Bài 1 MỘt số VẤN ĐỀ CƠ BẢn về ĐẢng cộng sản việt nam



tải về 129.77 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích129.77 Kb.
#29079


Bài 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI NĂM 1930 MỞ RA BƯỚC NGOẶT LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam

Bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên bần cùng. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.

Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, đã mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Đối với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng Tháng Mười Nga nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.

Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.



Bối cảnh trong nước

* Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.



Về chính trị: thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.

Về kinh tế: thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.

Về văn hoá: thực dân Pháp thực hiện chính sách giáo dục thực dân và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.

* Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam.

* Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

2. Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 05/06/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các thuộc địa.

- Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.

- Tháng 06/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây.

- Tháng 07/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.

- Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin.

- Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại bán đảo Cửu Long, Hương Cảng, Quảng Châu, Trung Quốc từ ngày 03/02 đến ngày 07/02/1930. Hội nghị đã quyết định hợp nhất 3 tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Đó chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 03/2 làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng.

3. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.

Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập  hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 80 năm qua.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.



II. NHỮNG THẮNG LỢI VĨ ĐẠI CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG SUỐT 80 NĂM QUA VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM.

1. Những thành tựu vĩ đại

80 năm xây dựng và trưởng thành, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vượt qua muôn ngàn khó khăn, thử thách, làm nên những thành tựu vĩ đại, đó là:



Thứ nhất: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã xoá bỏ chế độ thực dân, nửa phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng Tháng Tám dẫn đến sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) - Nhà nước công nông đầu tiên ở Châu Á. Đó là sự kiện quan trọng bậc nhất trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh.



Thứ hai: Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

 - Từ năm 1954 đến năm 1975, Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.



Thứ ba: Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.

Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ này bao gồm hai giai đoạn chủ yếu:



- Từ 1975 đến 1986:

+ Sau chiến tranh, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn. Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

- Đảng đã tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, trước yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm. Trong việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

 - Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết sáng kiến từ thực tiễn của nhân dân, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, thể hiện qua các mốc sau: Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khoá IV (tháng 08/1979); Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm trong nông nghiệp; Quyết định 25/CP ngày 21/01/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khoá V (tháng 06/1985) thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng 09/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới. Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.



- Từ 1986 đến nay:

+ Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng 06/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

+ Từ đó đến nay, Đảng ta tiếp tục phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới được bổ sung và phát triển ngày càng hoàn thiện.

+ Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua hơn hai mươi năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1996); vượt qua khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực (1997-1998); khắc phục có hiệu quả ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay; thực hiện các Kết luận của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, bước đầu thực hiện được mục tiêu: kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Với những thắng lợi đó, Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.

2. Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam

Một là: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hai là: Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Ba là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước cách mạng thật sự của dân, do dân, vì dân.

Bốn là: Nêu cao chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.

Năm là: Chú trọng xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

III. CÁC KỲ ĐẠI HỘI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã trải qua 10 kỳ Đại hội. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ ngày 03 đến ngày 07/02/1930 tại Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc) mang tầm vóc lịch sử của Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thoog qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, vạch ra đường lối giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam. Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng là đồng chí Trần Phú (10/1930).

1. Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng (từ ngày 27 đến 31/03/1935)

Đại hội diễn ra tại Ma Cao (Trung Quốc), có 13 đại biểu thay mặt cho 600 đảng viên. Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ chủ yếu trước mắt: củng cố và phát triển Đảng; tranh thủ quần chúng rộng rãi; chống chiến tranh đế quốc. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung Ương gồm 13 đồng chí do đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư. Tháng 06/1936, đồng chí Hà Huy Tập được cử làm Tổng Bí thư. Tháng 03/1938, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được cử làm Tổng Bí thư và Tháng 05/1941 đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất đã đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ đấu tranh khôi phục phong trào đưa cách mạng lên một cao trào mới.



2. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (từ ngày 11 đến 19/02/1951).

Đại hội diễn ra tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, có 156 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho 766.349 đảng viên. Đại hội đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng lao động Việt Nam. Đại hội xác định “nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho Chủ nghĩa xã hội. song nhiệm vụ trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc và cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.”

Đại hội thông qua bản Chính Cương Đảng lao động Việt Nam và Điều lệ mới của Đảng. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung Ương gồm 29 đồng chí do Bác Hồ là Chủ tịch Đảng. Bộ chính trị gồm 8 đồng chí ( trong đó có 1 dự khuyết), đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư và bầu ra Ban Bí thư Trung Ương Đảng.

3. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (từ ngày 05 đến 10/09/1960).

Đại hội diễn ra tại thủ đô Hà Nội, có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt cho 500.000 đảng viên trong cả nước. Đây là “Đại hội xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở Miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”. Đại hội đã xác định đường lối chiến lược cách mạng cho giai đoạn đó là:

- Cách mạng xã hội Chủ nghĩa ở Miền Bắc, xây dựng Miền Bắc thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng cả nước.

- Cách mạng dân tộc dân chủ Miền Nam nhằm giải phóng Miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung Ương gồm 43 Ủy viên chính thức và 28 Ủy viên dự khuyết. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung Ương Đảng. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất.

4. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (từ ngày 14 đến 20/12/1976).

Đại hội diễn ra tại thủ đô Hà Nội, có 1008 đại biểu thay mặt cho 1.500.000 đảng viên trong cả nước. Đại hội đã tổng kết kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Định ra đường lối, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới: “cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội”.Tại Đại hội, Đảng quyết định đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung Ương gồm 101 Ủy viên chính thức và 32 Ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư. Đến dự đại hội có 29 đoàn đại biểu đại diện cho các đảng anh em trên thế giới và các tổ chức quốc tế.



5. Ñaïi hoäi Ñaïi bieåu toaøn quoác laàn thöù V cuûa Ñaûng (töø ngaøy 27 ñeán 31/3/1982).

Đại hội diễn ra tại thủ đô Hà Nội, có 1003 đại biểu thay mặt cho 1.700.000 đảng viên trong cả nước. Đại hội đề ra hai nhiệm vụ chiến lược:

+ Xaây döïng Chuû nghóa xaõ hoäi

+ Baûo veä Toå quoác Vieät Nam Xaõ hoäi Chuû nghóa.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung Ương gồm 116 Ủy viên chính thức và 36 Ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư và tháng 7/1986 đồng chí Lê Duẩn qua đời, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư. Đến dự đại hội có 40 đoàn đại biểu đại diện cho các đảng anh em trên thế giới.

6. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (từ ngày 15 đến 18/12/1986).

Đại hội diễn ra tại thủ đô Hà Nội, có 1129 đại biểu thay mặt cho 1.800.000 đảng viên trong cả nước.

Đại hội vạch ra phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế- xã hội trong 5 năm 1986-1990, đề ra 3 chương trình kinh tế lớn:

+ Lương thực, thực phẩm.

+ Hàng tiêu dùng.

+ Hàng xuất khẩu.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung Ương gồm 124 Ủy viên chính thức và 49 Ủy viên dự khuyết. Bầu Bộ chính trị gồm 13 Ủy viên chính thức và 1 dự khuyết, Ban Bí thư gồm 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được cử làm cố vấn của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng. Đến dự đại hội có 37 đoàn đại biểu đại diện cho các đảng anh em trên thế giới.

7. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (từ ngày 24 đến 27/06/1991)

Đại hội diễn ra tại thủ đô Hà Nội, có 1176 đại biểu thay mặt cho 2155.002 đảng viên trong cả nước. Là Đại hội của trí tuệ - đổi mới, dân chủ, kỷ cương - đoàn kết và là kết tinh của những truyền thống của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đại hội đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Nội dung cơ bản: “ ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đến năm 2000”. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung Ương gồm 146 Ủy viên. Bầu Bộ chính trị gồm 13 đồng chí. Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công được cử làm cố vấn của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng.

8. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (từ ngày 28/06 đến 01/07/1996).

Đại hội diễn ra tại thủ đô Hà Nội, 1196 đại biểu thay mặt cho 100% Đảng bộ trực thuộc Trung Ương. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung Ương khóa VIII gồm 170 đồng chí. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung Ương Đảng. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công được cử làm cố vấn của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng. Bộ chính trị gồm 19 đồng chí. Đại hội đã tổng kết 10 năm thực hiện đổi mới kinh tế - xã hội và xác định: “giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội trong quá trình đổi mới, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, kiên trì Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tháng 01/1998, Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Khóa VIII đã bầu đồng chí Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư. Các đồng chí Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt được cử làm cố vấn của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng.



9. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (từ ngày 19 đến 22/04/2001).

Đại hội họp tại Hà Nội, với sự tham gia của 1.168 đại biểu đại diện cho 2.479.719 đảng viên trong toàn Đảng. Đại hội IX đã hoạch định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 với mục tiêu tổng quát là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX gồm 150 uỷ viên. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí, Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.



10. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam (từ ngày 18 đến 25/04/2006).

Đại hội họp tại Hà Nội, dự Đại hội có 1.176 đại biểu thay mặt cho hơn 3,1 triệu đảng viên trong toàn Đảng (Trong đó có 144 đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, 1.023 đại biểu được bầu cử từ đại hội các Đảng bộ trực thuộc Trung ương và 9 đại biểu của Đảng bộ ngoài nước).

Chủ đề Đại hội là: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển". Đây là Đại hội của trí tuệ, đổi mới, đoàn kết và phát triển bền vững.

Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 160 Uỷ viên chính thức và 21 Uỷ viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí, Ban Bí thư Trung ương Đảng gồm 8 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu lại làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí Nguyễn Văn Chi, Uỷ viên Bộ Chính trị được bầu làm Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng X.



11. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam (từ ngày 12 đến 19/01/2011).

Đại hội họp tại Hà Nội, dự Đại hội có 1.377 đại biểu thay mặt cho hơn 3,6 triệu đảng viên trong toàn. Chủ đề Đại hội là: " Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Đại hội đã thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH bổ sung phát triển năm 2011" và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, giai đoạn 2011 – 2020.

Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 175 Uỷ viên chính thức và 25 Uỷ viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí, Ban Bí thư Trung ương Đảng gồm 4 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí Ngô Văn Dụ, Uỷ viên Bộ Chính trị được bầu làm Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng XI.
Bài 2




MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐOÀN

THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
I. TRUYỀN THỐNG CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH

1. Hoàn cảnh ra đời của Đoàn thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh và người đoàn viên tiêu biểu thuộc lớp đầu tiên

a. Hoàn cảnh ra đời của Đoàn thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh

Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Tháng 10/1930, Hội nghị BCH Trung Ương Đảng lần thứ I đề ra “Án nghị quyết về công tác thanh niên vận động”. Văn kiện này đã đặt nền móng vững chắc về lý luận và tư tưởng đối với công tác vận động thanh niên ở Đông Dương theo phạm trù cách mạng vô sản.

Mùa xuân năm 1931, từ ngày 20 đến ngày 26/3, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2, Trung ương Đảng đã giành một phần quan trọng trong chương trình làm việc để bàn về công tác thanh niên và đi đến những quyết định có ý nghĩa đặc biệt.

Theo đề nghị của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Viêt Nam, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III họp từ ngày 22 đến ngày 25/03/1961 đã quyết định lấy ngày 26/03/1931 (một ngày trong thời gian cuối của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2 dành để bàn bạc và quyết định những vấn đề rất quan trọng đối với công tác vận động thanh niên) làm ngày kỷ niệm Đoàn hàng năm.



b. Người đoàn viên tiêu biểu thuộc lớp đầu tiên

Ngay sau khi ra đời, Đoàn thanh niên cộng sản Đông dương đã phát triển được nhiều đoàn viên trong cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô - Viết Nghệ Tĩnh. Từ phong trào cách mạng giai đoạn này đã xuất hiện nhiều tấm gương thanh niên đấu tranh oanh liệt, tiêu biểu là người đoàn viên thanh niên cộng sản thuộc lớp đầu tiên – đồng chí Lý Tự Trọng.

Lý Tự Trọng tên thật là Lê Hữu Trọng sinh ngày 20/1/1914 tại bản Mạy, tỉnh Nakhonphanom (thuộc vùng Đông Bắc, Thái Lan). Anh là con trai của cụ Lê Khoan (tức Lê Hữu Đạt), quê ở làng Việt Xuyên, huyện Thạch Hà, Tỉnh Hà Tĩnh và cụ Nguyễn Thị Sờm, quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Do không chịu nổi ách áp bức bức bóc lột của bọn thực dân phong kiến, cụ Khoan đã cùng một số bà con rời quê sang Thái Lan sinh sống và tham gia hoạt động cách mạng.

Ngay từ nhỏ, Lý Tự Trọng đã tỏ ra là người sớm hiểu biết, có khả năng học tốt nhiều ngoại ngữ như tiếng Thái, Việt, Anh, Pháp, Nga; được nuôi dưỡng trong môi trường cách mạng nên Lý Tự Trọng sớm hiểu được nỗi khổ cực của nhân dân ta dưới chế độ cai trị của thực dân phong kiến.

Cuối năm 1926, Lý Tự Trọng được tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội chọn sang Quảng Châu, Trung Quốc học tập và được Bác Hồ đưa vào nhóm “Thiếu niên tiền phong Việt Nam”, một hình thức tổ chức thanh thiếu niên cộng sản đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Lê Hữu Trọng được Bác Hồ đổi tên là Lý Tự Trọng (cùng họ với Lý Thụy – tên gọi bí mật của đồng chí Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ). Lý Tự Trọng và các thành viên trong nhóm “Thiếu niên tiền phong Việt Nam” được bồi dưỡng về kiến thức nói chung và đặc biệt là nhiệm vụ cách mạng Việt Nam. Sau đó Lý Tự Trọng được Bác Hồ giới thiệu vào học tại một trường Trung học của Chính phủ Tôn Trung Sơn ở Quảng Châu. Qua một thời gian ngắn, Lý Tự Trọng đã thông thạo tiếng Trung và được cử làm liên lạc cho Tổng bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở Quảng Châu.

Đến giữa năm 1929, tình hình cách mạng đã có chuyển biến mới. Các tổ chức cộng sản ở Việt Nam lần lượt ra đời. Lý Tự Trọng được cử về nước hoạt động tại Sài Gòn – Chợ Lớn, đảm nhận nhiệm vụ liên lạc trong và ngoài nước cho Xứ ủy Nam Kỳ; đồng thời anh được giao một nhiệm vụ đặc biệt, vận động, tập hợp thanh niên trong các nhà máy, trường học để thành lập Đoàn thanh niên cộng sản. Mặc dầu công việc hết sức nguy hiểm, bọn mật thám suốt ngày lùng sục, nhưng nhờ tài trí thông minh, Lý Tự Trọng đã vượt qua tất cả và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Nhân dịp kỉ niệm một năm ngày khởi nghĩa Yên Bái, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định tổ chức một đợt tuyên truyền tố cáo tội ác của thực dân Pháp và kêu gọi quần chúng nhân dân đấu tranh. Ngày 8/2/1931, lợi dụng lúc bà con đi xem bóng đá ở sân vận động Sài Gòn tập trung rất đông, các chiến sỹ cách mạng đã tổ chức một cuộc mít tinh chớp nhoáng. Cờ đỏ búa liềm dương cao. Một đồng chí đứng lên diễn thuyết kêu gọi quần chúng đánh đổ thực dân Pháp. Giữa lúc ấy, tên mật thám Pháp Lơ-gơ-răng và bọn cảnh sát đi cùng đã ập tới. Không chút chần chừ, Lý Tự Trọng đã rút súng bắn chết tên mật thám cứu thoát đồng chí diễn thuyết. Bị vây hãm ráo riết, Lý Tự Trọng đã bị bắt. Thực dân Pháp đưa anh về giam giữ ở bốt Ca - ti – na và tra tấn vô cùng dã man, nhưng anh vẫn không khai báo nửa lời.

Tất cả bọn hung ác ở Sài Gòn đều dở hết tài tra tấn và dụ dỗ. Cả bọn chủ bốt Bô-lô ở Chợ Lớn có tiếng là khát máu cũng được đưa đến tra tấn Lý Tự Trọng. Chúng trói tay anh rút lên xà nhà, cho anh đi “tàu bay”. Dã man nhất, có lần chúng chụp mũ sắt lên đầu anh, thứ mũ sắt có bắt đinh ốc đặc biệt, cứ xoáy đinh ốc là mũ kẹp chặt lấy thái dương, chúng kẹp đến nỗi mắt anh từ từ lồi ra mà anh vẫn thản nhiên chịu đựng.

Ngày 17/4/1931, sau một thời gian dài giam cầm, tra tấn nhưng không thu được kết qua, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương đã mở phiên tòa đại hình để xử một chiến sỹ cộng sản Việt Nam chưa đầy 18 tuổi. Lý Tự Trọng đã bị kết án tử hình. Đứng trước cái chết, Lý Tự Trọng không hề run sợ, anh đã chủ động biến phiên tòa của đế quốc thành một diễn đàn của người chiến sỹ cộng sản. Khi vị luật sư Căngxenlơri bào chữa cho anh nói rằng: “Xin quan tòa hãy mở rộng lượng khoan hồng, bị cáo chưa đến tuổi thành niên nên hành động còn thiếu suy nghĩ và bị cộng sản xúi giục,...” thì ngay lập tức Lý Tự Trọng đã bác bỏ những lời biện hộ của vị luật sư, anh thẳng thắn trả lời: “Mặc dù tôi chưa đến tuổi thành niên, nhưng tôi đủ trí khôn để hiểu việc tôi làm. Tôi làm với mục đích cách mạng. Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng chứ không thể là con đường nào khác…”.

Rạng sáng ngày 21/11/ 1931 kẻ thù hèn hạ đưa anh lên máy chém. Trước lúc hi sinh anh vẫn hát vang bài Quốc tế ca. Năm ấy anh mới tròn 17 tuổi



2. Những chặng đường phát triển vẻ vang của Đoàn

2.1. Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương 1931 - 1936

2.2. Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông dương 1936 -1939

2.3. Đoàn Thanh niên phản đế Đông dương 1939 - 1941

2.4. Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam 1941 -1956

2.5. Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam 1956 - 1970

2.6. Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh 1970- 1976

2.7. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh từ 1976 đến nay

3. Những truyền thống vẻ vang của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:

Trải qua 79 năm rèn luyện, phấn đấu và nhanh chóng trưởng thành, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã hun đúc nên những truyền thống cơ bản:



  • Truyền thống yêu nước nồng nàn, trung thành tuyệt đối với sự nghiệp của Đảng, gắn bó sống còn với lợi ích dân tộc, nhân dân và chế độ XHCN.

  • Truyền thống xung kích cách mạng, xung phong tình nguyện, không ngại hy sinh gian khổ, sẵn sàng đảm nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.

  • Truyền thống đoàn kết, tinh thần tương thân tương ái và nhân đạo cao cả.

  • Truyền thống hiếu học, ham hiểu biết, có ý chí vượt khó, cần cù, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, có hoài bão lớn.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH

1. Mục đích, lý tưởng của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh

Theo Ñieàu leä Ñoaøn: “Đoaøn bao gm nhng thanh nieân tieân tieán, phaán ñaáu vì mc tieâu, lyù tưởng ca Đảng laø ñoäc laäp daân toäc gaén lieàn vôùi CNXH, daân giaøu, nöôùc maïnh, xaõ hoäi coâng baèng, daân chuû, vaên minh”.

Có thể nói, ñoäc laäp daân toäc là khát vọng ngàn đời của dân tộc ta trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước; “ñoäc laäp daân toäc gaén lieàn vôùi Chủ nghĩa xã hội, daân giaøu, nöôùc maïnh, xaõ hoäi coâng baèng, daân chuû, vaên minh” là sự lựa chọn của cả dân tộc Việt Nam và của Bác Hồ kính yêu. Đó là con đường duy nhất đúng đắn để xoá bỏ triệt để tình trạng người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới không còn áp bức, bóc lột bất công.

2. Tính chất của tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

Điều lệ Đoàn khẳng định: “Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị – xã hội của thanh niên Việt Nam, do Đảng Cộng Sản Việt Nam và Chủ Tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện”. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh có 2 tính chất: tính tiên tiến và tính quần chúng.

Hai tính chất trên luôn luôn gắn bó mật thiết với nhau và hỗ trợ cho nhau. Tính tiên tiến đóng vai trò chủ đạo, là nền tảng, định hướng cho tính quần chúng, tính quần chúng làm cho tính tiên tiến sâu sắc hơn.

3. Vị trí, vai trò của Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh trong xã hội

a. Vị trí của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:

Theo Điều lệ Đoàn: “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị Việt Nam, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”.



b. Vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh có vai trò rất to lớn trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và trong mọi hoạt động của đời sống xã hội. Vai trò của Đoàn không phải do Đoàn tự phong mà chính lịch sử nước ta đã chứng minh điều đó.

4. Chức năng của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

- Đoàn là đội dự bị tin cậy của Đảng;

- Đoàn là lực lượng xung kích cách mạng;

- Đoàn là trường học Xã hội chủ nghĩa của thanh niên Việt Nam;

- Đoàn là người đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của tuổi trẻ;

- Đoàn là người phụ trách Đội TNTP Hồ Chí Minh;

- Đoàn là lực lượng nòng cốt chính trị trong phong trào thanh niên và trong các tổ chức thanh niên Việt Nam;

5. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

Điều lệ Đoàn qui định: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.

6. Nhiệm vụ và quyền của đoàn viên

a. Nhiệm vụ của đoàn viên:

- Luôn luôn phấn đấu vì lý tưởng của Đảng và Bác Hồ. Tích cực học tập, lao động, rèn luyện, tham gia các hoạt động xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

- Gương mẫu chấp hành và vận động thanh thiếu nhi thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Tham gia xây dựng bảo vệ Đảng và chính quyền. Chấp hành Điều lệ Đoàn và các nghị quyết của Đoàn; tích cực tuyên truyền về tổ chức Đoàn trong thanh niên, sinh hoạt Đoàn và đóng đoàn phí đúng quy định.

- Liên hệ mật thiết với thanh niên, tích cực xây dựng Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh Viên Việt Nam và Đội Thiếu niên Tiền Phong Hồ Chí Minh, giúp đỡ thanh niên và đội viên trở thành đoàn viên.



b. Quyền của Đoàn viên:

- Yêu cầu tổ chức Đoàn đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình được giúp đỡ và tạo điều kiện để phấn đấu trưởng thành.

- Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đoàn.

- Được thông tin, thảo luận, chất vấn, phê bình, biểu quyết, đề nghị và bảo lưu ý kiến của mình về công việc của Đoàn.



7. Điều kiện và thủ tục vào Đoàn

a. Điều kiện xét kết nạp đoàn viên:

- Thanh niên Việt Nam tuổi từ 16 đến 30

- Tích cực học tập, lao động và bảo vệ Tổ quốc

- Được tìm hiểu về Đoàn và tán thành Điều lệ Đoàn.

- Tự nguyện hoạt động trong một tổ chức cơ sở của Đoàn, có lý lịch rõ ràng đều được xét kết nạp vào Đoàn.

b. Thủ tục kết nạp đoàn viên:

 - Thanh niên vào Đoàn tự nguyện viết đơn, báo cáo lý lịch và được một đoàn viên cùng công tác, sinh hoạt ít nhất ba tháng giới thiệu và bảo đảm. Nếu là đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh thì do tập thể chi đội giới thiệu. Nếu là hội viên Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam thì do tập thể chi hội giới thiệu.

- Được hội nghị chi đoàn xét đồng ý kết nạp với sự biểu quyết tán thành của trên một phần hai tổng số đoàn viên có mặt tại hội nghị và được Đoàn cấp trên trực tiếp ra quyết định chuẩn y. Trường hợp xét kết nạp nhiều người thì phải xét và quyết định chuẩn y kết nạp từng người một.

- Ở nơi chưa có tổ chức Đoàn và đoàn viên, hoặc chưa có tổ chức Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam thì Đoàn cấp trên cử cán bộ, đoàn viên về làm công tác phát triển đoàn viên, hoặc do một đảng viên cùng công tác, sinh hoạt ít nhất ba tháng ở nơi đó giới thiệu và bảo đảm; Ban Chấp hành Đoàn cấp trên trực tiếp xét quyết định kết nạp.



Bài 3




PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH ĐOÀN VIÊN

THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
I. THANH NIÊN VÀ LÝ TƯỞNG

1. Thanh niên

2. Lý tưởng

3. Xây dựng hình mẫu thanh niên thời đại mới

Xây dựng hình mẫu thanh niên thời đại mới bao gồm một số nội dung cơ bản sau:



- Thứ nhất, xây dựng lớp thanh niên giàu lòng yêu nước

- Thứ hai, xây dựng lớp thanh niên có lối sống đẹp, có lý tưởng cách mạng

- Thứ ba, xây dựng lớp thanh niên có bản lĩnh văn hóa con nguời Việt Nam.

Nói tóm lại, xây dựng hình mẫu thanh niên thời đại mới của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là nội dung rất quan trọng trong thời gian tới, hướng tới hình thành một lớp thanh niên có lý tưởng cách mạng, nếp sống văn hóa, phù hợp với truyền thống dân tộc, xứng đáng là lớp người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên” như Đảng ta và Bác Hồ hằng mong muốn.



II. PHẤN ĐẤU TRỞ THÀNH ĐOÀN VIÊN TNCS HỒ CHÍ MINH

1. Cần xác định động cơ, thái độ trước khi vào Đoàn

2. Phấn đấu trở thành đoàn viên TNCS

Trước khi đứng vào hàng ngũ của Đoàn, mỗi thanh niên cần phát huy vai trò thanh niên là rường cột của nước nhà, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, chống lại “âm mưu diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, luôn trung thành với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Mỗi thanh niên cần phát huy lòng tự hào dân tộc, gắn bó sống còn với lợi ích của dân tộc, luôn sống và làm việc theo pháp luật, thực hiện đầy đủ quyền công dân, đi đầu trong chiến đấu, lao động, học tập, hăng hái tham gia các họat động xã hội, của đơn vị, địa phương.

Cần phấn đấu rèn luyện trở thành người lao động mới, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước, năng động, sáng tạo trong lập thân, lập nghiệp, biết làm giàu chính đáng cho bản thân, gia đình, xã hội bằng sức lực, trí tuệ, tài năng của mình.

Không ngừng phấn đấu học tập, nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, chuyên môn, nghiệp vụ. Nhanh chóng tiếp cận và làm chủ khoa học, công nghệ mới, đưa nước ta sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển.

Luôn biết trân trọng các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thấm nhuần đạo lý cách mạng, biết tiếp thu có chọn lọc các giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu tri thức của bản thân, có lối sống trong sạch, lành mạnh

Thường xuyên tham gia các hoạt động do Đoàn, Hội tổ chức, phấn đấu trở thành người công dân tốt, người thanh niên tốt. Từ đó khẳng định được chính mình trước tập thể, để nhanh chóng trở thành đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.





tải về 129.77 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương