Tài liệu tham khảo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam



tải về 1.85 Mb.
trang5/27
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.85 Mb.
#13066
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   27

Chương III- Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, bao gồm 14 điều (từ Điều 30 đến Điều 43).

Bên cạnh việc xác định đường lối bảo tồn và phát triển nền văn hoá Việt Nam mang bản sắc dân tộc, hiện đại, nhân văn, kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tưtưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân, Hiến pháp còn xác định "Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu" (Điều 35). Có thể nói rằng Hiến pháp 1992 đánh dấu một cái mốc quan trọng trong chính sách giáo dục và đào tạo của Nhà nước ta, thể hiện đúng tưtưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh "vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người".

Chương IV- Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bao gồm 5 điều (từ Điều 44 đến Điều 48).

Về cơ bản chương này giống nhưHiến pháp 1980 là xác định đường lối quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên, Hiến pháp 1992 còn quy định bổ sung thêm về nhiệm vụ xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (Điều 47).

Chương V- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 34 điều (từ Điều 49 đến Điều 82). So với Hiến pháp 1980 có nhiều điều hơn, nhiều quyền và nghĩa vụ được bổ sung và sửa đổi. Khắc phục thiếu sót của các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp 1992 lần đầu tiên quy định "các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng" (Điều 50). ở nước ta, ngoài công dân Việt Nam và công dân nước ngoài đến làm việc, sinh sống ở Việt Nam, còn có người không có quốc tịch. Với quy định trên đây người không có quốc tịch cũng được Nhà nước ta tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Với Hiến pháp 1992, lần đầu tiên quyền tự do kinh doanh của công dân được xác lập (Điều 57). Đây là một trong những chìa khoá quan trọng để mở cánh cửa tự do trong lĩnh vực hoạt động kinh tế của công dân, xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh. Cùng với quyền tự do kinh doanh, công dân còn có quyền sở hữu "về tưliệu sản xuất, vốn và tài sản trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác" (Điều 58). Những quy định này hơn bao giờ hết tạo điều kiện thuận lợi để công dân Việt Nam xây dựng một cuộc sống cho bản thân mình giàu có, thịnh vượng. Trên cơ sở đó mà đồng thời làm giàu cho Nhà nước và xã hội. Ngoài các quy định nói trên còn có quy định về quyền "được thông tin" là một quyền mới được xác lập trong Hiến pháp 1992. Quyền này được hiểu là quyền được nhận tin và truyền tin theo quy định của pháp luật.

Ngoài việc thiết lập các quyền mới, Hiến pháp còn sửa đổi một số quy định về quyền của công dân không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và không thể thực hiện được trong thực tiễn. Nếu Hiến pháp 1980 quy định học không phải trả học phí và khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền thì Hiến pháp 1992 sửa đổi lại "bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí" (Điều 59) và "công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ. Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí" (Điều 61).

Hiến pháp 1980 quy định "Công dân có quyền có nhà ở" (Điều 62); Quyền này trên thực tế cũng không thực hiện được nên Hiến pháp 1992 sửa lại "Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy hoạch và pháp luật (Điều 62). Hiến pháp 1992 còn khôi phục lại một số quyền đã quy định trong Hiến pháp 1946 nhưng về sau do hoàn cảnh chính trị - lịch sử mà chúng ta đã hạn chế. Đó là "Quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật" (Điều 68). Một số quyền trước đây chỉ quy định trong Bộ luật hoặc Luật nay đã đưa vào quy định cả trong Hiến pháp để đề cao hơn nữa tính hiệu lực của pháp luật, nhưĐiều 72, Hiến pháp 1992 quy định: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật".

Chương VI- Quốc hội, bao gồm 18 điều (từ Điều 83 đến Điều 100). Cũng nhưHiến pháp 1980, chương này xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Quốc hội về cơ bản nội dung quyền hạn giống Hiến pháp 1980. Tuy nhiên, có một số bổ sung về quyền hạn của Quốc hội nhưquyết định chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh, Quyết định trưng cầu ý dân (Điều 84). Nhìn chung nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội thể hiện trên bốn lĩnh vực:

- Lập hiến và lập pháp.

- Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

- Xây dựng củng cố và hoàn thiện bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

- Thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước.

Về cơ cấu tổ chức của Quốc hội theo Hiến pháp 1992 có một số thay đổi nhất định. Thể chế Hội đồng Nhà nước vừa là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội vừa là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được bãi bỏ, khôi phục lại chế định Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và chế định Chủ tịch nước nhưHiến pháp 1959. Theo Hiến pháp 1992 Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội đồng thời là Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Một số thành viên của các Hội đồng, các Uỷ ban của Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách (Điều 94, 95).

Đề cao hơn nữa vai trò của đại biểu Quốc hội, Hiến pháp 1992 quy định rõ: "Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước" (Điều 97). So với Hiến pháp 1980 nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội được quy định cụ thể hơn: "Phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ảnh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và cơ quan hữu quan, thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị với cử tri, xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó" (Điều 97). Về trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ của mình, Hiến pháp 1980 chỉ quy định: "Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu (Điều 97). Còn Hiến pháp 1992 quy định một cách cụ thể hơn; "Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm cung cấp tài liệu cần thiết mà đại biểu yêu cầu và tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu".

Chương VII- Chủ tịch nước, bao gồm 8 điều (từ Điều 101 đến Điều 108). Với Hiến pháp 1992 chế định Chủ tịch nước, cá nhân được khôi phục lại thành một chế định riêng biệt nhưHiến pháp 1959.

So với chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1992 có nhiều điểm khác biệt. Trước hết Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ nên quyền hạn rất lớn. Hiến pháp 1959 quy định Chủ tịch nước chỉ đứng đầu Nhà nước chứ không đứng đầu Chính phủ. Nhưng quyền hạn của Chủ tịch nước vẫn rất lớn: "Khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Chính phủ" (Điều 66), và khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ toạ Hội nghị chính trị để xem xét những vấn đề lớn của nước nhà (Điều 67). Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1980 không phải là cá nhân mà là Chủ tịch tập thể. Thể chế Chủ tịch tập thể nhưđã nói ở phần trước, có nhiều nhược điểm nhưkhông nhanh nhạy, không linh hoạt và khó khăn trong việc đối ngoại. Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1992 quyền hạn không rộng nhưHiến pháp 1946 và 1959. Theo quy định của Hiến pháp 1992 Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, Chủ tịch nước chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Thẩm quyền của Chủ tịch nước có thể chia làm 2 loại. Loại thẩm quyền thứ nhất là thẩm quyền độc lập do Chủ tịch nước tự quyết định. Đó là các thẩm quyền sau đây:

- Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan, cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân, cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước.

- Bổ nhiễm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam, tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài, tiến hành đàm phán, ký kết Điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; Quyết định phê chuẩn hoặc tham gia Điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định.

- Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam.

- Quyết định đặc xá.

- Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ các chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh.

- Đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về các vấn đề bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, về việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nhà nước bị xâm lược trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày Pháp lệnh hoặc Nghị quyết được thông qua. Nếu Pháp lệnh, Nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định trong kỳ họp gần nhất.

- Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 103).

Loại thẩm quyền thứ hai là loại thẩm quyền mang tính thủ tục hành chính và nghi thức. Đó là các thẩm quyền:

- Công bố Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh.

- Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.

- Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá.

- Căn cứ vào Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương (Điều 103).

Chương VIII- Chính phủ, bao gồm 19 điều (từ Điều 109 đến Điều 117).

Cũng nhưHội đồng Chính phủ theo Hiến pháp 1959, Chính phủ theo Hiến pháp 1992 được quy định là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu so sánh cả bốn bản Hiến pháp của nước ta, chúng ta thấy quan niệm về tính chất của Chính phủ có những thay đổi nhất định. Hiến pháp 1946 xây dựng Chính phủ theo mô hình chính phủ tư sản nên không quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Nghị viện. Hiến pháp 1980 xây dựng Chính phủ (Hội đồng Bộ trưởng) theo mô hình của Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Nhưng với quan điểm tập quyền "rắn" nghĩa là quyền lực Nhà nước thống nhất tập trung vào Quốc hội. Quốc hội, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tưpháp và giám sát. Các cơ quan Nhà nước khác do Quốc hội lập ra là để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội. Vì vậy, Hiến pháp quy định Hội đồng Bộ trưởng là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính cao nhất của Quốc hội. Quy định này làm cho Chính phủ thiếu tính độc lập tương đối trong lĩnh vực hoạt động hành chính Nhà nước. Khắc phục nhược điểm này, Hiến pháp 1992 quay về với Hiến pháp 1959 xây dựng theo quan điểm tập quyền "mềm" nghĩa là quyền lực Nhà nước vẫn tập trung thống nhất nhưng cần phải có sự phân chia chức năng rành rọt giữa các cơ quan Nhà nước lập pháp, hành pháp và tưpháp. Vì vậy, Hiến pháp 1992 quy định: "Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Với quy định này Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của Nhà nước chứ không phải của Quốc hội, có thể hoạt động một cách độc lập tương đối trong lĩnh vực hành chính Nhà nước.

Với Hiến pháp 1992 chúng ta có thể thấy rằng những hạt nhân hợp lý của thuyết phân chia quyền lực của John Locke và Charles Montesquieu đã được chúng ta áp dụng1 .

Cách thức thành lập Chính phủ theo Hiến pháp 1992 hoàn toàn khác với Hiến pháp 1980. Theo Hiến pháp 1980 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ đều do Quốc hội bầu ra, còn theo Hiến pháp 1992 chỉ có Thủ tướng Chính phủ là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, còn các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ Quốc hội chỉ phê chuẩn theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ1 . Nhưvậy, Hiến pháp 1992 đề cao vai trò của Thủ tướng Chính phủ trong việc thành lập Chính phủ. Việc Hiến pháp trao cho Thủ tướng Chính phủ quyền được đề nghị bổ nhiệm các thành viên của Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn (trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn trong thời gian Quốc hội không họp) đồng thời còn có quyền đề nghị miễn nhiệm, cách chức các thành viên của Chính phủ làm nổi bật vai trò của Thủ tướng trong Chính phủ. Có thể nói rằng đây là phương pháp hữu hiệu để xây dựng một chính quyền hành pháp mạnh mẽ.

Việc tăng cường vai trò của người đứng đầu Chính phủ còn thể hiện ở việc tăng thêm nhiều quyền hạn cho Thủ tướng Chính phủ mà trước đây các Hiến pháp 1959, 1980 không quy định. Đó là các thẩm quyền sau đây:

- Đề nghị thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ, các cơ quan ngang Bộ.

- Phê chuẩn việc bầu cử, miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

- Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những Quyết định, Chỉ thị, Thông tưcủa Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái với Hiến pháp, Pháp luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên.

- Đình chỉ việc thi hành những Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái với Hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ (Điều 114).

Chương IX- Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Chương này bao gồm 8 điều (từ Điều 118 đến Điều 125). Theo quy định của Hiến pháp 1992 nước ta vẫn chia làm 3 đơn vị hành chính: tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; xã, phường, thị trấn1 (Điều 118). ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Tính chất của Hội đồng nhân dân nhưcũ là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương do nhân dân địa phương bầu ra, nhưng Hiến pháp mới nhấn mạnh tính đại diện của Hội đồng nhân dân nên đã quy định rõ hơn: "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên (Điều 119). Nhưvậy, có thể thấy rằng tính chất của Hội đồng là tính quyền lực Nhà nước và tính đại diện nhân dân. Hai đặc tính này của Hội đồng nhân dân kết hợp nhuần nhuyễn với nhau làm cho Hội đồng nhân dân thực sự trở thành một cơ quan Nhà nước quan trọng bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân lao động.

Về cơ cấu tổ chức, Hiến pháp 1992 duy trì các quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 1989, về thành lập Thường trực Hội đồng nhân dân ở các Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh. Trong tổ chức Hội đồng nhân dân còn thành lập các Ban. Theo quy định của Hiến pháp 1992, quyền hạn của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân được tăng cường. Một số quyền hạn trước đây thuộc tập thể Uỷ ban nhân dân, nay chuyển cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân: "Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái của Uỷ ban nhân dân cấp dưới, đình chỉ thi hành Nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ những Nghị quyết đó (Điều 124). Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân do Quốc hội khoá IX (kỳ họp thứ năm) thông qua ngày 21-6-1994 trên tinh thần Hiến pháp 1992 đã tăng cường quyền lực cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Theo quy định tại Điều 52 của luật này Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền điều động, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp.

Đề cao hơn nữa vai trò của các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng trong quản lý Nhà nước và xã hội. Hiến pháp 1992 quy định Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân địa phương được mời dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự Hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương cho mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, phối hợp với mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương (Điều 125).

Chương X - Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, bao gồm 15 điều (từ Điều 126 đến Điều 140).

Theo quy định tại Điều 126 nhiệm vụ của toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân là bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Có thể nói về nhiệm vụ của Toà án và Viện kiểm sát nhân dân không có gì thay đổi.

Về tổ chức hệ thống cơ quan Toà án, Hiến pháp 1992 quy định "Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong tình hình đặc biệt Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt. Quy định này về tổ chức hệ thống toà án đã được cụ thể hoá bằng Luật tổ chức toà án nhân dân 1992, luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tổ chức toà án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 28-12-1993, Pháp lệnh về tổ chức Toà án quân sự năm 1993, luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân ngày 28-10-1995.

Theo quy định của các văn bản pháp luật trên đây ở nước ta có các toà án sau đây:

Toà án nhân dân tối cao; Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các toà án quân sự; các toà án khác do luật định. Các toà án quân sự ở nước ta theo Điều 2 Pháp lệnh tổ chức toà án quân sự bao gồm toà án quân sự Trung ương, các toà án quân sự quân khu và tương đương, các toà án quân sự khu vực.

Trước năm 1992, trong hệ thống toà án nhân dân ở nước ta chỉ có toà hình sự và toà dân sự. Các tranh chấp kinh tế do Trọng tài kinh tế giải quyết. Sau khi ban hành Hiến pháp 1992, luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tổ chức toà án nhân dân ngày 28-12-1992 đã quy định: "Toà án nhân dân tối cao và các toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập thêm toà chuyên trách là toà án kinh tế để giải quyết tranh chấp kinh tế".

Theo quy định của Bộ luật lao động được Quốc hội thông qua ngày 23-6-1994 và có hiệu lực thi hành ngày 1-1-1995, thì các tranh chấp lao động về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước tập thể và trong quá trình học nghề, nếu qua hoà giải hoặc Hội đồng trọng tài giải quyết mà không thành, các bên có quyền yêu cầu toà án nhân dân giải quyết (Điều 164).

Theo quy định tại khoản 2 Điều 166 Bộ luật lao động, một số tranh chấp lao động cá nhân có thể yêu cầu toà án nhân dân cấp huyện giải quyết, không nhất thiết phải qua hoà giải cơ sở. Đó là những tranh chấp sau đây:

- Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;

- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại cho người lao động.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 176 Bộ luật lao động thì việc kết luận cuộc đình công hợp pháp hay không thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân. Những quy định đó của Bộ luật lao động là tiền đề để thành lập thêm Toà lao động trong hệ thống toà án nhân dân.

Việc giải quyết các khiếu kiện của dân đối với các quyết định hành chính sai trái làm thiệt hại đến quyền lợi của dân cũng là một vấn đề bức xúc mà xã hội đặt ra đối với tổ chức toà án. Trước tình hình đó Quốc hội một lần nữa đã ban hành luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức toà án nhân dân. Theo quy định của Luật sửa đổi thì cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân tối cao gồm: Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao, Uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân tối cao, Toà án quân sự Trung ương, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính và các Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao.

Cũng theo quy định của luật sửa đổi cơ cấu tổ chức của toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm: Uỷ ban thẩm phán, Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính.

Tóm lại: theo quy định của luật mới trong hệ thống tổ chức toà án cấp Trung ương và cấp tỉnh còn có thêm toà lao động và hành chính để chuyển xét xử các tranh chấp lao động và hành chính, ở cấp huyện có thẩm phán chuyên trách xét xử tranh chấp lao động và khiếu kiện hành chính.

Sự khác nhau cơ bản giữa tổ chức toà án nhân dân theo Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1980 là: Hiến pháp 1980 thực hiện chế độ thẩm phán bầu, còn Hiến pháp 1992 thực hiện chế độ thẩm phán bổ nhiệm. Dựa trên tinh thần của Hiến pháp, Luật tổ chức toà án nhân dân 1992 đã quy định chỉ có Chánh án Toà án nhân dân tối cao là do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, còn tất cả các thẩm phán của toà án nhân dân các cấp kể cả Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Chánh án, Phó Chánh án toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức (Điều 38). Nhiệm kỳ bổ nhiệm của các Thẩm phán là 5 năm. Còn đối với các Hội thẩm nhân dân thì kết hợp giữa chế độ cử và chế độ bầu. Hội thẩm nhân dân toà án nhân dân tối cao do uỷ ban Thường vụ Quốc hội cử theo sự giới thiệu của Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam và do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội miễn nhiệm và bãi nhiệm. Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự Trung ương do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cử theo sự giới thiệu của Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam và do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm. Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp và do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm. Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự quân khu và tương đương do Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, Tổng cục hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam miễn nhiệm, bãi nhiệm.

Hội thẩm quân dân Toà án quân sự khu vực do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, Tổng cục hoặc cấp tương đương cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị sưđoàn hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, Tổng cục hoặc cấp tương đương miễn nhiệm, bãi nhiệm (Điều 39).

Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao và Hội thẩm quân nhân là 5 năm, còn nhiệm kỳ Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp (Điều 39).

Về các nguyên tắc xét xử, Hiến pháp 1992 ghi nhận lại những nguyên tắc đã quy định trong Hiến pháp 1980. Đó là các nguyên tắc: Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán; khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo; quyền của công dân thuộc các dân tộc khác nhau có thể dùng tiếng nói và chữ viết của mình trước toà án (Điều 129, 130, 131, 132, 133).


Каталог: vanban -> vb chuy
vb chuy -> CỤc khảo thí VÀ kiểM ĐỊnh chất lưỢng giáo dụC
vb chuy -> KẾ hoạch tổ chức khen thưỞng thành tích học tập năm họC 2013 – 2014 VÀ chào mừng ngày quốc tế thiếu nhi 1/6 cho con cbgv-cnv trưỜng thpt nguyễn công trứ
vb chuy -> Trả lời Câu 1
vb chuy -> KẾ hoạch tổ chức hoạt động kỷ niệm ngày phụ nữ Việt nam 20/10 Năm học 2013 2014
vb chuy -> MỘt số HƯỚng dẫn về thủ TỤc tài chính hỗ trợ khảo sát tạI ĐỊa phưƠNG
vb chuy -> Căn cứ vào Nghị định số 86/2015/NĐ-cp ngày 02/10/2015 của Chính phủ, tôi làm đơn này đề nghị được xem xét để được miễn, giảm học phí theo quy định và chế độ hiện hành
vb chuy -> ĐỀ CƯƠng ôn tập sinh học lớP 10 HỌc kì I năm họC 2015-2016 I. NỘi dung cần chú Ý
vb chuy -> Tổ văn – sử Nhóm văn
vb chuy -> I. HÖÔÙng daãn nội dung ôn tập chưƠng trình tieáng anh 7 NĂM

tải về 1.85 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   27




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương