Bảng 3.17. Tương quan di truyền, tương quan ki u hình giữa các đàn giống
thuần P, D và L với các nhóm con lai trên tính trạng TKL ngày và DML
Nhóm giống
Tính trạng
Tham số
TKL ngày
DML
Pietrain thuần với
PD và DP
- Tương quan di truyền (r
G
± SE)
- Tương quan kiểu hình (r
P
)
0,54 ± 0,27
0,15
0,64 ± 0,06
0,27
Duroc thuần với
PD và DP
- Tương quan di truyền (r
G
± SE)
- Tương quan kiểu hình (r
P
)
0,47 ± 0,22
0,15
0,60 ± 0,15
0,32
Duroc thuần với
DL và LD
- Tương quan di truyền (r
G
± SE)
- Tương quan kiểu hình (r
P
)
0,51 ± 0,04
0,15
0,56 ± 0,21
0,23
Landrace thuần
với DL và LD
- Tương quan di truyền (r
G
± SE)
- Tương quan kiểu hình (r
P
)
0,54 ± 0,18
0,16
0,62 ± 0,17
0,30
Pietrain thuần với
PL và LP
- Tương quan di truyền (r
G
± SE)
- Tương quan kiểu hình (r
P
)
0,63 ± 0,26
0,18
0,39 ± 0,21
0,13
Landrace thuần
với PL và LP
- Tương quan di truyền (r
G
± SE)
- Tương quan kiểu hình (r
P
)
0,60 ± 0,17
0,19
0,32 ± 0,16
0,14
Bảng 3.17 cho thấy: Tương quan di truyền giữa các đàn giống thuần (P và D)
và đàn con lai giữa chúng (PD và DP) ở mức chặt chẽ hơn so với tương quan kiểu
hình ở cả hai tính trạng TKL/ngày và ML, tương ứng (0,54 - 0,47) và (0,64 -
0,60). Kết quả này cho thấy, ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh đến năng suất đàn
con lai là rất đáng kể. o đó, khả năng sinh trưởng và dày mỡ lưng của đàn con lai
không được như mong muốn khi đánh giá chọn lọc ở đàn giống thuần.
Đối với đàn giống thuần uroc, Landrace và đàn con lai (LD và DL): Tương
quan kiểu hình và tương quan di truyền giữa đàn giống thuần và đàn con lai trên
tính trạng TKL/ngày và ML cũng có kết quả tương tự nhóm giống thuần D, P và
nhóm con lai (DP và PD) đã trình ày ở trên. Tương quan kiểu hình ở mức l ng lẻo
với tính trạng TKL/ngày (0,15 - 0,16) và ở mức trung bình với tính trạng DML
(0,23 - 0,30). Tương quan di truyền giữa hai giống thuần uroc và Landrace với
con lai (DL và LD) có giá trị từ 0,51 - 0,54 với tính trạng TKL/ngày và từ 0,56 -
0,62 với tính trạng DML. Các thông số này đều nói lên rằng, khi các điều kiện ngoại
92
cảnh ở đàn con lai có sự khác biệt tương đối lớn so với ở đàn giống thuần, làm cho
đàn con lai không phát huy hết tiềm năng di truyền đã được chọn lọc từ đàn giống
thuần. Hay nói cách khác, tác động của tương tác giữa kiểu gen và môi trường trong
nghiên cứu này rất cần được chú ý điều chỉnh.
Riêng đối với đàn giống thuần Pietrain, Landrace và con lai (PL và LP), các
tương quan di truyền có giá trị trái ngược trên hai tính trạng khảo sát so với các cặp
giống thuần và con lai đã phân tích ở trên. Nghĩa là, tương quan di truyền giữa
giống thuần và con lai có giá trị lớn hơn ở tính trạng TKL/ngày (0,63 - 0,60) so với
ở tính trạng DML (0,39 - 0,32). Kết quả này, có thể được giải thích rõ ràng hơn, nếu
các ảnh hưởng di truyền trội và tương tác át gen tiếp tục được phân tích trong các
nghiên cứu tiếp theo. Trong phạm vi của nghiên cứu hiện tại, kết quả này phản ánh
tác động tương tác giữa kiểu gen và môi trường tương đối lớn cần phải quan tâm
trong các chương trình giống, sao cho các ảnh hưởng này có thể được hạn chế ở
mức độ thấp nhất dựa trên việc điều chỉnh các điều kiện dinh dưỡng, chăm sóc nuôi
dưỡng, chuồng trại và các quản lý khác.
Từ kết quả ước tính tương quan di truyền và tương quan kiểu hình giữa các
đàn giống thuần ( uroc, Pietrain, Landrace) với các đàn con lai F1 (DP và PD),
(DL và LD), (PL và LP) trên tính trạng tăng khối lượng/ngày (TKL/ngày) và dày
mỡ lưng ( ML) trình ày trong ảng 3.17. Chúng tôi nhận thấy: Nhìn chung, tương
quan kiểu hình giữa đàn giống thuần và đàn con lai đều ở mức rất thấp, không chặt
chẽ (0,13 - 0,32) trên cả hai tính trạng TKL và ML. Điều này cho thấy, nếu chọn
lọc chỉ dựa vào giá trị kiểu hình của đàn giống thuần sẽ không cho kết quả như
mong muốn ở đàn con lai. Trong khi đó, tương quan di truyền giữa đàn giống thuần
và đàn con lai F1 ở từng cặp lai có mức độ tương quan trung ình hoặc tương đối
chặt chẽ, song cũng không vượt quá 0,80 trên cả hai tính trạng khảo sát (0,32 -
0,64). Đồng thời, giá trị của các tương quan di truyền cũng khác nhau tùy thuộc các
cặp lai khác nhau và trên các tính trạng khác nhau.
Đối với tính trạng TKL, tương quan di truyền cao nhất (0,63) được tìm thấy
giữa đàn giống thuần Pietrain và đàn con lai (PL và LP). Ngược lại, tương quan di
truyền thấp nhất (0,47) giữa đàn giống thuần uroc và đàn con lai (DP và PD). Đối
với tính trạng ML, tương quan di truyền cao nhất (0,64) được tìm thầy giữa đàn
thuần Pietrain và đàn con lai (DP và PD) và thấp nhất (0,32) giữa đàn thuần
93
Landrace và đàn con lai (PL và LP). Các kết quả này đã chỉ ra rằng, tần số gen chi
phối đến cùng một tính trạng có sự khác nhau giữa các giống thuần Duroc, Pietrain
và Landrace. Do vậy, cần tách biệt các đàn giống thuần này trong quy trình phân
tích thống kê di truyền, đánh giá giá trị giống đàn giống thuần.
Các kết quả này, hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu đã công ố trước
đây. Tại Cộng hòa Szech và Slovak, tương quan di truyền giữa hai điều kiện môi
trường nuôi dưỡng xấp xỉ 0,5 với tính trạng sinh trưởng và 0,72 - 0,84 với tính trạng
dày mỡ lưng (Wolf và cs.,2009). Trong khi đó, các nghiên cứu ở Đức và Hà Lan
cho biết tương quan di truyền giữa đàn giống thuần và giống lai trên tính trạng sinh
trưởng và dày mỡ lưng nằm trong khoảng 0,32 - 0,98 tùy theo từng tổ hợp lai
(Brandt và Taubert. 1998; Merks và Hanenberg. 1998; Lutaaya và cs., 2001). Trong
hệ thống lai thương phẩm, tương quan di truyền giữa giống Duroc thuần với đàn
con lai thương phẩm (DxYL) trên tính trạng sinh trưởng dao động từ 0,53 - 0,89
(Zumbach và cs., 2007). Trong hầu hết các trường hợp, tương quan di truyền thấp
giữa đàn giống thuần và đàn con lai có thể do các ảnh hưởng di truyền không cộng
gộp (ảnh hưởng trội và tương tác át chế) và chính điều này đã gây ra iến động di
truyền lớn hơn ở các đàn con lai (Boesch và cs., 1998).
Trong nghiên cứu hiện tại, tương quan di truyền giữa đàn giống thuần và đàn
con lai trên tính trạng sinh trưởng và dày mỡ lưng ở mức không cao đã chỉ ra rằng,
có sự hiện diện của tương tác giữa kiểu gen và môi trường. Điều này, có thể do các
đàn giống thuần thường được nuôi trong các điều kiện chọn giống, được đảm bảo
tốt nhất như hệ thống quản lý, tiểu khí hậu chuồng nuôi, mật độ nuôi hay chăm sóc
thú y tốt hơn so với các đàn con lai nuôi trong điều kiện sản xuất đại trà. Các điều
kiện quản lý này có thể đã tạo nên sự khác biệt đáng kể về năng suất giữa đàn giống
thuần và đàn con lai. Do vậy, một số tác giả đã đề nghị để tăng độ chính xác và hiệu
quả của chương trình chọn lọc đàn giống thuần, cần kết hợp dữ liệu năng suất của
cả đàn giống thuần và đàn con lai khi mục tiêu của sản phẩm cuối cùng là đàn con
lai (Boesch và cs.,1998).
Từ các kết quả phân tích về tương quan di truyền giữa các cặp giống thuần với
giống lai trong bảng 3.17 có thể thấy: Có sự hiện diện rõ ràng của ảnh hưởng tương
tác giữa kiểu gen và môi trường ở hai đàn giống thuần và đàn con lai với mức độ
94
đáng xem x t. Các kết quả này, hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu đã công ố của
một số tác giả. Van Steenbergen và Merks. (1998) đã cho iết, tương quan di truyền
giữa đàn lợn Yorkshire hạt nhân (giống thuần) với đàn thương phẩm (con lai) từ
năm 1993 – 1996, trên các tính trạng tăng khối lượng bình quân/ngày và dày mỡ
lưng tương ứng là 0,50 và 0,56. Một nghiên cứu khác của Merks. (1998), cũng đã
chỉ ra ảnh hưởng tương tác giữa kiểu gen và môi trường rất có ý nghĩa đối với tính
trạng tăng khối lượng và dày mỡ lưng, khi các con đực có cùng kiểu gen được so
sánh trong môi trường nuôi tại trạm kiểm tra năng suất với các trại chăn nuôi
thương phẩm ở Hà Lan. Theo tác giả này, tương quan di truyền giữa hai môi trường
này là 0,41 và 0,70 tương ứng với tính trạng tăng khối lượng bình quân/ngày và dày
mỡ lưng. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Van Diepen và Kenedy. (1986), tương
quan di truyền giữa hai môi trường được báo cáo là rất chặt chẽ, 0,8 và 0,9 tương
ứng với tính trạng tăng khối lượng và dày mỡ lưng. Đối với các tính trạng chất
lượng thịt, một số nghiên cứu cũng cho iết tương quan di truyền giữa giống thuần
và con lai thường rất chặt chẽ (Brandt và Taubert. 1998).
Sở dĩ có sự không thống nhất trong các kết quả nghiên cứu trên, là do sự khác
biệt về quần thể giống, về tính trạng nghiên cứu, về phương pháp ước tính và đặc
biệt mức độ khác biệt giữa hai môi trường nghiên cứu (Candek-Potokar. 1998). Về
mặt môi trường, các yếu tố hạn chế chủ yếu ảnh hưởng đến năng suất vật nuôi trong
các vùng nhiệt đới bao gồm khí hậu (nhiệt độ, ẩm độ cao, bức xạ mặt trời), các bệnh
ký sinh trùng và sự biến động về số lượng, chất lượng nguồn thức ăn đã được
Vercoe và Frisch. (1986) chỉ ra. Hơn nữa, trong một số quần thể, các tính trạng
thuộc về chất lượng thịt thường có phương sai di truyền cộng gộp rất cao (Brandt và
Tau ert, 1998) và phương sai di truyền trội rất thấp hoặc bằng “0” (Cullbertson và
cs., 1998; Lutaaya và cs., 2001).
Do vậy, từ kết quả nghiên cứu hiện tại, để cung cấp đầy đủ hơn cơ sở khoa học
cho điều chỉnh các chương trình lai giống, cần tiếp tục nghiên cứu xác định từng
thành phần di truyền (di truyền cộng gộp, di truyền trội và tương tác gen) ảnh
hưởng đến năng suất của các nhóm con lai đã được khảo sát. Mặt khác, các điều
kiện môi trường sản xuất các nhóm con lai cũng cần được nghiên cứu phù hợp với
từng mục tiêu sản xuất, sao cho ưu thế lai có điều kiện biểu hiện tối đa ở các nhóm
con lai. Đồng thời, nghiên cứu này đề nghị sử dụng các thành phần phương sai và
95
thông số di truyền đã được phân tích để dự đoán giá trị con lai trong công tác chọn,
tạo các dòng mới. Cuối cùng, việc sử dụng các dữ liệu của các nhóm con lai kết hợp
với dữ liệu đàn giống thuần trong đánh giá di truyền sẽ giúp nâng cao độ chính xác
của các giá trị giống dự đoán ở đàn giống thuần, từ đó tăng nhanh hiệu quả của
chương trình giống thuần và con lai.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |