn tiến hành một dự án đầu tư mới có
thể xin giấy chứng nhận đầu tư mới hoặc yêu cầu điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư cũ.
Giấy chứng nhận đầu tư cũng có giá trị là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Các nhà
đầu tư nước ngoài không bị hạn chế nhập khẩu hàng hoá liên quan đến ngành nghề kinh
doanh của họ hoặc quy định trong giấy chứng nhận đầu tư và cũng không bị cấm nhập
khẩu hàng hoá cùng loại với những hàng hoá được sản xuất theo giấy chứng nhận đầu tư.
Đại diện của Việt Nam khẳng định theo quan điểm của mình rằng các thủ tục nhập khẩu
hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị hạn chế hơn thủ tục áp
dụng đối với các doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam.
144. Khi xem xét Luật Thương mại mới do Quốc hội Việt Nam ban hành ngày 14/6/2005
và Nghị định hướng dẫn thi hành Luật, một thành viên lưu ý rằng trong Nghị định dự
thảo, chỉ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện đang hoạt động của các nhà
đầu tư từ các nước mà Việt Nam và nước đó dành cho nhau chế độ MFN được phép nhập
khẩu hàng hoá để bán tại thị trường Việt Nam. Một điều khoản như vậy là trái với Điều
III của GATT 1994. Nghị định dường như cũng áp đặt các điều kiện như vốn đầu tư tối
thiểu đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện đang hoạt động. Thành
viên này yêu cầu Việt Nam cam kết ngay khi gia nhập không áp dụng bất kỳ hạn chế nào
trong việc cấp giấy phép đầu tư cho việc sản xuất, nhập khẩu và bán ra thị trường bất kỳ
sản phẩm nào tại Việt Nam trừ khi những hạn chế đó được nêu trong Biểu các cam kết
cụ thể về thương mại dịch vụ hoặc các danh mục liên quan đến quyền kinh doanh hay
việc hạn chế và cấm nhập khẩu.
145. Trả lời về vấn đề này, đại diện của Việt Nam cho biết theo Điều 2 khoản 3 của Bản
dự thảo mới nhất, trong trường hợp nhà kinh doanh đến từ các nước và vùng lãnh thổ mà
Việt Nam không có các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường liên quan đến hoạt động
thương mại, Bộ trưởng Bộ Thương mại quyết định cho hoặc không cho phép việc thành
lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Đại
diện của Việt Nam nói thêm rằng Điều 5 của dự thảo Nghị định đã bãi bỏ yêu cầu về vốn
đầu tư tối thiểu.
146. Đại diện của Việt Nam khẳng định rằng Việt Nam đảm bảo các luật và quy định
liên quan tới quyền kinh doanh hàng hoá và các khoản phí, lệ phí, thuế áp dụng đối với
65
quyền này sẽ phù hợp với nghĩa vụ của Việt Nam trong WTO, bao gồm Điều VIII : 1(a),
XI : 1 và III :2 và 4 của GATT 1994 và các cam kết của Việt Nam trong Biểu các cam
kết cụ thể về dịch vụ. Cụ thể, đại diện của Việt Nam khẳng định rằng kể từ thời điểm gia
nhập WTO, tất cả các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài (bao gồm cả doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài) đều có thể xuất khẩu, nhập khẩu các loại hàng hoá ngoài những
hàng hoá mô tả trong Bảng 8(a)-(c), với tư cách là nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu đứng
tên trên tờ khai, chỉ phải tuân thủ nghĩa vụ đăng ký hoạt động của mình với cơ quan quản
lý có thẩm quyền của Việt Nam. Không có yêu cầu nào đối với doanh nghiệp và cá nhân
nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam phải đầu tư vào Việt Nam. Thêm vào đó,
không ảnh hưởng tới Biểu cam kết cụ thể của Việt Nam về Dịch vụ, các nhà nhập khẩu
sẽ được phép bán hoặc cung cấp các sản phẩm nhập khẩu cho mọi thể nhân, pháp nhân
tại Việt Nam có quyền phân phối các sản phẩm đó trên thị trường Việt Nam. Đại diện
của Việt Nam lưu ý rằng việc tuân thủ các nghĩa vụ về quyền kinh doanh, trong mọi
trường hợp sẽ không tự động cấp cho các nhà nhập khẩu quyền phân phối hàng hoá tại
Việt Nam. Đại diện của Việt Nam nói thêm rằng, theo pháp luật Việt Nam, Nghị định
thư về việc gia nhập của Việt Nam sẽ là cơ sở pháp lý để Chính phủ ban hành nghị định
quy định quyền kinh doanh của các nhân và doanh nghiệp không có hiện diện tại Việt
Nam; vì vậy đại diện của Việt Nam xác nhận rằng nghị định này sẽ được ban hành ngay
sau khi Việt Nam phê chuẩn Nghị định thư về việc gia nhập và trong mọi trường hợp,
trước thời hạn 30 ngày sau ngày phê chuẩn. Các quyền này cũng áp dụng đối với việc
xuất khẩu và nhập khẩu các hàng hoá khác theo lộ trình quy định trong Bảng 8(a) và (b).
Ban Công tác ghi nhận các cam kết này.
147. Đại diện của Việt Nam khẳng định rằng, không ảnh hưởng đến Biểu cam kết cụ thể của
Việt Nam về Dịch vụ, bất kỳ doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài nào (bao gồm cả doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) đã đăng ký tiến hành các hoạt động nhập khẩu sẽ được tự
do lựa chọn một hoặc nhiều nhà phân phối với điều kiện nhà phân phối đó có quyền phân
phối các sản phẩm đó trong phạm vi lãnh thổ hải quan của Việt Nam. Việt Nam sẽ không áp
dụng bất kỳ hạn chế nào trong việc lựa chọn nhà phân phối, bao gồm cả hạn chế về loại hình
doanh nghiệp hay quốc tịch của nhà phân phối. Đại diện của Việt Nam lưu ý rằng việc tuân
thủ các nghĩa vụ về quyền kinh doanh, trong bất kì trường hợp nào, sẽ không tự động cấp cho
các nhà nhập khẩu quyền phân phối hàng hoá tại Việt Nam. Ban Công tác ghi nhận các cam
kết này.
66
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |