Bảng 3.16. Các thành phần phương sai và hệ số di truyền (h
2
) của tính trạng
dày m lưng DML) ở hai giống thuần (P, L) và con lai (PL và LP)
Giống
Phương
sai di
truyền
h
2
Phương sai
ngoại cảnh
thường xuyên
C
2
Các nhân
tố khác
Tỷ lệ
(%)
Phương
sai ki u
hình
Pietrain
3,04
0,30
0,20
0,02
6,73
0,68
9,97
Landrace
2,68
0,44
0,05
0,01
3,38
0,55
6,11
PL và LP
2,89
0,44
0,04
0,01
3,65
0,55
6,58
Bảng 3.16 cho thấy: Ở tính trạng DML, cả thành phần phương sai di truyền
cộng gộp và phương sai ngoại cảnh có sự sai khác không lớn giữa giống thuần
Landrace và nhóm con lai. Do vậy, giá trị của hệ số di truyền của tính trạng này
tương đương nhau giữa 2 nhóm giống này và đều ở mức tương đối cao (>0,40).
Riêng ở giống Pietrain thuần, mặc dù phương sai di truyền cộng gộp của tính trạng
DML lớn hơn so với giống Landrace thuần và tương đương so với nhóm con lai (PL
và LP), song các điều kiện ngoại cảnh đã ảnh hưởng rất lớn đến tính trạng này đã
làm cho hệ số di truyền giảm xuống mức trung bình (0,30) so với mức tương đối
cao ở giống Landrace thuần và nhóm con lai (PL và LP) (0,44). Giống như đã thảo
luận ở phần trên, có thể giống Pietrain thuần có t lệ nạc cao (>64%) và kiểu gen
stress (Halothane) rất dễ mẫn cảm với các điều kiện ngoại cảnh thay đổi, nên luôn
90
đòi h i các điều kiện dinh dưỡng, chăm sóc, nuôi dưỡng và quản lý cao hơn nhiều
so với giống Landrace thuần và các nhóm con lai (PL và LP).
Tóm lại, từ các kết quả phân tích các thành phần phương sai và hệ số di truyền
của tính trạng tăng khối lượng/ngày và dày mỡ lưng ở các giống thuần Duroc,
Pietrain, Landrace và các con lai (DP và PD), (DL và LD), (PL và LP), có thể nhận
thấy rằng, giá trị của hệ số di truyền có sự khác biệt đáng kể ở các nhóm giống
thuần và các nhóm con lai trên từng tính trạng nghiên cứu. Điều này phù hợp với
nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đã áo cáo trước đây (Lutaaya và cs., 2001;
Brandt và Taubert. 1998; Zumbach và cs., 2007; Nguyễn Hữu Tỉnh. 2009, 2010,
2011). Đối với tính trạng dày mỡ lưng, hầu hết các nhóm con lai có hệ số di truyền
cao hơn các nhóm giống thuần. Theo Brandt và Taubert. (1998), do kiểu gen của
các con lai có mức độ dị hợp tử cao hơn giống thuần, nên biến động di truyền cộng
gộp tăng lên và do đó hệ số di truyền ở con lai thường cao hơn ở giống thuần.
Ngược lại, đối với tính trạng TKL/ngày, hệ số di truyền của các nhóm con lai có giá
trị tương đương hoặc thấp hơn so với các nhóm giống thuần. Lý giải về vấn đề này,
Boesch và cs.,(1998) cho rằng, trong một số trường hợp có thể do ảnh hưởng của di
truyền trội và tương tác gen tương đối lớn ở con lai đã làm cho tổng phương sai
kiểu hình tăng lên. Mặt khác, ở hầu hết các nhóm con lai, ảnh hưởng của các điều
kiện ngoại cảnh đến cả hai tính trạng tăng khối lượng/ngày và dày mỡ lưng đều
tương đối lớn, dẫn đến làm giảm khả năng di truyền của tính trạng. Do vậy, để khai
thác tối đa tiềm năng năng suất của các nhóm con lai, các điều kiện môi trường như
dinh dưỡng, chăm sóc, nuôi dưỡng, chuồng trại, quản lý và các điều kiện sản xuất
khác có liên quan cần được quan tâm nghiên cứu điều chỉnh phù hợp với định
hướng sản xuất của từng nhóm.
3.2.2.2. Tương quan di truyền và tương quan kiểu hình giữa các đàn giống thuần và
tổ hợp lai trên các tính trạng kiểm tra năng suất
Như đã đề cập ở phần trên, một trong các mục tiêu quan trọng cần khám phá
trong nghiên cứu này là xem xét các cá thể có tiềm năng di truyền cao ở các đàn
giống thuần có thể truyền đạt đầy đủ xuống các đàn con lai hay không? Do vậy, các
91
ước tính tương quan di truyền giữa đàn giống thuần và đàn con lai trên cùng một
tính trạng đã được tính toán và trình bày trong bảng 3.17.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |