Đây là bản chép lại lời giảng của giáo sư Stephen Stearns trên lớp. Bạn có thể xem toàn bộ bài giảng này bằng cách đến



tải về 135.34 Kb.
trang2/3
Chuyển đổi dữ liệu08.09.2016
Kích135.34 Kb.
#31942
1   2   3

And Wallace knew that Darwin had been thinking about these things, and he sent Darwin a letter. And at that point Darwin, British gentleman as he was, had to decide whether he would do the sort of gracious, honorable thing and let Wallace have the idea, or do the honest thing, which, his colleagues knew, was that he had already had the idea. And what they decide upon is that they will do a joint publication.

Và Wallace biết rằng Darwin đã suy nghĩ về những điều này, và ông đã gửi một bức thư đến Darwin. Và vào lúc đó Darwin, quý ông người Anh như ông, đã phải quyết định xem ông sẽ làm những việc danh giá, nhã nhặn và công nhận ý tưởng của Wallace , hay là làm một việc trung thực, điều mà, các đồng nghiệp của ông đã biết, là ông đã có ý tuởng đó rồi. Và những gì họ quyết định là họ sẽ làm một công bố chung.

So if you go to the Biological Journal of the Linnaean Society for 1858, which is in the Yale Library, you can look up the back to back papers by Alfred Russel Wallace and Charles Darwin in which the idea of Natural Selection is laid out. And then Darwin rushes his book into print. So he has been working on a book that was probably going to be about 1200 pages long, and instead he publishes an abstract of it, which he calls "The Origin of Species", which is about 350 pages long. And it sells out on the first day, sold all 6000 copies on the first day, and has remained in print ever since.

Vì vậy nếu bạn đi đến the Biological Journal of the Linnaean Society (Tạp chí sinh học của Hội khoa học Linnaean) vào năm 1858, nó ở tại Thư viện Đại học Yale, bạn có tra cứu lại những bài trang báo của Alfred Russel Wallace và Charles Darwin trong đó ý tưởng chọn lọc tự nhiên được đưa ra. Và sau đó Darwin đã vội vã đem sách của ông ấy đi in. Vì vậy, ông đã làm việc trên cuốn sách có lẽ dài khoảng 1200 trang, và thay vào đó ông đã xuất bản một bảng tóm tắt của nó, mà ông gọi là "The Origin of Species" (Nguồn gốc của các loài), nó dài khoảng 350 trang. Và trong ngày đầu tiên xuất hiện trên thị trường, có tất cả 6.000 bản đã được bán, và vẫn tiếp tục được in suốt từ đó.

That's The Beagle. Darwin slept in a hammock in the captain's cabin, at the back of the ship, which rocked horribly. And that's essentially all I want to do about the development of the idea of Evolution. Basically what I did was I wanted to give you the feeling that there was somebody like you who went out and knew what a deep problem was, and happened to have the luck to get into a special situation where they were stimulated, and came up with an idea that changed the world. No reason it can't happen again.

Đó là The Beagle. Darwin đã ngủ trong cái võng ở cabin của thuyền trưởng, ở phía sau chiếc tàu, ở nơi rung lắc một cách khủng khiếp. Và về cơ bản đó là tất cả những điều tôi muốn nói về sự phát triển của ý tưởng tiến hóa. Về cơ bản những gì tôi đã làm là cho bạn một cảm giác rằng có ai đó đã đi ra ngoài và đã biết vấn đề sâu sắc cỡ nào, và ngẫu nhiên có may mắn để gặp được một tình huống đặc biệt ở đó họ bị kích thích, và đến được một ý tưởng làm thay đổi thế giới. Không có lý gì nó không xảy ra lần nữa.

So now I'm going to give you a brief overview of microevolution and macroevolution. Here's Natural Selection; here's Darwin's idea. If, in a population, there is variation in reproductive success--what does that mean? Would everybody in the room raise their hand if they're an only child? Look around. There are about five or six. How many of you come from families with two children? Lots. How many with three? Quite a few. How many with four? Quite a few, but not as many as there with only children. Anybody with five? Yes, a couple. Anybody with six? No. If we were, by the way, in the nineteenth century, at this point there would still be lots of hands going up.

Vì vậy, bây giờ tôi sẽ cung cấp cho bạn một tổng quan về tiến hóa vi mô và vĩ mô. Đây là chọn lọc tự nhiên; đây là ý tưởng của Darwin. Nếu, trong dân số, có sự biến động trong việc duy trì nòi giống – điều đó có nghĩa là gì? Bạn nào là con một trong gia đình hãy giơ tay lên xem nào? Nhìn xung quanh kìa. Có khoảng năm hoặc sáu. Bao nhiêu người trong số các bạn đến từ những gia đình có hai con? Rất nhiều. Bao nhiêu với ba? Một vài. Bao nhiêu với bốn? Vài người, nhưng không nhiều như ở đó với gia đình có một con. Có ai với năm? Có, hai người. Có ai với sáu không? Không. Tiện đây, nếu chúng ta đang ở thế kỉ 19, vào lúc này sẽ vẫn còn có nhiều cánh tay giơ lên.

What you've just seen is the amount of variation in reproductive success represented by the families in this room. Variation in reproductive success basically means that different families have different numbers of offspring, or different individuals have different numbers of offspring. Then there has to be some variation in a trait.

Những gì bạn vừa thấy là lượng biến động trong sự duy trì nòi giống được thể hiện qua số gia đình trong phòng này. Sự biến động trong sự duy trì nòi giống về cơ bản có nghĩa là các gia đình khác nhau có số con khác nhau, hoặc các cá nhân khác nhau có số con khác nhau. Vì vậy phải có một sự biến động trong tính trạng.

How many of you are under 5'5? Raise your hands. How many between 5'5 and 6 feet? How many over 6 feet? Lots of variation in height in this room. So we got lots of variation in reproductive success; lots of variation in height. There has to be a non-zero correlation between reproductive success and the trait. On this particular trait there's been some research. Turns out that taller men have more children. I don't know whether that's just an NBA effect or what that is but it turns out to be true in many societies.

Có bao nhiêu người trong số các bạn cao dưới 5'5? Giơ tay lên nào. Bao nhiêu người có chiều cao nằm trong khoảng 5'5 và 6 phút? Có bao nhiêu người cao hơn 6 phút? Có nhiều biến động về chiều cao trong phòng này. Vì vậy, chúng ta có nhiều sự biến động về sự duy trì nòi giống; nhiều sự biến động về chiều cao. Phải có sự tương quan khác không giữa sự duy trì nòi giống và tính trạng. Về những tính trạng cụ thể này cũng đã từng có một số nghiên cứu. Hóa ra là người càng cao hơn thì càng có nhiều con hơn. Tôi không biết đó là hiệu ứng NBA hay gì nhưng hóa ra điều này đúng trong nhiều xã hội.

So there is a non-zero correlation between the reproductive success and the trait. Then there has to be heritability for the trait. The heritability of height in humans is about 80%. So all of the conditions for natural selection on height are present in this room. All you have to do is go out and have kids and it will happen.

Vì vậy, có một sự tương quan khác không giữa sự duy trì nòi giống và tính trạng. Vì vậy đó phải là sự kế thừa các tính trạng. Sự kế thừa chiều cao ở con người khoảng 80%. Vì vậy, tất cả các điều kiện để chọn lọc tự nhiên về chiều cao đang hiện diện trong phòng này. Tất cả những gì bạn phải làm là sau này về nhà và lấy chồng và điều này sẽ xảy ra.

So if you're ever in doubt about whether evolution is operating in a population, go back to these basic conditions. You can always decide whether it's likely to be operating or not. We can turn natural selection off by violating any of these four points. If there's no variation in reproductive success--for example, if there is lifetime monogamy and a one-child policy, there will be zero-variation in reproductive success if everybody just has one child; of course some people will still have zero, but that's about as close as you can get.

Vì vậy, nếu bạn đã từng nghi ngờ về sự tiến hóa có hoạt động trong một cộng đồng dân số hay không, hãy quay lại những điều kiện cơ bản này. Bạn luôn luôn có thể quyết định xem nó có khả năng xảy ra hay không. Chúng ta có thể vô hiệu hóa chọn lọc tự nhiên bằng cách vi phạm bất cứ cái nào trong bốn điểm này. Nếu không có biến động trong sự duy trì nòi giống – chẳng hạn, nếu có chế độ một vợ một chồng suốt đời và một chính sách sinh đẻ, sẽ không có sự biến động trong sự duy trì nòi giống nếu mọi người chỉ có một con; tất nhiên cũng có một số người không thể có con, nhưng đó là vấn đề bạn có thể điều khiển được.

If there's no variation in the trait--if the trait is like five fingers; there are very few people with six fingers; there are some, but very few. If there's a non-zero correlation between reproductive success and the trait; if there is a zero correlation between reproductive success and the trait. We'll go into all the conditions for that. That results in neutral evolution. Okay? Then things just drift. Well have a whole lecture on that. Or if the trait is not heritable, if there's no genetic component to it, then it won't evolve.

Trường hợp nào không có sự biến động trong tính trạng - như tính trạng năm ngón tay; có rất ít người có sáu ngón tay; có một số, nhưng rất ít. Trường hợp nào có một sự tương quan khác không giữa sự duy trì nòi giống và tính trạng; trường hợp nào có sự tương quan bằng không giữa sự duy trì nòi giống và tính trạng. Chúng ta sẽ đi sâu vào tất cả những điều kiện cho việc đó. Điều đó dẫn tới sự tiến hóa trung lập. Đúng không? Sau đó, mọi thứ chỉ trôi dạt. Chúng ta sẽ có nguyên một chương nói về vấn đề đó. Trường hợp nào tính trạng không di truyền, nếu không có yếu tố di truyền gắn với nó, thì nó sẽ không tiến hóa.

So Natural Selection-I wonder why it's doing that? Sorry- Natural Selection does not necessarily happen. It only happens under certain conditions. Essentially in this picture, this is what I've just told you about Natural Selection. If there's variation in the trait, represented on the X-axis, and there's variation in reproductive success, based on the Y-axis, and there is a correlation between the two, represented by the fact that I can just about draw a straight line between these points, Natural Selection will occur and it will push the trait to the right.

Vì vậy, chọn lọc tự nhiên-Tôi không hiểu tại sao nó làm như thế? Xin lỗi- chọn lọc tự nhiên không nhất thiết xảy ra. Nó chỉ xảy ra trong những điều kiện nhất định. Về cơ bản trong bối cảnh này, đây là những gì tôi vừa nói với bạn về chọn lọc tự nhiên. Nếu có biến động trong tính trạng, được biểu diễn trên trục X, và có biến động trong sự duy trì nòi giống, dựa trên trục Y, và có một sự tương quan giữa hai cái, được biễu diễn bằng một đường thẳng giữa các điểm này, chọn lọc tự nhiên sẽ xuất hiện và nó sẽ điều khiển các tính trạng đi đúng quy luật.

If all of these conditions, except the correlation, occur--so you have variation in the trait, variation in reproductive success but no correlation--then you get random drift. And these two situations result in radically different things. This situation produces adaptation, it produces all of the fantastic biology that you're familiar with. It's produced meiosis; it's produced your eye; it's produced your brain. It's extremely powerful.

Nếu tất cả những điều kiện này, ngoại trừ mối tương quan này, xuất hiện - vì vậy bạn có biến động trong tính trạng, biến động trong sự duy trì nòi giống nhưng không có sự tương quan - thì bạn sẽ có chiều hướng ngẫu nhiên. Và hai tình huống này dẫn đến những thứ căn bản khác. Tình huống này tạo ra sự thích ứng, nó tạo ra tất cả các sinh học tuyệt vời mà bạn đã quen thuộc. Nó tạo ra sự phân bào giảm nhiễm; nó tạo ra mắt của bạn; nó tạo ra bộ não của bạn. Nó cực kì mạnh.

This situation on the right, the random drift situation, is what connects microevolution to phylogenetics, and it's what allows us to use variation in DNA sequences to infer history. And I'll get to that. That statement right now is opaque. Don't expect that one to be transparent at this point. But two or three lectures from now I will go into that in detail and you will see that we need to have a process of drift in order to generate a kind of large-scale regularity that gives us timing and relationship in macroevolution.

Trường hợp này ở bên phải, trường hợp này có khuynh hướng ngẫu nhiên, là những gì để kết nối tiến hóa vi mô với phân loại học, và nó là những gì cho phép chúng ta sử dụng các chuỗi ADN để suy ra lịch sử. Và tôi sẽ xét điều đó. Ngay bây giờ phát biểu đó không rõ ràng. Đừng nghĩ rằng điều đó là dễ hiểu tại lúc này. Nhưng hai hoặc ba bài giảng từ bây giờ tôi sẽ đi sâu vào điều đó một cách chi tiết và bạn sẽ thấy rằng chúng ta cần phải có một quá trình trôi dạt để tạo ra một sự đều đặn trên quy mô lớn cho phép chúng ta định thời gian và mối quan hệ trong tiến hóa vĩ mô.

So both are driven by variation in reproductive success. The difference is in whether there's a correlation between the variation of the gene or the trait and the variation in reproductive success.

Vì vậy cả hai được điều khiển bởi sự biến động trong duy trì nòi giống. Sự khác nhau là liệu có sự tương quan giữa sự biến động của gen hoặc tính trạng và sự biến động trong sự duy trì nòi giống hay không.

If we have strong selection, we can get pretty amazing things. I could illustrate adaptation a lot of different ways. I could do it say with the leaf cutting ants that were the first farmers; they domesticated a fungus 50 million years ago and have been cultivating it ever since. That would be one way I could do it.

Nếu chúng ta có sự chọn lọc mạnh mẽ, chúng ta có thể nhận được những thứ lí thú. Tôi có thể minh họa sự thích ứng theo nhiều cách khác nhau. Tôi có thể làm điều đó chẳng hạn với các loài kiến cắt lá là những nông dân đầu tiên; chúng đã khai hóa nấm 50 triệu năm trước và đang trồng trọt nó suốt từ đó. Đó sẽ là một cách để tôi có thể làm điều đó.

I could do it with the exquisite morphology of the deep sea glass sponges and how efficient they are at filtering stuff out of the water. I could do it with the design of a shark's body. Lots of stuff.

Tôi có thể làm điều đó với các hình thái tinh tế của bọt biển thủy tinh dưới đáy biển sâu và chúng đang lọc các thứ ngoài biển hiệu quả như thế nào. Tôi có thể làm điều đó với sự thiết kế thân cá mập. Rất nhiều thứ.

I'll do it with bats, in part because when I was a Yale undergrad I worked on bats in this building. We had a guy that did research on bats at that time. Now a lot of bats are insectivores, and they will hunt moths at night, in complete darkness. They do it with sonar.

Tôi sẽ làm điều đó với những con dơi, một phần vì khi tôi là một sinh viên tôi đã nghiên cứu về những con dơi trong tòa nhà này. Chúng tôi đã có anh chàng đã nghiên cứu về dơi tại thời điểm đó. Bây giờ có rất nhiều dơi là loài ăn sâu bọ, và chúng sẽ săn bướm vào ban đêm, trong bóng tối hoàn toàn. Chúng làm điều đó với hệ thống phát tín hiệu âm thanh của chúng.

The bat only weighs about say 50 to 100 grams, and it is making a sound that is as loud as a Metallica concert when you're standing right next to the lead guitar's speaker system. Okay? Or it's as loud, if you like, as a Boeing 747 taking off from a runway. It's this tiny little creature. It's making an incredibly loud sound. It's 130 decibels.

Những con dơi chỉ nặng khoảng 50-100 gram, và nó tạo ra âm thanh ầm ĩ như một buổi hòa nhạc Metallica hệt như khi bạn đang đứng ngay bên cạnh hệ thống loa của đàn guitar chính. Đúng không? Hoặc ồn như, nếu bạn thích, như là một chiếc Boeing 747 cất cánh từ một đường băng. Đó là sinh vật nhỏ bé này. Nó tạo ra một âm thanh cực lớn. Khoảng 130 decibels.

It does that because the intensity of sound, the amplitude of sound, decreases with the square of distance, and it needs to detect an echo coming back from the moth. The echo coming back from the moth--which by the way it can pick up at a distance of about 20 feet--is about a million times less loud, and it's only coming in about one to two milliseconds later. So imagine, there you are, you've gone "woo"--except a lot louder than that--and milliseconds later you hear "click", and you haven't deafened yourself.

Nó làm điều đó bởi vì cường độ âm thanh, biên độ của âm thanh, giảm theo bậc hai của khoảng cách, và nó cần để phát hiện một tiếng vang dội lại từ con bướm. Tiếng vang phản xạ lại từ con bướm – nhờ đó nó có thể thu nhận tín hiệu tại khoảng cách khoảng 20 phút (1 phút = 0.3048 m) – tại khoảng cách đó tín hiệu sẽ nhỏ hơn một triệu lần tiếng ồn do nó tạo ra, và nó chỉ đến trong khoảng 1 đến 2 mili giây sau đó. Vì vậy, hãy tưởng tượng, giả sử bạn hét "woo" – trừ việc là to hơn vậy nhiều - và những mili giây sau đó bạn nghe "click", và bạn đã không tự làm inh tai.

That's exquisite. It has all kinds of physiology in its ear to hear the returning echo, and it can actually discern whether or not it's looking at a kind of a fuzzy moth or a smooth beetle. The moth has all kinds of adaptations to try to get away from the bat. It hears the bat. The bat's cruising around, the moth hears the bat. The moth goes into a desperate spiral, diving towards the ground--okay--the bat starts to swoop in. There is a mite that lives in the ear of moths. I think you begin to understand the problem that this mite has. If the moth gets caught, the mite will be eaten.

Điều đó cực kì tinh tế. Nó có tất cả các loại sinh lý học trong tai của nó để nghe tiếng vang quay lại, và nó có thể thực sự cảm thấy được dù nó có nhìn vào con bướm mờ nhạt hay một con bọ trơn nhẵn hay không. Con bướm có tất cả các loại cơ chế thích nghi để cố gắng tránh xa những con dơi. Nó nghe ngóng con dơi. Sự bay lượn vòng của các con dơi, con bướm nghe ngóng con dơi. Con bướm đi vào một đường xoắn ốc tuyệt vọng, bổ nhàu xuống mặt đất - vâng – con dơi bắt đầu nhàu xuống. Có một con ve sống trong tai con bướm. Tôi nghĩ rằng bạn bắt đầu hiểu được vấn đề mà con ve gặp phải. Nếu con bướm bị bắt, con ve cũng bị ăn thịt.

The mite's solution? It only lives in one ear. If you collect moths and you look for mites in their ears, you will find that they are always only on one side. So the moth always has a clear ear so it can hear the bat. There's stuff like this all through biology.

Giải pháp của con ve? Nó chỉ sống trong một tai. Nếu bạn bắt bướm và bạn tìm con ve trong tai của chúng, bạn sẽ thấy rằng chúng luôn luôn chỉ ở một bên. Vì vậy, con bướm luôn luôn có một tai sạch để nó có thể nge ngóng con dơi. Có những thứ giống như vậy trong sinh học.

There's another kind of a bat, called a Noctilio, hunts fish. A Noctilio basically detects ripples in the water surface, and then it swoops down and it gaffs the fish with its hind legs. It can detect a wire 1/10th of a millimeter in diameter, sticking 1/10th of a millimeter above the water surface. When I was taking care of bats, I'd never seen a Noctilio. I thought, "God, this must be the greatest bat in the world."

Có một loại dơi khác, được gọi là Noctilio, săn cá. Về cơ bản Noctilio phát hiện các gợn sóng trên mặt nước, và sau đó nó xà xuống và nó gấp con cá bằng chân sau của nó. Nó có thể phát hiện một sợi dây có đường kính 1/10 mili mét, cái que 1/10 mili mét trên mặt nước. Khi tôi nghiên cứu các con dơi, tôi chưa bao giờ thấy con Noctilio. Tôi nghĩ, "Chúa ơi, đây phải là một loài dơi tuyệt vời nhất thế giới."

About four years ago, on the Amazon, my wife and I went out in a canoe, at sunset, on a lake, just off the Amazon River. It was starting to get dark. All day long the kingfishers had been fishing on that lake, and during the day the lake had gotten covered with a lot of food that the fish wanted, but they were afraid of the kingfishers. As it got darker the kingfishers couldn't hunt anymore and the whole surface of the lake dimpled with the fish coming up to eat the food.

Khỏang bốn năm trước đây, ở Amazon, vợ tôi và tôi đi ra ngoài trên một chiếc xuồng, lúc hoàng hôn, trên một hồ nước, ở ngay ngoài thủy phận sông Amazon. Trời bắt đầu tối dần. Suốt ngày dài, các con chim bói cá đã đánh bắt cá trên hồ đó, và suốt ngày hồ bị phủ đầy với nhiều loại thực phẩm mà các con cá ưa thích, nhưng chúng sợ các con chim bói cá. Vì trời ngày càng tối nên các con chim bói cá không thể bắt cá được nữa và toàn bộ mặt hồ đã gợn sóng vì các con cá nổi lên ăn mồi.

So their timing was exquisite. They knew exactly how dark it had to get before they were safe. The fish came up and started to eat the food. At that point--it was just shortly after sunset--the bat falcons were still stationed around the lake. You could see, up on the trees, falcons sitting up on the limbs and making flights off of the limbs. About 15 minutes after the fish started to eat, it got dark enough so that the bat falcons couldn't hunt anymore, and at that point Noctilio came out, and the water was covered with hundreds of bats that were catching the fish. They were catching the fish within a meter of us.

Vì vậy, cách định thời của chúng rất tinh tế. Chúng biết chính xác trời phải tối như thế nào để lên cho an toàn. Các con cá nổi lên và bắt đầu ăn thực phẩm. Tại thời điểm này – chỉ là ngay sau khi hoàng hôn - những con chim ưng bắt dơi vẫn còn ở yên quanh hồ. Bạn có thể thấy, ở trên cây, các con chim ưng vẫn còn ngồi trên các cành cây và cất cánh bay khỏi những cành cây đó. Khoảng 15 phút sau cá bắt đầu ăn, trời đủ tối dần để các con chim ưng không thể săn mồi nữa, và lúc đó Noctilio xuất hiện, và mặt nước được bao phủ với hàng trăm con dơi đang bắt cá. Chúng bắt cá trong vòng một mét quanh chúng tôi.

Now there are a couple of things about that story that I think, uh, I'd like to underline. One is that that entire community is exquisitely adapted. Every element in it knows when everything is going on and what the risks are, and what the costs and the benefits are. The other thing is that I had benefited from a liberal education, and when that bat came out, and was flying around a meter away from my canoe in the Amazon, my life was so much richer because I had been waiting to see it for 40 years. I had heard about it in a course at Yale. I knew where it fit in. I knew what kinds of adaptations it had, and boy was I happy to see it.

Hiện nay có một vài điều về câu chuyện đó mà tôi nghĩ rằng, uh, tôi muốn gạch dưới. Một là toàn thể cộng đồng được thích nghi một cách tinh tế. Mỗi phần tử trong nó biết khi nào mọi thứ đang diễn ra và những rủi ro là gì, và các chi phí và lợi ích là gì. Điều khác là tôi được hưởng lợi từ một nền giáo dục tự do, và khi những con dơi đến, và bay khoảng một mét cách xa xuồng của tôi ở Amazon, cuộc sống của tôi phong phú hơn rất nhiều vì tôi đã chờ đợi để xem nó khoảng 40 năm. Tôi đã nghe nói về nó trong một khóa học tại Yale. Tôi biết nó thích hợp ở đâu. Tôi biết những loại thích nghi nào mà nó có, và nó là thứ mà tôi hạnh phúc khi được thấy. R

So adaptation can be impressive. Drift is something that actually appeals to the geeks among us. I have a geeky side too, okay? Drift isn't such a morphologically or artistically beautiful thing. It's a mathematically beautiful thing. Drift happens whenever there is no correlation between reproductive success and variation in a trait, and it produces patterns like this.

Vì vậy, sự thích ứng có thể gây ấn tượng. Sự trôi giạt là cái gì đó thực lí thú cho những người quái dị trong số chúng ta. Tôi cũng có một bên lập dị nữa, đúng không? Trôi giạt không phải là những thứ đẹp về mặt hình thái học hoặc nghệ thuật. Đó là một thứ đẹp đẽ về mặt toán học. Sự trôi giạt xảy ra bất cứ khi nào không có sự tương quan giữa sự tái sản xuất và sự biến động trong tính trạng, và nó tạo ra những mẫu như thế này.

So here we start off with 20 populations, and we start them all with a gene frequency of 0.5, and we let meiosis--which is like flipping a fair coin--and we let variation and reproductive success take their course, and we just run these populations for 20 generations, and you can see that there's just about an equally likely distribution of end-states out here. So we all start off at 0.5, and it gets noisy as we go along.

Vì vậy, ở đây chúng tôi bắt đầu với 20 người, và chúng ta bắt đầu tất cả họ với một tần số gen là 0,5, và chúng ta cho phép sự phân bào giảm nhiễm – nó giống như trò chơi thải đồng tiền - và chúng ta cho phép sự biến động và sự duy trì nòi giống chọn khóa học của họ, và chúng ta chỉ chạy số dân này trên 20 thế hệ, và bạn có thể thấy rằng đó chỉ là một phân bố đồng đều ngẫu nhiên của các trạng thái cuối ngoài đây. Vì vậy, tất cả chúng ta bắt đầu tại 0.5, và nó trở nên huyên náo khi chúng ta tiếp tục.

So this is an image of the process of drift, and if any of these populations happens to get up to 1, or down to 0, in terms of gene frequency, the process will stop, because those are absorbing states. If the frequency becomes 1, then everybody's got it and there can't be any change, and if the frequency becomes 0, then nobody's got it and there can't be any change. So that's what's meant by absorbing state.



tải về 135.34 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương