KẾT LUẬN
Góp phần nghiên cứu một số vấn đề có tính hệ thống của đồng dao điều có thể rút ra về mặt văn hóa dân gian trong đó có văn học dân gian là đồng dao có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa đặc biệt đối với trẻ em. Bên cạnh việc bảo vệ chăm sóc các cháu, việc giáo dục các cháu từ tấm bé đến hết tuổi vị thành niên phải được gia đình, nhà trường và xã hội đặc biệt quan tâm. Trong việc giáo dục trẻ ở độ tuổi nhi đồng, thiếu niên, đồng dao có tác dụng tích cực trong phương thức chơi, tiếp đó chơi mà học rồi học mà chơi. Quá trình hoạt động chơi-học đó được kết hợp với hát, diễn xướng, bắt đầu từ nghe lời hát ru của mẹ, của chị, của bà bằng lời đồng dao, ca dao rồi tự hát đồng dao, vừa hát đồng dao vừa chơi trò chơi dân gian hợp với lứa tuổi hoặc vừa chơi vừa đố vui... Các em hát đồng dao và sáng tạo đồng dao làm cho kho tàng đồng dao ngày thêm phong phú, sống và lớn lên trong thế giới tuổi thơ với văn hóa dân gian, văn học dân gian, với cổ tích, truyền thuyết, ngụ ngôn, truyện cười... Tất cả những thể loại này bắt đầu từ hát ru là nguồn nước trong lành, là liều thuốc bổ dưỡng tinh thần tốt nhất cho các em với sự hỗ trợ của người lớn làm cho nhân cách của các em hình thành và phát triển.
Người lớn tiếp nhận đồng dao hoặc nghiên cứu đồng dao là để thâm nhập vào thế giới trẻ em từ đó hướng dẫn trẻ vui chơi phù hợp qui luật tâm sinh lý của trẻ từ tuổi ấu thơ, tiền học đường cho đến lúc trẻ vào tiểu học và tiếp tục cho hết bậc trung học cơ sở ở tuổi 14, 15.
Người lớn có thể sáng tác đồng dao hoặc thơ cho thiếu nhi với điều kiện phải tuân thủ thi pháp của đồng dao hoặc thơ cho trẻ em. Thi pháp đồng dao hoặc thơ cho trẻ em có quan hệ chặt chẽ với tâm sinh lý trẻ. Thoát ly tâm sinh lý của trẻ, không hiểu biết hoàn cảnh vui chơi, sinh hoạt, học hành của trẻ, sẽ khó thành công trong sáng tác văn nghệ cho thiếu nhi. Cái đẹp trong đồng dao luôn luôn gắn liền với cảm nghĩ, cách nói, cách hát, cách diễn xướng, cách chơi hồn nhiên, đơn giản với tưởng tượng và trí tuệ của thiếu nhi. Người lớn sáng tạo đồng dao phải làm toát lên được cái đẹp đó. Phải tránh cách suy nghĩ theo lí trí và tình cảm của người lớn khi sáng tác đồng dao hoặc các thể loại khác cho thiếu nhi như thơ, truyện, nhạc... Nên nhớ rằng “trẻ em là trẻ em, trẻ em không phải là người lớn" trong sáng tạo nghệ thuật cho trẻ.
Ngày nay, bàn về quan hệ giữa đồng dao, trò chơi dân gian của trẻ với các bài hát hiện đại, trò chơi điện tử, phim ti vi, nhiều nhà khoa học trên thế giới về tâm sinh lý trẻ đã nghiên cứu và có kết luận khá thống nhất. Người ta cho rằng phải tôn trọng qui luật phát triển tâm sinh lý trẻ em theo nhịp sống hồn nhiên của trẻ. Người ta không tán thành việc ép trẻ em khi chưa đến tuổi đi học phải học bộ chữ cái, bộ con số, học ngoại ngữ với đĩa CD-ROM. Người ta cũng phản đối việc bắt trẻ học quá nhiều giờ trong tuần lễ, bắt trẻ em học thêm, không có kế hoạch cân đối giữa học và chơi đối với từng độ tuổi khác nhau từ mẫu giáo đến tiểu học và trung học cơ sở. Trong vui chơi của trẻ thơ, của nhi đồng, nhiều nhà khoa học đã nói rõ về tính ưu việt của gia đình đặc biệt của người mẹ trong việc nâng niu chăm sóc trẻ bằng tiếng ru, lời hát, hoặc của mẹ, của bà trong kể truyện cổ tích, truyền thuyết, ngụ ngôn, truyện cười... Các nhà khoa học về tâm sinh lý trẻ em cũng đề nghị người lớn tham gia sáng tạo, tổ chức hướng dẫn những trò chơi dân gian truyền thống của từng dân tộc cho trẻ em. Để kết luận cuốn sách này, xin nêu những ý kiến sau đây cửa thế giới hiện đại về hoạt động chơi-học của trẻ em để cùng tham khảo kết hợp văn hóa dân tộc với văn hóa hiện đại của thế giới: Năm 1994, Liên đoàn Carnegie đã công bố một bản báo cáo về "Cơn khủng hoảng thầm lặng" của trẻ em ở Mỹ trong đó đã nhấn mạnh rằng các tác động kích thích đối với bộ não của trẻ em dù đúng hướng hay chệch hướng đều có ảnh hởng đáng kể tới quá trình phát triển bộ não sau này". Nhà Trắng cũng đã triệu tập một cuộc hội nghị về quá trình phát triển của trẻ em. Theo kết quả của nhóm nghiên cứu “từ 0 đến 3 tuổi", có đến 80% gia đình ở Mỹ với cha mẹ có trình độ xấp xỉ đại học, thường xuyên sử dụng các phương tiện kích thích não bằng truyền hình và trò chơi điện tử để bồi dưỡng cho con cái họ; nhưng theo các chuyên gia nghiên cứu về quá trình phát triển của trẻ, các công cụ này không có hiệu quả gì so với hoạt động xã hội và cảm xúc như nói chuyện với trẻ hoặc đọc truyện cho trẻ nghe. Các chuyên gia đều nhất trí là chỉ có quan hệ an toàn và tin cậy với cha mẹ là có thể phát triển tiềm năng trí tuệ của trẻ tới mức tối ưu. Thời gian dành cho việc bế ẵm, ngắm nhìn trẻ và chơi với trẻ tạo ra sự gắn bó tin cậy và tôn trọng là cơ sở của quá trình phát triển của trẻ, điều này thường bị lãng quên hoặc đặt vào hàng thứ yếu... Theo các nhà giáo dục, trước khi đi học, không phải trẻ em cần biết bộ chữ cái, các con số... mà những gì cần có đối với trẻ là các kỹ năng xã hội như biết chia sẻ, biết tương tác với người khác, biết làm theo lời chỉ bảo hướng dẫn. Khi đã có những kỹ năng này, trẻ tới trường sẽ không chỉ học dễ dàng các môn tập đọc tập viết mà còn có thể phát triển các khả năng khác nữa, trên cơ sở "trí khôn cảm xúc"1. Những nội dung vừa nêu cho thấy:
- Gia đình, đặc biệt các bà mẹ phải chăm sóc trẻ từ lúc sơ sinh đến 3 tuổi, qua đó giáo dục cảm xúc cho trẻ, khi bồng bế, khi vui chơi, khi hát ru trẻ nghe...
- Không nên ép trẻ học quá sớm giai đoạn trẻ trên 3 đến 6 tuổi chủ yếu là chơi, tiếp xúc với thế giới thiên nhiên xã hội quanh mình để phát triển ngôn ngữ giao lưu với bạn bè cùng lứa tuổi, vui chơi ca hát trong môi trường xã hội của các em.
- Cân đối vui chơi với học hành trong trường phổ thông nhất là ở bậc tiểu học. Trong vui chơi giải trí, không nên cho trẻ quá say mê trò chơi hiện đại, trò chơi điện tử; xét ra, như các nhà khoa học đã chỉ rõ, ích lợi không nhiều cho các em trong phát triển con người toàn diện.
Trong quan hệ giữa những điểm trên đây với tác dụng của đồng dao (trẻ em hát, trẻ em hát-trẻ em chơi, hát ru, trẻ em đố vui, ca dao cho trẻ em) ta có thể thấy nên phát huy hơn nữa tác dụng của đồng dao trong vui chơi của trẻ em, không chỉ ở nông thôn mà cả ở đô thị, không chỉ ngoài nhà trường mà ngay ở trong nhà trường nữa. Gần đây, Võ Quang Trọng đã nghiên cứu “trò chơi dân gian ở đô thị" (qua khảo sát ở một trường tiểu học, quận Ba Đình Hà Nội) cho biết trong giờ chơi, các em rất thích thú khi chơi các trò chơi như đá cầu, bịt mắt bắt dê, kéo co, nhảy dây, tập tầm vông, bắn sỏi, đào dế, chơi dế, chơi lò cò, chơi ô quan, chuyền thẻ... là những trò chơi có hát đồng dao kèm theo hoặc không hát đồng dao. Võ Quang Trọng cho biết thêm so với trò chơi trẻ em ở nông thôn, trò chơi dân gian của trẻ ở đô thị không phong phú bằng nhưng chứng tỏ rằng “Do sự phát triển của đô thị, nhiều người từ các địa phương khác nhau, trong quá trình thiên di, đã mang theo vốn văn hóa truyền thống của làng quê mình gia nhập vào kho tàng văn hóa của cư dân đô thị. Trong quá trình đó, nhiều trò chơi dân gian phù hợp, thích ứng với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội được tiếp nhận, bảo lưu, còn những trò chơi nào không phù hợp bị đào thải. Những trò chơi hiện đang tồn tại, được các em ưa thích đã khẳng định được vị thế của nó ở chốn đô thị chính là đã thích ứng với môi trường mới, với không gian chật hẹp, với lối sống và thế ứng xử mới"1. Như vậy, trong hoàn cảnh mới về kinh tế xã hội của đất nước ta, đồng dao vẫn phát huy tốt tác dụng nhiều mặt của nó. Vấn đề đặt ra là các cơ quan đoàn thể hữu quan trong chăm sóc bảo vệ giáo dục trẻ em cần quan tâm chỉ đạo tốt hơn việc phát huy tác dụng của đồng dao, trò chơi dân gian để góp phần hình thành nhân cách cho thiếu nhi với bản sắc văn hóa Việt Nam, đừng để “món quà quý này đang bị lãng quên"2.
PHỤ LỤC
CỦA PHẦN THỨ NHẤT
VỀ NỘI DUNG “SẤM VĨ” CỦA ĐỒNG DAO
Nói chung, chủ thể sáng tạo và sử dụng đồng dao phần lớn là trẻ em, nhưng nói riêng lại có một số đồng dao do người lớn làm ra, lan truyền nhằm mục đích riêng biệt rồi sử dụng trẻ em làm trung gian để truyền bá trong dân gian. Trẻ em có một khả năng ưu việt là tuy không hiểu ý nghĩa câu đồng dao do người lớn truyền đạt nhưng các em tiếp thu rất nhanh, mau thuộc và truyền cho nhau cũng rất nhanh. Như vậy, đồng dao cũng có thể định nghĩa đơn giản là lời hát của trẻ em, từ miệng trẻ em hát lên (không cần biết nội dung nói gì). Đó là một hiện tượng có thật từ xưa ở nước ta, đến nay trong dân gian và một số nhà nghiên cứu văn học dân gian gọi là đồng dao. Những đồng dao do người lớn lan truyền có nguồn gốc, xuất xứ khác nhau, thường liên quan đến vận mệnh đất nước, thời cuộc, thay đổi triều đại vua chúa hoặc liên quan đến hiện tượng thiên nhiên có số lượng rất ít nhưng thường được chú ý. Có thể kể ra đây một số đồng dao được sáng tạo và truyền bá từ người lớn qua trẻ em.
Chuyện cây gạo bị sét đánh ở làng Diên Uẩn thuộc châu Cổ Pháp (nay là vùng Tiên Sơn, Bắc Ninh) có bài thơ “Thụ căn diểu diểu / Mộc biểu thanh thanh / Hòa-đao-mộc lạc / Thập-bát-tử thành / Đông-A nhập địa / Dị mộc tái sinh / Chấn cung kiến nhật / Đoài cung ẩn tinh / Lục thất niên gian / Thiên hạ thái bình". (Dịch nghĩa và suy luận là: Rễ cây sâu thăm thẳm / Vỏ cây màu xanh xanh / Hòa-đao-mộc rụng có nghĩa 3 chữ Hán này ghép lại thành chữ lê, ý nói nhà Lê sẽ mất đi / Thập-bát-tử thành có nghĩa 3 chữ Hán này ghép lại thành chữ lý, ý nói nhà Lý sẽ được dựng lên / Đông-A vào nước ta, có nghĩa 2 chứ Hán này ghép lại thành chữ trần, ý nói nhà Lý suy, nhà Trần sẽ nối tiếp / Cây lạ sinh trở lại, ý nói cây lê mới nảy sinh ngụ ý nhà Hậu Lê sẽ tiếp nối / Phương Đông mặt trời mọc ý nói sẽ xuất hiện thiên tử, muốn ám chỉ Lý Công Uẩn sẽ làm vua / Phương Tây sao ẩn mình ý nói phía Hoa Lư sẽ mất / Chừng sáu bảy năm nữa / Thiên hạ sẽ thái bình). Toàn bài thơ có ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư nói về điềm lạ báo trước Lý Công Uẩn lên ngôi lập nên nhà Lý. Bài thơ trên như lời sám được truyền bá và trẻ em hát nguyên văn, được xem là đồng dao.
Lời ca dao "Nhong nhong ngựa ông dã về / Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn" cũng là lời hát đồng dao kèm thêm trò chơi cưỡi ngựa “Ếp nhong nhong / Ngựa ông đã về / Cắt cỏ Bồ Đề / Cho ngựa ông ăn" có liên quan đến một mệnh lệnh quân sự. Vào cuối năm 1427, cuộc kháng chiến chống Minh dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi vào thời kỳ giành được thắng lợi hoàn toàn. Giặc Minh đóng trong thành Đông Quan bị bao vây. Đại bản doanh nghĩa quân Lê Lợi đóng ở dinh Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội ngày nay). Ngày ngày quân ta nhận được nhiều lương thực tiếp tế của nhân dân. Để không làm phiền dân, bộ chỉ huy quân ta ra mệnh lệnh chỉ nhận cỏ của dân đem đến cho ngựa còn không được nhận bất cứ một thứ gì khác như rượu, thịt, ai vi phạm quân lệnh sẽ bị xử lý công khai. Lệnh ban ra dân chúng rất cảm kích, rủ nhau đi cắt cỏ cho ngựa của quân khởi nghĩa. Lời đồng dao này có thực, phản ánh tình quân dân của cuộc kháng chiến chống Minh, chắc chắn do người lớn sáng tác, trẻ em hát và sau đó vận vào trò chơi. Trong bài viết "Vị trí của đồng dao" (Tạp chí Vì Trẻ thơ, số 6-1995), Nghiêm Đa Văn viết “Ức Trai Nguyễn Trãi mượn miệng trẻ thơ hát khúc đồng dao: "Nhong nhong..." để báo cho muôn dân vùng lên đánh trận cuối cùng, thu giang sơn về một mối" và “… Bấy lâu chúng ta quên rằng đồng dao có cả một sứ mệnh vô cùng lớn lao. Lớn lao đến mức trí lực như Khổng Minh, Nguyễn Trãi, Đào Duy Từ không dám bỏ qua".
Có lẽ lời đồng dao kèm theo trò chơi "Chi chi chành chành" làm nhiều nhà nghiên cứu đồng dao quan tâm nhất. Trò chơi chỉ là kết hợp lời hát đồng dao trong khi chơi trò ú tim, trốn tìm, trẻ hát mà không cần hiểu bài hát nói gì. Điều các em chú ý là lời “Chi chi chành chành" và “Ù à ù ập" hoặc "Hú tim lại ập " trong lúc chơi, còn người lớn lâu nay vẫn cho là đồng dao. Nguyễn Văn Tố và Nguyễn Văn Huyên là hai nhà nghiên cứu văn hóa dân gian bàn khá sâu về bài đồng dao này. Trong bài “Ghi chú về một bài ca dao", Nguyễn Văn Huyên viết: “Bài ca được đồng nghiệp của tôi - ông Nguyễn Văn Tố - giải thích như có liên quan đến những sự kiện bi thảm xảy ra vào năm 1885, sau khi vua Tự Đức mất (1883). Theo cách tin của nhiều người quanh tôi hồi tôi còn thơ ấu, bài đồng dao trên là một lời sấm cố (của cụ Trạng Trình) báo trước tương lai nước ta sau khi nhà Lê sụp đổ”. Sấm là lời tiên đoán. Sấm vĩ là bộ phận hợp thành quan trọng của “thiên nhân cảm ứng luận"1.
Như chúng ta biết, lời đồng dao này có đến bảy, tám dị bản; riêng Nguyễn Văn Huyên đưa ra bốn bản khác nhau: 1- Chi chi chành chành / Cái đanh thổi lửa / Con ngựa chết chuông / Ba vương thượng đế / Cấp kế thượng hạ / Bà xã đi tìm / Hú tim bắt lấy! 2- Chi chi chành chành / Cái đanh nẩy lửa / Con ngựa chết chuông / Ba vương thượng đế / Chấp chế thượng hạ / Ba chạ đi tìm / Hú tim lại hập! 3- Chi chi chành chành / Cái đanh thổi lửa / Con ngựa chết trương / Ba vương thượng đế / Chấp chế đi tìm / Hú tim lại ập! 4- Chi chi chành chành / Cái đanh thổi lửa / Con ngựa chết trương / Ba vương thượng đế / Chấp kế đi tìm / Hú tim bắt ập!1. Lời đồng dao có bản gồm 7 hoặc 8 dòng, nhiều bản 6 dòng, được giải thích trong dân gian là “Chi chi chành chành là cành, nhánh sinh sôi, biến đổi/ Cái đanh thổi lửa là cái đinh làm phát ra lửa tức que diêm đánh ra lửa hoặc súng bắn ra lửa, ý nói văn minh phương Tây, sức mạnh phương Tây / Con ngựa chết trương ý nói năm Ngọ (1786) Lê Hiển Tông chết và chết vào thời điểm quân Tây Sơn chiếm đế đô, triều Hậu Lê sụp đổ / Ba vương ngụ đế ý nói Nguyễn Huệ tự xưng vương ở Bắc, Nguyễn Nhạc xưng vương ở Trung, Nguyễn Ánh chiếm giữ phía Nam. Ba vương ba phương nghĩa như nhau / Cấp kế thương hải ý nói hoàng tử Cảnh cầu cứu viện trợ của Pháp các nước trên biển" (người Pháp) đến giúp Nguyễn Ánh / Ú tim ù ập ý nói mọi chuyện như trò đuổi bắt nhau, ám chỉ những sự kiện từ sau khi Gia Long cầu viện Pháp, con cháu Gia Long chơi trò ú tim về các chính sách của nhà Nguyễn, cuối cùng nước ta mất vào tay Pháp. Tất cả, cho đến phút cuối, đã chơi trò ú tim!”.
Dựa vào sự giải thích của nhiều nhóm xã hội Nguyễn Văn Huyên đề xuất cách diễn dịch bài đồng dao được xem như một câu sấm nói trên: "Những cành này làm nảy sinh những cành khác / Khi chiếc đinh làm nảy lửa / Con ngựa sẽ chết bỏ thây / Ba miền sẽ lập thành ba nước / Gấp lên! Viện trợ từ các biển xa sẽ tới / Người ta sẽ chơi hú tim, người ta sẽ bắt được nhau!1.
Cũng bài đồng dao này, lại có cách giải thích cho rằng nội dung nói về âm dương ngũ hành. Cái đanh thổi lửa, muốn rèn được đanh (đinh) thì phải thổi lửa, đinh còn là chữ “đinh" trong ngũ hành thuộc hỏa (lửa); con ngựa chết trương, ngựa là ngọ thuộc hỏa, khắc thủy, ngựa bị nước phải chết... tóm lại, bài đồng dao dạy về quan hệ can, chi, âm dương, ngũ hành, qui luật âm dương ngũ hành tương sinh tương khắc2. Những nội dung này đối với trẻ em khi xưa, đi học chữ Hán thường được các cụ đồ truyền cho và chấp nhận như những kiến thức về dịch lý cũng như ngày nay các em học các định lý về toán học vậy.
Đưa ra một số đồng dao do người lớn sáng tạo, thông qua trẻ em để truyền bá rộng rãi trong dân gian với những mục đích khác nhau, chúng tôi muốn khẳng định và đồng tình với một số nhà nghiên cứu về đồng dao cũng như theo quan niệm cổ truyền trong dân gian, rằng có những đồng dao có nội dung “sấm vĩ” nói về thời cuộc, vận mệnh quốc gia, tình hình đất nước, hoặc các đồng dao về sự kiện lịch sử chính trị xã hội... trong hệ thống đồng dao của nhân dân ta. Đối với trẻ em, không nhất thiết phải giải thích nội dung các đồng dao đó, lớn lên các em sẽ hiểu, còn bây giờ với lứa tuổi thơ cứ khuyến khích các em vừa hát vừa chơi những trò chơi kèm theo các đồng dao loại này. Xét đến cùng, chẳng có hại gì đối với trẻ. Có lẽ điều chúng ta cần lưu tâm là có những người lớn vô công rồi nghề " đặt ra những câu vần vè có nội dung không tốt truyền cho trẻ em để truyền bá trong xã hội với ý đồ xấu (Ví dụ đồng tiền là tiên là phật, là sức bật của trẻ...") thì không được gọi là đồng dao và phải loại trừ khỏi đời sống văn hóa của nhân dân ta.
PHẦN THỨ HAI
SƯU TẦM, TUYỂN CHỌN, CHÚ THÍCH
(Xếp theo vần chữ cái tiếng Việt)
A. Đồng dao trẻ em hát
B. Đồng dao trẻ em hát-trẻ em chơi
C. Đồng dao hát ru
D. Trẻ em đố vui
Đ. Ca dao cho trẻ em
MẤY ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI ĐỌC PHẦN HAI
1. Phần thứ hai gồm: sưu tầm, tuyển chọn, chú thích đồng dao và ca dao cho trẻ em, có năm mục như đã ghi ở trang trước, được tuyển chọn nhiều đồng dao trẻ em hát", đồng dao có trò chơi kèm theo "Trẻ em hát-trẻ em chơi' , những đồng dao "Hát ru", một số "Ca dao cho trẻ em " về lòng yêu nước, thương nòi, kính mến và biết ơn Bác Hồ, các anh hùng liệt sĩ; tình cảm truyền thống trong gia đình, nhà trường và xã hội; hiểu biết về cảnh dẹp, sản vật đất nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc... và một ít câu đố vui hợp với tuổi thiếu nhi.
2. Sau các mục B, C có phụ lục đồng dao của một số dân tộc thiểu số. Do tư liệu được sưu tầm còn ít nên để vào phần phụ lục, hy vọng sau này được bổ sung nhiều hơn.
3. Có một số đồng dao của mục B được chú thích khá đầy đủ về trò chơi được trẻ em ưa thích.
4. Một số đồng dao có nhiều dị bản đều được tuyển vì có nhiều địa phương hát lời đồng dao khác nhau để tiện đối chiếu khi sử dụng. Lời những đồng dao gần giống nhau có thể là dị bản của nhau.
5. Về chú thích: Chỉ chú thích những chỗ khó hiểu của lời đồng dao hoặc ca dao và chú thích những địa danh cần thiết.
6. Theo từng mục A, B, C, D, Đ lời đồng dao được xếp theo vần chữ cái tiếng Việt và đánh số thứ tự từ đầu đến cuối của từng mục để tiện tra cứu.
A. ĐỒNG DAO TRẺ EM HÁT
A - Ă - Â
1. Ăn một quả na
Bằng ba quả quýt
Tôi ngồi nói thiệt
Quả quít thì chua
Bắt vua phải trả
Quả vả thì chát
Tôi tát mặt quan
Quan chạy la làng
Quăng đi quả quít
Quăng đi quả vả
Trả về quả na.
2. Ăn một bát cơm
Nhớ người cày ruộng
Ăn một đĩa muống
Nhớ người đào ao
Ăn một quả đào
Nhớ người vun gốc
Ăn một con ốc
Nhớ người đi mò
Sang đò
Nhớ người chèo chống
Nằm võng
Nhớ người mắc dây
Đứng mát gốc cây
Nhớ người trồng trọt.
B
3. Ba bà đi bán lợn con
Bán đi chẳng được lon xon chạy về.
Ba bà đi bán lợn sề
Bán đi chẳng được chạy về lon xon.
4. Ba bà đi chợ mua bốn quả dưa
Chia đi chia lại đã trưa mất rồi
May sao lại gặp một người
Ba bà ba quả phần tôi quả này.
5. Bà già dung dẻ đi chơi
Trẻ em lọm khọm lo người đấm lưng.
6. Ban đêm oi bức mặt trời
Ban ngày mát mẻ trăng cười trên cao
Ban đêm nắng đỏ hồng hào
Ban ngày nhấp nháy ông sao đầy trời.
7. Bàn tay trắng
Bàn tay đen
Đĩa đậu đen
Đĩa đậu đỏ
Bỏ vô nồi
Nước sôi.
8. Bao giờ cho đến tháng ba
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Quả hồng mòng nuốt bà già tám mươi1
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười
Chân giò, chai rượu nuốt người lao đao.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò
Cỏ năn, cỏ lác rình mò bắt trâu2
Gà con đuổi bắt diều hâu
Chim ri đánh đuổi vỡ đầu bồ nông.
9. Bao giờ cho đến tháng năm
Thổi nồi cơm nếp vừa nằm vừa ăn.
10. Bao giờ cho chuối có cành
Cho sung có nụ, cho hành có hoa
Bao giờ cho khỉ đeo hoa
Cho voi đánh sáp, cho gà nhuộm răng.
11. Bắc kim thang cà lan bí rợ
Cột bên kèo là kèo bên cột
Chú bán dầu qua cầu mà té
Chú bán ếch ở lại làm chi
Con le le đánh trống thổi kèn
Con bìm bịp thổi tò tí le tò le.
12. Bắc thang lên đến cung mây
Hỏi sao chú Cuội phải ấp cây cả đời
Cuội nghe thấy nói, Cuội cười
Bởi hay nói dối phải ngồi ấp cây.
13. Băm bầu, băm bí
Băm chị thằng Ngô
Băm cô thuốc lào
Bán thuốc cho tao
Ba đồng một điếu.
14. Bắt lươn, lươn bò xuống cỏ
Bắt cò, cò bỏ cò bay
Ôi thôi hỏng cả đôi tay
Lươn bò xuống cỏ, cò bay lên trời.
15. Bê là bê vàng
Bê đứng rềnh ràng
Bê đi với mẹ
Bê đừng chạy xuống bể
Bê đừng chạy lên ngàn
Mà cọp mang
Mà sấu nuốt
Đi tìm nơi cỏ tốt
Bê gặm cho ngon
Bê là bê con
Bê là bê vàng...
16. Bí ngô (đỏ) là cô đậu nành
Đậu nành là anh dưa chuột
Dưa chuột là ruột dưa gang
Dưa gang là nàng dưa hấu
Dưa hấu là cậu bí ngô
Bí ngô là cô đậu nành...
17. Bò đen húc lẫn bò vàng
Bò trắng mất vía nhảy quàng xuống ao.
18. Bong bóng thì chùm
Gỗ lim, thì nổi
Đào ao bằng chổi
Quét nhà bằng mai
Hòn đá dẻo dai
Hòn xôi rắn chắc
Gan lợn thì đắng
Bồ hòn thì bùi
Hương hoa thì hôi
Nhất thơm thì cú
Hay sủa thì trâu
Hay cày thì chó.
19. Bồ các là bác chim ri
Chim ri là dì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em tu hú
Tu hú là chú bồ các
Bồ các là bác chim ri...
20. Bố mày đi tát, mẹ mày đi hôi
Ở nhà tao xách cỗ xôi lên trời.
21. Bông chi
Bông bác
Bác chi
Bác hùm
Hùm chi
Hùm beo
Beo chi
Beo lùm
Lùm chi
Lùm tài
Tài chi
Tài thụt.
22. Bồng bồng cõng rồng đi chơi
Gặp khi tối trời
Rồng rơi cái bịch
Các quan lích kích
Cõng rồng lên ngai
Rồng vươn vai
Rồng tái mặt
Quan vuốt mắt
Rồng nằm im
Ba hồi trống chiêng
Hạ rồng xuống lỗ.
23. Buổi mai ngủ dậy
Ra tắm bể Đông
Đạp cây xương rồng
Kéo lên chín khúc
Gặp mệ bán cá úc
Đổ máu đầy cầu
Gặp mệ bán dầu
Dầu trơn lầy lẫy
Gặp mệ bán giấy
Giấy mỏng tanh tanh
Chanh chua như dấm
Gặp mệ bán nấm
Nấm lại một tai
Gặp mệ bán khoai
Khoai loi1 một cổ2
Gặp mệ bán rổ
Rổ sưa rếc rếc3
Gặp mệ bán ếch
Ếch nhảy lom xom
Gặp mệ bán nhom1
Nhom đỏ loi lói
Gặp mệ bán mói2
Mói mặn như tương
Gặp mệ bán đường
Đường đen thui thủi
Gặp mệ bán chui3
Chui nhọn veo vẻo
Gặp mệ bán kéo
Kéo sổ ngạt ra
Gặp mệ bán ca4
Ca kêu chít chít
Gặp mệ bán mít
Mít mủ cả tay
Xay kêu lộn ộn
Gặp mệ côi đôộng5
Mệ ơi là mệ.
24. Buổi mai ngủ dậy
Xuống tắm biển Đông
Gặp một con rồng
Nổi lên chín khúc
Gặp bà bán cá úc
Máu chảy đầy cầu
Gặp bà bán dầu
Dầu thơm hoa lý
Gặp bà bán bí
Bí chẻ hai cheng
Cheng chua như dấm
Gặp bà bán nấm
Nấm mất một tai
Gặp bà bán khoai
Khoai mất một cổ (củ)
Gặp bà bán rổ
Rổ sưa rế rế
Gặp bà bán ếch
Ếch nhảy lom xom
Gặp bà bán nhom1
Nhom đỏ loi lói
Gặp bà bán mói (muối)
Mói mặn như tương
Gặp bà bán hương
Hương thơm phưng phức2
25. Buổi mai ăn cơm cho no
Đi ra chợ Gio3
Mua chín cái tréc1
Đắp chín cái lò
Cái nấu canh ngò
Cái kho củ cải
Cái nấu chuối xanh
Cái nấu cá kình
Cái rim thịt vịt
Cái hầm thịt gà
Cái nấu om cà
Cái kho đu đủ
Cái nấu củ khoai tây
Nghe tin anh học trường này
Bồn chồn trong dạ bỏ chín cái tréc này không coi2
26. Buổi mai ngủ dậy
Ăn một bụng cơm no
Chạy ra chợ nọ
Mua chín cái trách
Đặt quách lên lò
Một cái kho ngò
Hai cái kho cải
Ba cái kho nải chuối xanh
Bốn cái nấu canh rau má
Năm cái kho cá chim chim
Sáu cái kho rim thịt vịt
Bảy cái làm thịt con gà
Tám cái kho cà đu đủ
Chín cái kho củ môn tây.
27. Buổi sáng ngủ dậy
Ăn một bụng cơm cho no
Chạy ra ngoài gò
Bắt một con công
Đem lên biếu ông
Ông cho trái thị
Đem ra biếu chị
Chị cho bánh khô
Đem vào biếu cô
Cô cho bánh ú
Đem ra biếu chú
Chú cho buồng cau
Nay chừ chú thím giận nhau
Đem trả buồng cau cho chú
Trả bánh ú cho cô
Trả bánh khô cho chị
Trả trái thị cho ông
Bắt con công đem về nhà1.
28. Bước sang tháng sáu giá chân
Tháng một nằm trần bức đổ mồ hôi
Con chuột kéo cày lồi lồi
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong
Vườn rộng thì thả rau rong
Ao sâu vãi cải lấy ngồng làm dưa
Đàn bò đi tắm đến trưa
Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương
Voi kia nằm ở gầm giường
Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn
Chuồn kia thấy cám liếm ăn
Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua
Trời mưa cho mối bắt gà
Đòng đong cấn cấn đuổi cò lao xao
Lươn nằm cho trúm bò vào
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô
Thóc giống cắn chuột trong bồ
Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm
Bong bóng thì chìm1
Gỗ lim thì nổi
Đào ao bằng chổi
Quét nhà bằng mai
Hòn đá dẻo dai
Hòn xôi rắn chắc
Gan lợn thì đắng
Bồ hòn thì bùi
Hương hoa thì hôi
Nhất thơm thì cú
Đàn ông to vú
Đàn bà rậm râu
Hay cắn là trâu
Hay cày là chó.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |