Adhd: Hướng dẫn Thực hành Lâm sàng về Chẩn đoán, Đánh giá và Điều trị Rối loạn Tăng động/ Giảm chú ý ở Trẻ em và Trẻ vị thành niên



tải về 233.83 Kb.
trang2/4
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích233.83 Kb.
#28422
1   2   3   4




“khuyến cáo” dựa vào bằng chứng khoa học có chất lượng trung bình đến cao và lợi ích vượt trội hẳn so tác hại 6. Tuyên bố hành động ở mức lựa chọn cũng dựa trên chất lượng kém hơn hoặc dữ liệu hạn chế và sự đồng thuận của chuyên gia hoặc bằng chứng chất lượng cao với sự cân bằng giữa lợi ích và tác hại. Những lựa chọn lâm sàng là can thiệp mà các người chăm sóc sức khỏe có thể hoặc không muốn áp dụng trong thực hành. Chất lượng bằng chứng hỗ trợ mỗi khuyến cáo và độ mạnh của mỗi khuyến cáo được đánh giá bởi thành viên ủy ban có kinh nghiệm nhất về dịch tễ học và xếp loại theo chính sách của AAP (Hình 1)6.

Hướng dẫn và qui trình chăm sóc trải qua sự kiểm tra kỹ càng của đồng nghiệp bởi ủy ban, bộ phận, hội đồng, và các nhóm đặc nhiệm trong AAP; nhiều tổ chức bên ngoài; và các cá nhân khác do tiểu ban xác định. Các liên lạc với



tiểu ban cũng được mời để đóng góp những đề mục của dự thảo trong tổ chức. Các nhận xét đó được biên soạn và rà soát bởi chủ tịch, và các thay đổi liên quan được kết hợp trong bản dự thảo, và rồi được rà soát bởi toàn ủy ban.

VỀ HƯỚNG DẪN

Tuyên bố hành động chính

Dưới ánh sáng của các quan tâm được nêu bật trước đây và thông báo bởi bằng chứng có sẵn, AAP đã phát triển 6 tuyên bố hành động cho đánh giá, chẩn đoán, và điều trị ADHD ở trẻ em. Tuyên bố hành động này đem lại sự chăm sóc phù hợp và chất lượng cho trẻ và gia đình với những bận tâm về triệu chứng gợi ý rối loạn hoặc vấn đề về chú ý.



Bối cảnh

Hướng dẫn này có ý định lồng ghép với các qui trình rộng lớn hơn



thấy trong phần bổ sung cho báo cáo của nhóm chăm sóc sức khỏe tâm thần.7 Việc ghi chép tất cả các lĩnh vực về chẩn đoán và quy trình điều trị trong hồ sơ bệnh nhân là rất quan trọng. Dùng các thang điểm đánh giá trong chẩn đoán ADHD và đánh giá các tình trạng kèm theo và là một phương pháp để giám sát điều trị như mô tả trong quy trình (xem Hình 2 bổ sung), cũng như thông tin cung cấp cho cha mẹ như là các kế hoạch quản lý, có thể giúp làm dễ dàng hơn cho thầy thuốc trong quá trình ghi chép chính xác hồ sơ.

Lưu ý

AAP biết rằng một số bác sĩ chăm sóc ban đầu không đủ tự tin để chẩn đoán và điều trị thành công ADHD ở trẻ bởi vì tuổi của trẻ, những tình trạng kèm theo, hoặc những mối quan tâm khác. Tại bất cứ thời điểm nào mà người thầy thuốc cảm thấy chưa được huấn luyện đủ hoặc chưa chắc chắn để





chẩn đoán hoặc tiếp tục điều trị, thì nên chuyển đến các bác sĩ chuyên khoa về nhi hoặc tâm thần. Nếu các BS chuyên khoa chẩn đoán về ADHD hoặc các tình trạng kèm theo, thì bác sĩ chăm sóc ban đầu nên xây dựng một chiến lược điều trị cùng với các bác sĩ chuyên khoa để chắc chắn rằng trẻ sẽ tiếp tục nhận được sự chăm sóc thích hợp trong mô hình ở nhà, do vậy bác sĩ nhi khoa phối hợp với cha mẹ để mà lồng ghép cả yêu cầu chăm sóc sức khỏe với sức khỏe tâm thần.

TUYÊN BỐ HÀNH ĐỘNG CHÍNH TRONG ĐÁNH GIÁ, CHẨN ĐOÁN, ĐIỀU TRỊ, VÀ GIÁM SÁT ADHD Ở TRẺ EM VÀ TRẺ VỊ THÀNH NIÊN

Tuyên bố hành động 1: Thầy thuốc chăm sóc sức khỏe ban đầu nên bắt đầu đánh giá ADHD cho tất cả các trẻ em có tuổi từ 4 đến 18 có vấn đề về hành vi và học tập và biểu hiện triệu chứng mất chú ý, tăng động, hoặc hấp tấp (chất lượng bằng chứng B/khuyến cáo chính).
Đặc điểm bằng chứng


  • Chất lượng bằng chứng gộp: B

  • Lợi ích: một số lượng đáng kể trẻ không được chẩn đoán ADHD. BS chăm sóc ban đầu phát hiện một cách có hệ thống trẻ với những vấn đề này sẽ làm giảm tỉ lệ không được chẩn đoán và không được điều trị ADHD ở trẻ.

  • Tác hại/nguy cơ/chi phí: trẻ có ADHD không được chẩn đoán đúng có thể bị gán những bệnh không đúng, hoặc có thể bị bỏ sót các tình trạng kèm theo, và chúng có thể nhận điều trị mà không có ích lợi gì.

  • Đánh giá lợi ích-tác hại: tỉ lệ ADHD cao và nguồn lực sức khỏe tâm thần hạn chế đòi hỏi

bác sĩ nhi chăm sóc ban đầu đóng một vai trò quan trọng trong chăm sóc bệnh nhân ADHD của mình để cho trẻ có tình trạng này nhận được chẩn đoán và điều trị phù hợp. Các điều trị sẵn có chỉ ra bằng chứng tốt về hiệu quả, và không được điều trị sẽ dẫn đến các nguy cơ bị suy giảm.

  • Các phán đoán có giá trị: ủy ban xem xét các điều kiện cần thiết để thiết lập chẩn đoán, tỉ lệ hiện hành của ADHD, hiệu quả và tác dụng ngoại ý của điều trị cũng như hiệu quả dài hạn.

  • Vai trò của sự yêu thích của bệnh nhân: Thành công của điều trị lệ thuộc vào sự yêu thích của bệnh nhân và gia đình, cũng nên được tính đến.

  • Loại trừ: không có

  • Sự mơ hồ có chủ ý: giới hạn giữa những gì mà BS chăm sóc ban đầu có thể giải quyết và những gì nên chuyển đến BS chuyên khoa bởi vì trình độ khác nhau giữa các BS chăm sóc sức khỏe ban đầu.

  • Cường độ: khuyến cáo chính

Nền tảng của khuyến cáo này về cơ bản không thay đổi so với khuyến cáo trước đây. ADHD là rối loạn hành vi thần kinh thường gặp nhất ở trẻ em và xảy ra trong khoảng 8% trẻ em và người trẻ tuổi 8-10; số trẻ bị tình trạng này vượt xa số có thể được hệ thống sức khỏe tâm thần quản lý. Hiện nay, có ngày càng tăng bằng chứng để chẩn đoán phù hợp cho trẻ em trước tuổi đi học (4-5 tuổi) và trẻ vị thành niên.12

Tuyên bố hành động 2: Để chẩn đoán ADHD, BS chăm sóc sức khỏe ban đầu nên xác định là đạt tiêu chuẩn DSM-IV-TR (bao gồm tài liệu bằng chứng về sự suy giảm trong 1 bối cảnh chính hoặc hơn), và thông tin chủ yếu lấy từ báo cáo của cha mẹ hoặc người giám hộ, giáo viên, và các BS khác ở trước hoặc BS sức khỏe tâm thần có liên quan trong

sự chăm sóc trẻ. BS chăm sóc sức khỏe ban đầu cũng nên loại trừ các nguyên nhân thay thế (chất lượng bằng chứng B/khuyến cáo chính)

Đặc điểm bằng chứng

  • Chất lượng bằng chứng gộp: B

  • Lợi ích: việc sử dụng tiêu chuẩn DSM-IV dẫn đến phân loại thống nhất hơn cho tình trạng này đối với các chuyên ngành khác nhau

  • Tác hại/nguy cơ/chi phí: hệ thống DSM-IV không cung cấp chuyên biệt về sự khác nhau giữa các mức độ phát triển và có thể dẫn đến một số chẩn đoán sai

  • Đánh giá lợi ích-tác hại: lợi ích vượt trội hẳn so với tác hại

  • Các phán đoán có giá trị: ủy ban cân nhắc tầm quan trọng của việc phối hợp giữa dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhi khoa và tâm thần

  • Vai trò của sự yêu thích của bệnh nhân: Mặc dầu một số dấu hiệu bệnh liên quan đến chẩn đoán rối loạn tâm thần do một vài gia đình thích các chẩn đoán khác hơn, nhưng việc làm sáng tỏ chẩn đoán cần hơn

  • Loại trừ: không có

  • Sự mơ hồ có chủ ý: không có

  • Cường độ: khuyến cáo chính

Như trong các phát hiện ở hướng dẫn trước, tiêu chuẩn DSM-IV vẫn tiếp tục là tiêu chuẩn được hỗ trợ tốt nhất bởi bằng chứng và sự đồng thuận. Được phát triển lặp lại vài lần bởi Hội Tâm thần Hoa Kỳ (APS), tiêu chuẩn DSM-IV được tạo ra qua sử dụng sự đồng thuận và một tổ chức nghiên cứu mở rộng.13 Hệ thống DSM-IV được dùng bởi các bác sĩ chuyên khoa tâm thần, tâm lý, hệ thống chăm sóc y tế, và chăm sóc sức khỏe ban đầu. Hơn nữa, việc sử dụng tiêu chuẩn DSM-IV có bằng chứng cập nhật tốt nhất cho tiêu chuẩn ADHD, cũng tạo ra phương pháp giao tiếp tốt nhất giữa các bác sĩ lâm sàng và được thiết lập với bên chi trả thứ ba. Các tiêu chuẩn này được rà soát cho sự phát triển



DSM-IV, nhưng các thay đổi sẽ không được phổ biến cho đến ít nhất 1 năm sau khi xuất bản hướng dẫn này. Tiêu chuẩn chẩn đoán cũng không thay đổi từ hướng dẫn trước và được trình bày trong bảng 2 phần phụ lục. Những thay đổi được tiên liệu trong DSM-IV là tăng giới hạn tuổi khi ADHD cần khám lần đầu tiên từ 7 đến 12 tuổi.14

Hoàn cảnh đặc biệt: Trẻ em trước tuổi đi học (4-5 tuổi)

Có bằng chứng rằng tiêu chuẩn chẩn đoán ADHD có thể áp dụng cho trẻ em trước tuổi đi học; tuy nhiên, các dạng mô tả chi tiết trong DSM-IV có thể không có giá trị cho quần thể này.15-21 Trong 1 khảo sát tài liệu, bao gồm cả nghiên cứu đa trung tâm về hiệu quả của methylphenidate ở trẻ em trước tuổi đi học, đã cho thấy rằng tiêu chuẩn có thể phù hợp để phát hiện trẻ bị tình trạng này.11 Tuy nhiên, có thêm các thách thức khi xác định sự hiện diện của các triệu chứng chính. Trẻ trước tuổi đi học sẽ không có người quan sát riêng biệt nếu không tham gia chương trình chăm sóc trẻ hoặc học trước khi đi học, và ngay cả khi trẻ có tham gia thì nhân viên trong các chương trình này có thể có năng lực kém hơn các giáo viên đã được đào tạo khi cung cấp thông tin quan sát một cách chính xác. Và các danh mục tập trung cũng có thể giúp thầy thuốc trong đánh giá chẩn đoán, mặc dầu chỉ có thang điểm đánh giá hành vi toàn diện của Conners và thang điểm đánh giá ADHD là công cụ đo lường dựa trên DSM-IV mà có giá trị cho trẻ em trước tuổi đi học.22

Khi có những mối quan tâm về sự phổ biến hoặc chất lượng của quan sát về hành vi của trẻ từ các đối tượng không phải là bố mẹ trẻ, thầy thuốc có thể khuyên cha mẹ hoàn tất chương trình huấn luyện


dành cho cha mẹ trước khi khẳng định chẩn đoán ADHD cho trẻ trước tuổi đi học và xem xét sắp đặt trong chương trình trước khi đi học có chất lượng nếu họ chưa được huấn luyện qua chương trình này trước đó. Thông tin có thể lấy từ cha mẹ hoặc giáo viên bằng cách dùng các thang điểm chẩn đoán ADHD dựa trên DSM-IV. Chương trình huấn luyện dành cho cha mẹ phải bao gồm giúp đỡ cha mẹ xây dựng các kỳ vọng phát triển phù hợp với lứa tuổi và kỹ năng quản lý chuyên biệt các vấn đề về hành vi. Thầy thuốc có thể nhận báo cáo từ các huấn luyện viên trong các lớp dành cho cha mẹ về khả năng cha mẹ quản lý được con của họ, và nếu trẻ trong chương trình được quan sát trực tiếp, thì các huấn luyện viên có thể báo cáo trực tiếp thông tin về các triệu chứng và chức năng chính của trẻ. Các chương trình giáo dục trước tuổi đến trường có chất lượng bao gồm chương trình như là Khởi động ban đầu (Head Start) hoặc chương trình trước mẫu giáo công khác. Trẻ trước tuổi đi học có biểu hiện hành vi và cảm xúc đáng quan tâm có thể đủ điều kiện vào các lớp Giáo dục Đặc biệt Đầu Thời kỳ thơ ấu qua các lớp học quận huyện ở địa phương, và các người đánh giá chương trình này và/hoặc giáo viên của các lớp này là các báo cáo viên tốt về những triệu chứng chính.

Hoàn cảnh đặc biệt: Trẻ em tuổi vị thành niên

Để có được báo cáo của thầy cô giáo về trẻ vị thành niên có thể gặp nhiều thách thức hơn, bởi vì nhiều trẻ vị thành niên sẽ có nhiều giáo viên. Cũng như, cha mẹ ít có điều kiện quan sát hành vi của con họ ở tuổi vị thành niên hơn là khi chúng còn nhỏ. Báo cáo của trẻ vị thành niên về chính hành vi của chúng thường khác với báo cáo



của người quan sát, bởi vì chúng cố tình giảm thiểu những hành vi có vấn để của bản thân.23-25 Trẻ vị thành niên thường ít biểu lộ công khai hành vi tăng động. Mặc dầu khó khăn, thầy thuốc cần cố gắng lấy được thông tin (với sự đồng ý của trẻ vị thành niên) ít nhất từ 2 giáo viên cũng như thông tin từ các nguồn khác huấn luyện viên, các tư vấn viên hướng dẫn ở trường, hoặc trưởng nhóm các hoạt động cộng đồng mà trẻ tham gia. Hơn nữa, sẽ bất thường đối với trẻ vị thành niên có các vấn đề về hành vi/chú ý mà trước đây không được chẩn đoán ADHD. Vì thế, xác định sự biểu hiện của tình trạng này lúc trẻ bị bỏ sót là quan trọng và cần cân nhắc nhiều việc sử dụng chất gây nghiện, trầm cảm, và lo âu như là chẩn đoán thay thế hoặc kèm theo đồng thời. Trẻ vị thành niên bị ADHD, đặc biệt là khi không được điều trị có nhiều nguy cơ bị nghiện.26 Thêm vào đó, nguy cơ về rối loạn khí sắc và lo âu và hành vi tình dục nhiều nguy cơ tăng trong thời kỳ vị thành niên.12

Hoàn cảnh đặc biệt: Mất chú ý hoặc Tăng động/Hấp tấp (Mức độ vấn đề)

Giáo viên, cha mẹ, và các nhà chuyên môn chăm sóc sức khỏe của trẻ thường gặp những trẻ có hành vi liên quan đến mức độ hoạt động, sự hấp tấp, và mất chú ý nhưng có thể không đáp ứng hoàn toàn với tiêu chuẩn DSM-IV. DSM-PC3 cung cấp chỉ dẫn cho những hành vi thường gặp hơn ở trẻ. Hướng dẫn này mô tả những biến dạng thông thường của hành vi cũng như những hành vi có vấn đề ở mức độ ít bị suy giảm hơn là mô tả trong DSM-IV.

Các mô tả về hành vi trong DSM-PC chưa được kiểm chứng ở các nghiên cứu cộng đồng để xác định tần suất và mức độ nghiêm trọng




của các dạng phát triển và vấn đề trong các lĩnh vực mất chú ý, tăng động, hoặc hấp tấp. Tuy nhiên, nó cũng cung cấp cho bác sĩ lâm sàng về điều trị cho trẻ có vấn đề về mất chú ý, tăng động, hoặc hấp tấp từ mức độ nhẹ đến trung bình. DSM-PC cũng cân nhắc ảnh hưởng của môi trường đến hành vi của trẻ và cung cấp thông tin chẩn đoán phân biệt ở khía cạnh phát triển.

Tuyên bố hành động 3: Trong đánh giá trẻ bị ADHD, các thầy thuốc chăm sóc sức khỏe ban đầu nên bao gồm đánh giá các tình trạng khác có thể kèm theo ADHD, như hành vi hoặc cảm xúc (ví dụ lo âu, trầm cảm, thách thức chống đối, và rối loạn cư xử), phát triển (ví dụ rối loạn ngôn ngữ và khả năng học hỏi hoặc các rối loạn phát triển thần kinh khác), và tình trạng thực thể (ví dụ tật máy giật cơ, ngưng thở lúc ngủ) (chất lượng bằng chứng B/khuyến cáo chính)

Đặc điểm bằng chứng

  • Chất lượng bằng chứng gộp: B

  • Lợi ích: xác định tình trạng kèm theo là quan trọng khi xây dựng kế hoạch điều trị phù hợp nhất

  • Tác hại/nguy cơ/chi phí: nguy cơ chính là bỏ sót chẩn đoán các tình trạng và chỉ định điều trị không thích hợp

  • Đánh giá lợi ích-tác hại: lợi ích vượt trội tác hại

  • Các phán đoán có giá trị: thành viên ủy ban cân nhắc sự xuất hiện thông thường của các tình trạng kèm theo và tầm quan trọng khi đề cập đến chúng trong khuyến cáo này

  • Vai trò của sự yêu thích của bệnh nhân: Không có

  • Loại trừ: không có

  • Sự mơ hồ có chủ ý: Không có

  • Cường độ: khuyến cáo chính

Các điều kiện khác nhau về hành vi, sự phát triển, và thực thể có thể tồn tại đồng thời ở trẻ được

đánh giá ADHD. Những điều kiện này bao gồm, nhưng không giới hạn, vấn đề học hỏi, rối loạn ngôn ngữ, hành vi phá phách, lo âu, rối loạn khí sắc, rối loạn giật máy cơ, động kinh, rối loạn phối hợp phát triển, hoặc rối loạn giấc ngủ.23,24,27-38 Trong một vài trường hợp, sự hiện diện của tình trạng kèm theo sẽ làm thay đổi điều trị ADHD. Thầy thuốc chăm sóc sức khỏe ban đầu có thể được lợi từ hỗ trợ và hướng dẫn thêm hoặc có thể cần chuyển trẻ bị ADHD kèm theo các bệnh khác như rối loạn khí sắc nặng hoặc lo âu đến bác sĩ chuyên khoa để đánh giá và quản lý. Các bác sĩ chuyên khoa có thể gồm tâm thần nhi, bác sĩ nhi theo dõi về phát triển hành vi, bác sĩ theo dõi về khuyết tật phát triển thần kinh, thần kinh nhi, hoặc bác sĩ tâm lý nhi hoặc ở trường học.

Trong trường hợp có kèm theo tình trạng khác lúc nhỏ, bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu nên tiến hành đánh giá để xác định hoặc ít nhất phát hiện nguy cơ của các tình trạng kèm theo. Qua nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần, AAP đã xây dựng quy trình và bộ công cụ39 để đánh giá và điều trị (hoặc cùng quản lý) các rối loạn phát triển thông thường nhất và mối quan tâm về sức khỏe tâm thần ở trẻ. Các nguồn này có thể hữu ích để đánh giá trẻ bị ADHD. Chi trả cho việc đánh giá và điều trị phải bao gồm chi phí cố định và biến phí của các dịch vụ cung cấp, như ghi chú trong chính sách của AAP “Phạm vi của lợi ích chăm sóc sức khỏe cho trẻ từ khi sinh đến tuổi 26.”40



Hoàn cảnh đặc biệt: Trẻ em tuổi vị thành niên

Thầy thuốc nên đánh giá về triệu chứng và dấu hiệu lạm dụng chất gây nghiện ở bệnh nhân tuổi vị thành niên mới được chẩn đoán ADHD; khi có những dấu hiệu và triệu chứng này, đánh giá và điều trị nghiện nên bắt đầu trước điều trị ADHD, nếu có thể, thận trọng điều trị ADHD có thể bắt đầu nếu cần thiết.25



Tuyên bố hành động 4: Thầy thuốc chăm sóc sức khỏe ban đầu nên thừa nhận ADHD như là tình trạng mạn tính và, vì thế, xem xét trẻ em và trẻ vị thành niên bị ADHD như là trẻ và người trẻ tuổi cần chăm sóc sức khỏe đặc biệt. Quản lý những đối tượng này cần theo các nguyên tắc trong mô hình chăm sóc bệnh mạn tính và chăm sóc y tế tại nhà (chất lượng bằng chứng B/khuyến cáo chính)

Đặc điểm bằng chứng


  • Chất lượng bằng chứng gộp: B

  • Lợi ích: khuyến cáo mô tả các dịch vụ phối hợp thích hợp nhất cho quản lý tình trạng này.

  • Tác hại/nguy cơ/chi phí: Cung cấp các dịch vụ có thể tốn kém hơn

  • Đánh giá lợi ích-tác hại: lợi ích vượt trội tác hại

  • Các phán đoán có giá trị: thành viên ủy ban cân nhắc giá trị của dịch vụ chăm sóc y tế tại nhà khi quyết định biên soạn khuyến cáo này.

  • Vai trò của sự yêu thích của bệnh nhân: Gia đình thích cách cung cấp của các dịch vụ này mới là quan trọng cần xem xét

  • Loại trừ: không có

  • Sự mơ hồ có chủ ý: Không có

  • Cường độ: khuyến cáo chính

Như trong hướng dẫn trước, khuyến cáo này dựa trên bằng chứng là ADHD tiếp tục gây nên triệu chứng và rối loạn chức năng ở nhiều trẻ bị tình trạng này trong thời gian dài, thậm chí cho đến lúc trưởng thành, và rằng các điều trị có thể tác động đến triệu chứng và chức năng nhưng thường không chữa khỏi. Mặc dầu mô hình bệnh mạn tính không được nghiên cứu chuyên biệt trên trẻ em hoặc người trẻ tuổi bị ADHD, cũng hữu hiệu cho các tình trạng mạn tính như hen suyễn,23 và mô hình chăm sóc y tế tại nhà được chấp nhận như là tiêu chuẩn chăm



sóc được yêu thích.41 Quá trình quản lý cũng được hỗ trợ bằng cách khuyến khích sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường.42

Các nghiên cứu tiền cứu cho thấy rằng, thông thường các điều trị không được duy trì mặc dù thực tế là kết quả dài hạn ở trẻ em bị ADHD chỉ ra rằng chúng sẽ gặp nhiều nguy cơ có vấn đề rõ hơn nếu ngưng điều trị.43 Bởi vì một số cha mẹ của trẻ bị ADHD cũng bị ADHD, có thể cần thiết phải hỗ trợ thêm cho các cha mẹ này để uống thuốc đều đặn và cho các chương trình hành vi đều đặn. Tiếp cận chăm sóc y tế tại nhà và chăm sóc bệnh mạn tính được mô tả trong quy trình (xem Hình 2 phần Phụ lục). Quá trình quan trọng khi chăm sóc tiếp tục là thông tin 2 chiều với giáo viên và trường học khác và bác sĩ sức khỏe tâm thần liên quan trong chăm sóc trẻ cũng như cha mẹ và bệnh nhân.



Hoàn cảnh đặc biệt: Mất chú ý hoặc Tăng động/Hấp tấp (Mức độ vấn đề)

Trẻ bị mất chú ý hoặc tăng động/hấp tấp ở mức có vấn đề (DSM-PC) và gia đình có thể cũng hưởng lợi từ cùng nguyên tắc chăm sóc y tế tại nhà và bệnh mạn tính.



Tuyên bố hành động 5: Khuyến cáo về điều trị cho trẻ em và người trẻ tuổi bị ADHD thay đổi tùy theo tuổi của bệnh nhân.

Tuyên bố hành động 5a: cho trẻ trước tuổi đi học (4-5 tuổi), bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu nên kê đơn liệu pháp hành vi dựa vào bằng chứng từ cha mẹ và/hoặc thầy cô giáo quản lý như là điều trị đầu tay (chất lượng bằng chứng A/khuyến cáo chính) và có thể kê đơn methylphenidate nếu sự can

thiệp hành vi không giúp cải thiện rõ rệt và có sự rối loạn tiếp diễn trong chức năng của trẻ ở mức độ từ vừa đến nặng. Ở những nơi mà liệu pháp hành vi không sẵn có, thầy thuốc cần cân nhắc nguy cơ của việc dùng thuốc sớm và tác hại của việc trì hoãn chẩn đoán và điều trị (chất lượng bằng chứng B/khuyến cáo).

Đặc điểm bằng chứng

  • Chất lượng bằng chứng gộp: A cho hành vi; B cho methylphenidate

  • Lợi ích: Cả liệu pháp hành vi và methylphenidate được chứng minh làm giảm hành vi liên quan đến ADHD và cải thiện chức năng.

  • Tác hại/nguy cơ/chi phí: Cả hai liệu pháp làm tăng chi phí chăm sóc, và liệu pháp hành vi cần sự tham gia của gia đình nhiều hơn, trong khi methylphenidate có một vài tác dụng ngoại ý.

  • Đánh giá lợi ích-tác hại: so với nguy cơ không điều trị ADHD, thì lợi ích vượt trội tác hại

  • Các phán đoán có giá trị: thành viên ủy ban nên tính đến tác động của ADHD không được điều trị khi ra quyết định về khuyến cáo này

  • Vai trò của sự yêu thích của bệnh nhân: sự yêu thích của gia đình là yếu tố cần thiết trong quyết định kế hoạch điều trị

  • Loại trừ: không có

  • Sự mơ hồ có chủ ý: Không có

  • Cường độ: khuyến cáo chính

Tuyên bố hành động 5b: cho trẻ tuổi đi học tiểu học (6-11 tuổi), bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu cần kê đơn thuốc được FDA chấp thuận cho điều trị ADHD (chất lượng bằng chứng A/khuyến cáo chính) và/hoặc liệu pháp hành vi dựa vào bằng chứng từ cha mẹ và/hoặc thầy cô giáo quản

lý như là điều trị ADHD, tốt hơn là cả hai (chất lượng bằng chứng B/khuyến cáo chính). Bằng chứng đặc biệt mạnh cho thuốc kích thích và đủ nhưng kém mạnh hơn cho atomoxetine, guanfacine phóng thích kéo dài, và clonidine phóng thích kéo dài (theo thứ tự) (chất lượng bằng chứng A/khuyến cáo chính). Môi trường ở trường học, chương trình, hoặc sự xếp đặt là một phần của bất cứ kế hoạch điều trị nào.

Đặc điểm bằng chứng

  • Chất lượng bằng chứng gộp: A cho điều trị với các thuốc được FDA phê duyệt; B cho liệu pháp hành vi

  • Lợi ích: Cả liệu pháp hành vi và thuốc được FDA phê duyệt được chứng minh làm giảm hành vi liên quan đến ADHD và cải thiện chức năng.

  • Tác hại/nguy cơ/chi phí: Cả hai liệu pháp làm tăng chi phí chăm sóc, và liệu pháp hành vi cần sự tham gia của gia đình nhiều hơn, trong khi thuốc được FDA phê duyệt có một vài tác dụng ngoại ý.

  • Đánh giá lợi ích-tác hại: so với nguy cơ không điều trị ADHD, thì lợi ích vượt trội tác hại

  • Các phán đoán có giá trị: thành viên ủy ban nên tính đến tác động của ADHD không được điều trị khi ra quyết định về khuyến cáo này

  • Vai trò của sự yêu thích của bệnh nhân: sự yêu thích của gia đình và của bệnh nhân là yếu tố cần thiết trong quyết định kế hoạch điều trị

  • Loại trừ: không có

  • Sự mơ hồ có chủ ý: Không có

  • Cường độ: khuyến cáo chính

Tuyên bố hành động 5c: cho trẻ vị thành niên (12-18 tuổi), bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu nên kê đơn thuốc được FDA

Каталог: data news
data news -> Mẫu 01/hc-sn-dn (Ban hành kèm theo Thông tư số 83/2007/tt-btc ngày 16/7/2007 của Bộ Tài chính) TỜ khai hiện trạng sử DỤng nhà, ĐẤt thuộc sở HỮu nhà NƯỚc và ĐỀ xuất phưƠng án xử LÝ
data news -> BỘ lao đỘng thưƠng binh và XÃ HỘI
data news -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
data news -> Bch đOÀn tp. HỒ chí minh số: 191- bc/TĐtn-btn đOÀn tncs hồ chí minh
data news -> TRƯỜng đẠi học lạc hồng khoa cnh-tp
data news -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạo số: 42/2012/tt-bgdđt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
data news -> Nghị quyết của quốc hội số 23/2003/QH11 ngàY 26 tháng 11 NĂM 2003 VỀ nhà ĐẤT DO nhà NƯỚC ĐÃ quản lý, BỐ trí SỬ DỤng trong quá trình thực hiện các chính sáCH
data news -> QuyếT ĐỊnh về việc ban hành Quy định về trang phục đối với Sinh viên Trường Đại học Lạc Hồng
data news -> BỘ chính trị ĐẢng cộng sản việt nam

tải về 233.83 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương