17
gom chất thải rắn thu từ các hộ gia đình và các hộ sản xuất kinh doanh năm
2018 là 62 tỷ Đồng, chỉ gần đủ để phục vụ cho công tác thu gom (67 tỷ Đồng),
còn lại toàn bộ chi phí vận chuyển và xử lý được ngân sách địa phương chi trả.
Các địa phương có nguồn chi ngân sách lớn cho công tác quản lý chất thải
rắn sinh hoạt là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng....ví dụ, trong năm
2018, thành phố Hồ Chí Minh chi là 2.000 tỷ Đồng.
Đối với việc vận chuyển, các địa phương ban hành đơn giá căn cứ vào
khoảng cách nên giá dịch vụ vận chuyển không khác nhau nhiều tại các địa
phương (tùy điều kiện vận chuyển). Việc tính khối lượng được dựa vào số liệu
trạm cân tại cơ sở xử lý. Tuy nhiên, có nhiều phản ánh cho thấy cần kiểm soát
chặt chẽ lượng chất thải được thu gom, xử lý để tránh thất thoát ngân sách của
nhà nước do việc khai báo khống khối lượng chất thải thu gom, xử lý.
Đối với giá xử lý: Hiện nay, các địa phương đang áp dụng các giá xử lý
khác nhau cho các phương pháp xử lý khác nhau. Thực tế tồn tại là cùng một
phương pháp xử lý nhưng đơn giá áp dụng tại từng địa phương là khác nhau. Ví
dụ như đơn giá xử lý chất thải rắn sinh hoạt bằng phương pháp đốt tại thành phố
Hồ Chí Minh là 510,234 đồng/tấn trong khi cùng với công nghệ đó, đơn giá
được áp dụng tại Hải Dương là 230,000 đồng/tấn. Thậm chí, trong cùng một địa
phương và cùng một công nghệ nhưng giá xử lý chất thải lại được áp dụng khác
nhau (tại thành phố Hồ Chí Minh trả cho cùng công nghệ chôn lấp đối với
CITENCO là 369,706 đồng/tấn còn đối với VWS là 22.098USD/tấn tương
đương hơn 480,000 đồng/tấn). Một ví dụ khác là tỉnh Bắc Ninh áp dụng đơn giá
xử lý bằng phương pháp đốt tại 2 huyện Thuận Thành và Quế Võ khác nhau, với
giá xử lý tương ứng là 451.00 đồng/tấn và 396.000 đồng/tấn. Đây là một bất cập
cần được giải quyết để thúc đẩy công tác xã hội hóa, tránh tình trạng các nhà đầu
tư chỉ mong muốn đầu tư tại các tỉnh/thành phố có mức giá xử lý cao.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: