2.6.2. Các kết quả chưa đạt được
- Phát triển nhanh nhưng mất cân đối giữa phát triển thượng nguồn và hạ nguồn. Mặc dù ngành thép đã đáp ứng đủ nhu cầu phôi thép xây dựng, nhưng chủng loại thép hợp kim, đặc biệt là thép tấm cán nóng - nguyên liệu đầu vào cần thiết cho nhiều ngành như sản xuất thép cán nguội, tôn mạ, ống thép, đóng tàu, cơ khí chế tạo, có nhu cầu lớn (trên 9 triệu tấn/năm) trong nước lại chưa sản xuất được, hoàn toàn phụ thuộc vào nhập khẩu.
- Trong số các nhà máy sản xuất phôi đang hoạt động có nhiều nhà máy có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, sức cạnh tranh kém. Đa số các nhà máy sản xuất phôi thép trong nước chủ yếu dựa vào công nghệ lò điện (4,5 triệu tấn/6 triệu tấn). Mặt khác, nguyên liệu sản xuất thép là thép phế trong nước lại không đáp ứng đủ, hàng năm phải nhập trên 3 triệu tấn với kim ngạch nhập khẩu trên 1 tỷ Đô la Mỹ.
- Các công ty gang thép ở Việt Nam sử dụng lò cao có dung tích rất nhỏ, từ vài chục đến vài trăm m3, thấp hơn rất nhiều so với dung tích lò cao bình quân của các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc hay Nhật Bản. Trong khi đó, theo quyết định 694, yêu cầu dung tích lò cao phải tối thiểu 500 m3 áp dụng đối với khu vực không có nguồn quặng sắt tập trung, còn đối với những khu vực có nguồn quặng sắt tập trung thì tối thiểu phải 700 m3, thậm chí đối với DA sử dụng quặng sắt nhập khẩu được bố trí ở ven biển thì dung tích tối thiểu 1.000m3.
- Cách thức quản lý của một số cơ quan Nhà nước chưa quyết liệt làm cho tình trạng dự án “treo” ở ngành thép vẫn xảy ra.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |