Bảng 2. Mối liên quan giữa suy giảm nhận thức và một số đặc điểm nhân khẩu học
(n = 1210)
Một số đặc điểm nhân khẩu học
Có tình trạng suy
giảm nhận thức
n(%)
cOR
(95% CI)
aOR
(95%CI)
Nhóm
tuổi
60 - 70 tuổi
165 (24,8%)
1
1
71 đến 80 tuổi
134 (38,0%)
1,86**
(1,40 - 2,46)
1,53**
(1,13 - 2,07)
trên 80 tuổi
104 (53,8%)
3,54**
(2,50 - 5,00)
2,47**
(1,68 - 3,62)
Giới
Nam
147 (31,0%)
1
1
Nữ
256 (34,7%)
1,18
(0,92 - 1,51)
0,85
(0,63 - 1,13)
Thu
nhập
Thu nhập thấp
174 (38,3%)
1
1
Từ 5 triệu đồng/tháng trở
lên
229 (30,2%)
0,69*
(0,54 - 0,89)
1,10
(0,83 - 1,45)
Tình
trạng
hôn
nhân
Độc thân
17 (51,5%)
1
1
Sống cùng vợ/chồng
266 (30,5%)
0,41*
(0,20 - 0,83)
0,41*
(0,19 - 0,86)
Góa/ly thân
120 (39,2%)
0,60
(0,29 - 1,25)
0,37*
(0,17 - 0,79)
Trình
độ học
vấn
Mù chữ
105 (56,4%)
1
1
Tiểu học
158 (38,2%)
0,47**
(0,33 - 0,68)
0,55**
(0,38 - 0,79)
Trung học (THCS, THPT)
105 (23,9%)
0,24**
(0,16 - 0,35)
0,31**
(0,21 - 0,47)
Cao đẳng/Đại học, trên
ĐH
35 (20,2%)
0,19**
(0,11 - 0,32)
0,21**
(0,12 - 0,35)
Đảm
nhiệm
vai trò
lao
động
chính
Không
247 (39,7%)
1
1
Có
156 (26,5%)
0,54**
(0,42 - 0,70)
0,66**
(0,50 – 0,87)
*: p < 0,05 **:p < 0,01
IV. BÀN LUẬN
Theo nhận định của WHO, hiện nay có khoảng 63% số người mắc suy giảm nhận thức sống ở
các nước thu nhập thấp và trung bình, nơi việc tiếp cận với bảo trợ xã hội, dịch vụ, hỗ trợ và chăm
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
126
TCNCYH 129 (5) - 2020
sóc hạn chế, điều này sẽ dẫn đến giảm chất
lượng cuộc sống của người cao tuổi.
3,4
Thậm
chí, dự báo đến năm 2040, nếu tốc độ gia tăng
dân số già giữ nguyên và không có thay đổi về
tỷ lệ tử vong không có các biện pháp phòng
ngừa, tỉ lệ mắc suy giảm nhận thức (SGNT) ở
các nước đang phát triển sẽ còn tăng lên đến
71% số trường hợp toàn cầu.
10
Các nghiên cứu
về đánh giá chứng SGNT ở người cao tuổi tại
Việt Nam không chỉ hạn chế về số lượng, mà
còn về phương pháp đánh giá. Nghiên cứu
của chúng tôi cho kết quả 33,31% đối tượng
thể hiện dấu hiệu tình trạng SGNT, kết quả
này cao hơn nghiên cứu Kết quả Điều tra về
NCT năm 2011.
11
Điều này có thể giải thích do
Điều tra mới chỉ sử dụng Bộ bài kiểm tra ngắn
Trạng thái Tâm thần (MMSE) đánh giá trí nhớ
người cao tuổi bằng kiểm tra danh sách các
từ được đọc lên mà họ nhớ được,
11
trong khi
nghiên cứu của chúng tôi sử dụng bộ Đánh giá
nhận thức Mini - Cog – kết hợp giữa hỏi từ và
vẽ đồng hồ (CDT).
7 - 9
Kết quả của nghiên cứu
chúng tôi cũng cao hơn so với các nghiên cứu
cùng thực hiện trên người cao: tuổi. tại Mỹ, dựa
trên nghiên cứu về nhân khẩu học và trí nhớ
(ADAM), khoảng 14% số người trên 71 tuổi mắc
chứng SGNT.
12
Nghiên cứu từ Leipzig, Đức cho
tỷ lệ mắc bệnh chung ở các đối tượng từ 75
tuổi trở lên là 19,2%.
13
Tại Hàn Quốc, nghiên
cứu năm 2008 thực hiện trên các cư dân từ 65
tuổi trở lên sống ở Seongnam cho thấy, tỷ lệ
mắc chứng SGNT được ước tính là 6,3%;
14
một
nghiên cứu khác thực hiện cùng phương pháp
tại thành phố Seoul cho tỷ lệ mắc SGNT dao
động từ 2,6% ở những người từ 65 - 69 tuổi; và
lên đến 32,6% ở những người từ 85 tuổi trở lên.
Tỷ lệ chung cho cả nhóm nghiên cứu là 8,2%.
15
Nhật Bản là nước có dân số già, nên việc quan
tâm tới sức khỏe tâm thần người cao tuổi đã
được chú ý từ lâu. Các nghiên cứu trong vòng
10 năm trở lại đây cho thấy, tỷ lệ mắc chứng
mất trí nhớ ở những người trên 65 tuổi và hơn
75 tuổi lần lượt là 2,4 - 8,4% và 15,8%.
16
hay
cũng một nghiên cứu thuần tập trên các người
cao tuổi từ 65 tuổi trở lên tại làng đảo Ama -
cho, Nhật Bản, tỷ lệ mắc chứng SGNT bằng
11%.
17
Số lượng ở các nước phát triển được
dự báo sẽ tăng 100% trong giai đoạn 2001 đến
2040, và tăng nhanh ở các nước châu Á, lên tới
hơn 300% ở Ấn Độ, Trung Quốc và các nước
Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Tuy nhiên,
nếu được phát hiện sớm, chúng ta có thể ngăn
ngừa được tình trạng trầm trọng bệnh, cũng
như giảm được cả số lượng bệnh nhân mắc,
tăng chất lượng cuộc sống của người cao tuổi.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng phát hiện
ra, tuổi đối tượng nghiên cứu càng cao, tỉ lệ
mắc bệnh càng gia tăng theo, tương tự như các
nghiên cứu khác.
13,15,16
Tiếp theo phải kể đến là
tình trạng hôn nhân của các đối tượng nghiên
cứu. Nghiên cứu cũng chỉ ra, những người cao
tuổi hiện tại đang còn sống cùng vợ/chồng, tỉ lệ
có dấu hiệu bệnh (30,5%) thấp hơn có ý nghĩa
thống kê so với những người độc thân (51,5%)
và Góa/ly thân (39,2%), Kết quả này cũng
tương tự như phát hiện của Petersen và đồng
nghiệp thực hiện năm 2004 trên 1,969 người
70 - 89 tuổi.
18
Khi người cao tuổi sống cùng
gia đình, họ hay được người thân nhắc nhở,
chăm sóc, cũng như họ sẽ có ý thức tốt hơn khi
chăm sóc bản thân và người xung quanh. Và
trong nhóm đối tượng, kết quả cũng chỉ ra với
những đối tượng học vấn càng cao, tỉ lệ mắc
suy giảm nhận thức cũng thấp hơn. Điều này
được phát hiện tương tự ở nhiều nghiên cứu
khác.
13,18,19
Với những người cao tuổi còn tiếp
tục làm việc đóng góp thu nhập, tỉ lệ mắc suy
giảm nhận thức ở họ thấp hơn có ý nghĩa thống
kê so với nhóm không còn làm việc; điều này
tương đương với phát hiện khi người cao tuổi
có thu nhập, mặc dù có thể không cao, nhưng
họ mắc suy giảm nhận thức cũng ít hơn nhóm
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
127
TCNCYH 129 (5) - 2020
không có thu nhập.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu thực hiện thực hiện trên 1210
người cao tuổi (độ tuổi từ 60 trở lên) cho kết quả
tỉ lệ người cao tuổi có suy giảm nhận thứctình
trạng suy giảm nhận thức cao, chiếm 33,3%.
Có mối liên quan giữa tuổi, đang sống cùng vợ/
chồng hay không, trình độ học vấn với việc có
hay không các tình trạng suy giảm nhận thức
ở người cao tuổi. Cần có những nghiên cứu
sâu hơn, tiếp tục áp dụng bộ công cụ chuẩn
quốc tế, cũng như chú trọng chăm sóc người
cao tuổi, dễ tổn thương, có yếu tố nguy cơ, từ
đó ngăn ngừa được tình trạng trầm trọng bệnh,
giảm được số lượng bệnh nhân mắc, tăng chất
lượng cuộc sống của người cao tuổi.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |