THÁnh công đỒng vatican II the sacred vatican council II (1962-1965) hiến chế SẮc lệnh tuyên ngôN


Chương III Các Giáo Hội Ðịa Phương 28*



tải về 5.72 Mb.
trang46/67
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích5.72 Mb.
#3996
1   ...   42   43   44   45   46   47   48   49   ...   67
Chương III
Các Giáo Hội Ðịa Phương 28*

19. Sự tiến triển của các Giáo Hội trẻ. Việc gieo trồng Giáo Hội trong một nhóm người nhất định kể như là đã đạt tới mục đích, khi cộng đoàn tín hữu - đã bén rễ trong đời sống xã hội và đã phù hợp một phần nào với văn hóa địa phương - hưởng được một sự mạnh mẽ và vững chắc nào rồi: nghĩa là cộng đoàn tín hữu đó đã có dồi dào, tuy chưa đủ, các linh mục, tu sĩ và giáo dân địa phương, đã có những thừa tác vụ và những tổ chức cần thiết cho việc dẫn dắt và phát triển đời sống Dân Chúa, dưới sự hướng dẫn của Giám Mục 29* riêng mình.

Trong những Giáo Hội 30* trẻ trung đó, đời sống Dân Chúa phải trưởng thành về mọi phương diện của đời sống Kitô giáo được canh tân theo những tiêu chuẩn của Công Ðồng này: các cộng đoàn tín hữu mỗi ngày một ý thức hơn rằng mình trở nên những cộng đoàn sống đức tin, phụng vụ và bác ái; nhờ chuyên lo hoạt động dân sự và tông đồ, giáo dân phải cố gắng thiết lập trật tự bác ái và công bằng trong xã hội; phải xử dụng các phương tiện truyền thông xã hội một cách thích hợp và khôn ngoan; nhờ sống đời sống thực sự Kitô giáo, các gia đình phải trở nên những vườn ương việc tông đồ giáo dân, ơn gọi linh mục và tu sĩ. Sau hết, đức tin phải được giảng dạy nhờ khoa dạy giáo lý thích hợp, được cử hành trong Phụng Vụ hợp với đặc tính dân tộc, và được đưa vào các tổ chức lành mạnh cũng như các phong tục địa phương nhờ bản giáo luật thích ứng.

Còn các Giám Mục - mỗi vị hợp nhất với linh mục đoàn của mình và ngày càng thấm nhuần cảm thức của Chúa Kitô và Giáo Hội - phải cảm thông và sống với toàn thể Giáo Hội. Các Giáo Hội trẻ trung phải duy trì mối thông hiệp mật thiết với toàn thể Giáo Hội và phải liên kết những yếu tố của truyền thống Giáo Hội với nền văn hóa riêng, để nhờ được trao đổi sinh lực cho nhau mà phát triển đời sống Nhiệm Thể 1. Do đó, phải trau dồi những yếu tố thần học, tâm lý và nhân bản có thể góp phần vào việc cổ võ cảm thức thông hiệp cùng toàn thể Giáo Hội.

Nhưng các Giáo Hội này vì thường ở những miền khá nghèo túng trên địa cầu nên vẫn còn thiếu linh mục, đôi khi thiếu một cách hết sức trầm trọng, và nhiều khi thiếu cả viện trợ vật chất nữa. Vì thế, hoạt động truyền giáo liên tục của toàn thể Giáo Hội cần phải trợ cấp cho những Giáo Hội đó, để trước hết giúp cho Giáo Hội địa phương phát triển và giúp cho đời sống Kitô giáo được trưởng thành. Hoạt động truyền giáo này cũng phải giúp đỡ các Giáo Hội tuy đã thành lập từ lâu, nhưng đang bị rơi vào tình trạng thoái hóa và suy yếu.

Tuy nhiên, các Giáo Hội đó phải khôi phục lòng nhiệt thành mục vụ chung và những công cuộc thích ứng, để nhờ đó số ơn kêu gọi vào hàng giáo sĩ giáo phận và vào các Hội Dòng được gia tăng, được phân biệt một cách chắc chắn hơn và được huấn luyện hữu hiệu hơn 2; như vậy dần dần các Giáo Hội đó có thể tự túc và giúp đỡ các Giáo Hội khác.

20. Hoạt động truyền giáo của các Giáo Hội địa phương. Vì Giáo Hội địa phương 31* có nhiệm vụ phản ảnh Giáo Hội hoàn cầu một cách hết sức hoàn hảo, nên phải thành thực nhận định rằng mình cũng được sai tới những kẻ chưa tin Chúa Kitô đang sống trong cùng một địa hạt với mình, để nhờ chứng tá đời sống của mỗi tín hữu và của toàn thể cộng đoàn, Giáo Hội này trở thành dấu chỉ cho họ thấy Chúa Kitô.

Ngoài ra cần phải có thừa tác vụ Lời Chúa để Phúc Âm đến với mọi người. Do đó, trước hết Giám Mục phải là người rao giảng đức tin để dẫn đưa các môn đệ mới đến với Chúa Kitô 3. Ðể chu toàn đứng đắn chức vụ cao trọng đó, ngài phải thấu triệt sâu xa về những hoàn cảnh của đoàn chiên mình, cũng như về những ý niệm thâm sâu của đồng bào về Thiên Chúa; ngài cũng phải cẩn thận để ý đến những biến đổi gây nên bởi những cuộc thành thị hóa, như người ta thường nói, những cuộc di dân và chủ nghĩa lãnh đạm đối với tôn giáo.

Các linh mục bản xứ ở những Giáo Hội trẻ trung phải hăng say bắt tay vào việc rao giảng Phúc Âm bằng cách tổ chức hoạt động chung với những nhà truyền giáo ngoại quốc, những người hợp cùng các ngài làm thành một linh mục đoàn duy nhất, liên kết dưới quyền Giám Mục, không những để chăn dắt các tín hữu và để cử hành việc phụng thờ Thiên Chúa, nhưng còn để rao giảng Phúc Âm cho những người ngoài Giáo Hội. Các ngài phải tỏ ra sẵn sàng, và khi có dịp, các ngài phải hăng say tình nguyện để Ðức Giám Mục sai đi khởi công truyền giáo tại những miền xa xôi và bị bỏ rơi trong giáo phận mình hoặc trong các giáo phận khác.

Các tu sĩ nam nữ và cả giáo dân cũng phải nung đúc lòng nhiệt tâm truyền giáo đó đối với đồng bào mình, nhất là với những người nghèo khổ hơn.

Các Hội Ðồng Giám Mục phải lo lắng tổ chức những khóa tu nghiệp định kỳ về Thánh Kinh, thần học, tu đức và mục vụ, với mục đích là giữa những đổi thay và xáo trộn của thế sự, giáo sĩ được hiểu biết đầy đủ hơn về thần học và phương pháp mục vụ.

Ðàng khác, cũng phải kính cẩn tuân giữ những điều Công Ðồng này đã quyết định, nhất là trong Sắc Lệnh về Chức Vụ và Ðời Sống Linh Mục.

Ðể có thể hoàn thành công việc truyền giáo của Giáo Hội địa phương, cần có những thừa tác viên đủ khả năng, được chuẩn bị đúng lúc và thích hợp với hoàn cảnh của mỗi Giáo Hội địa phương. Thực vậy, con người càng ngày càng tập trung thành từng nhóm, vì thế các Hội Ðồng Giám Mục rất nên thiết lập những kế hoạch chung để tổ chức đối thoại với những nhóm người đó. Nếu trong một vài miền có những nhóm người không muốn đón nhận đức tin công giáo vì không thể thích ứng với hình thức đặc biệt mà Giáo Hội tại đó đã mặc lấy thì ước mong phải lo liệu một phương thức đặc biệt với hoàn cảnh đó 4, cho đến khi tất cả các Kitô hữu có thể đoàn tụ thành một cộng đoàn duy nhất. Còn nếu Tòa Thánh có sẵn những nhà truyền giáo để thực thi mục đích này, thì mỗi Giám Mục phải mời gọi hoặc sẵn sàng đón nhận họ vào giáo phận mình, và ủng hộ công cuộc của họ một cách hữu hiệu.

Ðể nhiệt tâm truyền giáo đó được nẩy nở nơi đồng bào mình, Giáo Hội trẻ trung rất nên tham gia vào công cuộc truyền giáo phổ quát của Giáo Hội càng sớm càng hay, bằng cách sai chính những nhà truyền giáo của mình đi rao giảng Phúc Âm khắp nơi trên hoàn cầu, dù mình còn thiếu giáo sĩ. Thực vậy mối thông hiệp cùng toàn thể Giáo Hội kể như là hoàn tất khi chính các Giáo Hội trẻ trung cũng tích cực tham gia và hoạt động truyền giáo nơi các dân tộc khác.



21. Cổ võ việc tông đồ giáo dân. Giáo Hội chưa được thiết lập thực sự, chưa sống đầy đủ, cũng chưa là dấu chỉ tuyệt hảo của Chúa Kitô giữa loài người, nếu chưa có hàng giáo dân đích thực và nếu hàng giáo dân này chưa cùng làm việc với Hàng Giáo Phẩm 32*. Thật vậy, Phúc Âm không thể đi sâu vào tinh thần, đời sống và sinh hoạt của một dân tộc nếu không có sự hiện diện linh hoạt của giáo dân. Do đó, ngay khi thiết lập Giáo Hội phải hết sức chú tâm đến việc đào tạo một hàng giáo dân Kitô giáo trưởng thành.

Thật vậy, các tín hữu giáo dân cùng một trật hoàn toàn thuộc về Dân Chúa và về xã hội trần gian: họ thuộc về một dân tộc, nơi chôn nhau cắt rốn của họ; họ đã bắt đầu thông dự những kho tàng văn hóa của dân tộc nhờ việc giáo huấn, liên kết với đời sống dân tộc bằng nhiều mối dây xã hội khác nhau, cộng tác vào tiến bộ riêng của dân tộc qua nghề nghiệp của họ, cảm thấy những vấn đề của dân tộc như là những vấn đề của chính họ và cố gắng giải quyết. Lại nữa, họ còn thuộc về Chúa Kitô, vì họ được tái sinh trong Giáo Hội bằng đức tin và phép Rửa, để nhờ đời sống mới và việc làm mới, họ là của riêng Chúa Kitô 5, để mọi sự qui phục Thiên Chúa trong Chúa Kitô và sau cùng để Thiên Chúa là mọi sự trong mọi người 6.

Nhiệm vụ chính của giáo dân, nam cũng như nữ, là làm chứng về Chúa Kitô, làm chứng bằng đời sống và lời nói trong gia đình, trong các đoàn thể xã hội, cũng như trong môi trường nghề nghiệp. Thật vậy, họ phải biểu lộ con người mới đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, trong sự công chính và thánh thiện của chân lý 7. Nhưng họ phải diễn tả nếp sống mới đó trong môi trường xã hội và văn hóa của quê hương, theo truyền thống của dân tộc mình. Chính họ phải hiểu biết nền văn hóa đó, sửa chữa, bảo tồn, và cải tiến theo những hoàn cảnh mới, và sau cùng phải hoàn tất nó trong Chúa Kitô, để niềm tin vào Chúa Kitô và đời sống Giáo Hội không còn xa lạ với xã hội họ sống, nhưng bắt đầu thấm nhiễm và cải hóa xã hội đó. Họ phải liên kết với đồng bào mình bằng tình bác ái chân thành, để trong cách sống của họ xuất hiện một mối dây mới về hiệp nhất và về liên kết đại đồng đã được bắt nguồn từ mầu nhiệm Chúa Kitô. Họ cũng phải gieo rắc đức tin vào Chúa Kitô giữa những người có liên lạc với họ trong đời sống nghề nghiệp; điều bó buộc này càng khẩn thiết hơn vì nhiều người chỉ có thể nghe Phúc Âm và nhận biết Chúa Kitô nhờ các giáo dân sống gần họ. Hơn nữa, nơi nào có thể, giáo dân phải được chuẩn bị để cộng tác trực tiếp hơn với hàng Giáo Phẩm trong việc hoàn tất sứ mệnh đặc biệt là loan báo Phúc Âm và truyền thông giáo lý Kitô giáo ngõ hầu Giáo Hội mới khai sinh thêm vững mạnh.

Vậy các thừa tác viên của Giáo Hội phải quí trọng việc tông đồ khó khăn này của giáo dân. Các ngài phải huấn luyện sao cho giáo dân, với tư cách là chi thể của Chúa Kitô, ý thức về trách nhiệm của mình đối với tất cả mọi người. Các ngài phải dạy dỗ họ thật sâu xa về mầu nhiệm Chúa Kitô, chỉ dẫn họ những phương pháp thực hành, và sát cánh với họ trong những lúc khó khăn, theo tinh thần của Hiến Chế về Giáo Hội và Sắc Lệnh về Tông Ðồ Giáo Dân.

Vì thế, trong khi vẫn giữ đúng chức vụ và trách nhiệm riêng của Chủ Chăn và của giáo dân, toàn thể Giáo Hội trẻ trung phải trở thành chứng tá duy nhất, sống động và vững chắc về Chúa Kitô, để trở nên dấu chỉ rõ ràng của ơn cứu rỗi đã đến với chúng ta trong Chúa Kitô.

22. Khác biệt trong hiệp nhất. Lời Chúa là hạt giống, vừa nẩy mầm trong đất màu mỡ thấm nhuần sương thiêng, vừa thu hút biến đổi và tiêu hóa mầu mỡ đó, để sau cùng mang lại nhiều hoa trái 33*. Thật vậy, tương tự như chương trình Nhập Thể, các Giáo Hội trẻ trung, khi đang được bén rễ trong Chúa Kitô và xây dựng trên nền tảng các Tông Ðồ, qua một cuộc trao đổi kỳ diệu, thu nhận tất cả những sự phong phú của các Dân Tộc đã được trao cho Chúa Kitô làm gia nghiệp 8. Các Giáo Hội đó phải rút ra từ những tập quán và truyền thống, từ lẽ khôn ngoan và nền đạo lý, từ những nghệ thuật và khoa học của dân tộc mình, tất cả những gì có thể góp phần vào việc tuyên xưng vinh quang của Tạo Hóa, làm rạng ngời ân sủng của Ðấng Cứu Chuộc và vào việc tổ chức tốt đẹp đời sống Kitô hữu 9.

Ðể đạt tới ý định đó, thì trong mỗi vùng rộng lớn cùng chung một nền văn hóa, như người ta thường nói, cần phải thúc đẩy việc suy tư về thần học, để nhờ ánh sáng Thánh Truyền của toàn thể Giáo Hội mà khám phá thêm những gì Thiên Chúa đã mạc khải qua hành động và ngôn từ của Ngài, đã được ghi chép trong Sách Thánh và đã được các Giáo Phụ và Quyền Giáo Huấn giải thích. Như thế sẽ nhận thấy rõ ràng hơn những đường lối nào là đức tin có thể tìm gặp lý trí, một khi đã dựa vào triết học hay lẽ khôn ngoan của các dân tộc, và những phương thức nào có thể hòa hợp các phong tục, quan niệm đời sống và trật tự xã hội với lối sống đã được Chúa mạc khải. Nhờ đó sẽ mở ra những con đường để thích nghi sâu xa hơn trong mọi lãnh vực của đời sống Kitô giáo. Nhờ đường lối hành động đó, mọi hình thức chủ nghĩa hòa đồng và chủ nghĩa cá thể sai lạc sẽ bị loại trừ, đời sống Kitô giáo sẽ được thích nghi với tinh thần và đặc tính của từng nền văn hóa 10, những truyền thống đặc thù và những đặc tính riêng của mỗi gia đình dân tộc nhờ được ánh sáng Phúc Âm chiếu soi, sẽ được đón nhận vào sự hiệp nhất công giáo. Sau cùng, các Giáo Hội địa phương mới mẻ với những truyền thống tốt đẹp của mình sẽ có một địa vị riêng trong khi hiệp thông cùng Giáo Hội mà vẫn duy trì nguyên vẹn Quyền Tối Cao của Tòa Phêrô, tòa lãnh đạo toàn thể tập đoàn bác ái 11.

Vậy ước mong, và hơn nữa điều này hoàn toàn thích hợp là các Hội Ðồng Giám Mục ở những vùng rộng lớn cùng chung một nền văn hóa xã hội hiệp nhất với nhau thế nào để có thể đồng tâm hợp ý theo đuổi ý định thích nghi đó.

 



Chú Thích:

28* Hai số 19 và 20 trước kia thuộc chương 2, trong đó Giáo Hội địa phương (riêng biệt) được xem như một kết thúc của hoạt động truyền giáo không hơn không kém. Nhưng vì các Giám Mục xứ truyền giáo can thiệp, nên hai số đó được để riêng thành một chương đầy đủ ý nghĩa. Hành động này quy định rõ ràng quy chế của một Giáo Hội trẻ trung trên đà trưởng thành, dù còn cần các Giáo Hội khác trợ giúp. Các Giáo Hội trẻ không phải là những nhóm người công giáo chung quanh Giáo Hội phổ quát, nhưng tăng trưởng trong Giáo Hội phổ quát và như thế cũng góp phần vào đặc tính vừa duy nhất vừa khác biệt của Giáo Hội Công Giáo. Phương diện mới này dĩ nhiên có những hậu quả. Giáo Hội phổ quát không những lo lắng cách riêng nhưng còn phải biết nghe và quan tâm đến các yêu sách của các Giáo Hội trẻ. (Trở lại đầu trang)

29* Các Giáo Hội trẻ phải tiến đến sự trưởng thành và phải trưởng thành, vì sự viên mãn hay kết quả của việc vun trồng Giáo Hội là Giáo Hội trưởng thành. Vun trồng Giáo Hội địa phương là công trình của một đời sống tuần tự như sự tăng trưởng của cây cối hay của con người; khó mà quy định một cách chính xác lúc nào một Giáo Hội mới bắt đầu trưởng thành. Ðoạn thứ nhất phác họa những nét chính yếu của một Giáo Hội trưởng thành. (Trở lại đầu trang)

30* Ðoạn thứ hai và những đoạn tiếp nói rõ một Giáo Hội trẻ trung có thể trưởng thành bằng những phương thế nào. (Trở lại đầu trang)

1 Xem Gioan XXIII, Tđ. Princeps Pastorum, 28-11-1959: AAS 51 (1959), trg 838. (Trở lại đầu trang)

2 Xem CÐ Vat. II, Sắc lệnh về Chức Vụ và Ðời Sống Linh Mục, số 11. - N.t., Sắc lệnh về việc Ðào Tạo Linh Mục, số 2. (Trở lại đầu trang)

31* Giáo Hội địa phương hay Giáo Hội riêng biệt, theo bản văn là toàn thể các Giáo Hội "địa phương" trong một miền hay trong một nước nhất định; danh gọi đó chỉ tất cả các giáo phận hay những giáo khu trong một nước. Cả số 20 nhấn mạnh một Giáo Hội mới trưởng thành có bổn phận phải biến thành một Giáo Hội truyền giáo chủ động và phải hoạt động, truyền giáo trong các vùng chung quanh hay ngay cả ở nước ngoài. (Trở lại đầu trang)

3 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 25: AAS 57 (1965), trg 29. (Trở lại đầu trang)

4 Xem CÐ Vat. II, Sắc lệnh về Chức Vụ và Ðời Sống Linh Mục, số 10: để công việc mục vụ đặc biệt cho những đoàn thể xã hội khác nhau được dễ dàng, phải tiên liệu thiết lập các Giám chức biệt hạt trong mức độ sự tổ chức đứng đắn của việc tông đồ đòi hỏi. (Trở lại đầu trang)

32* Cả số 21 diễn tả vai trò giáo dân trong Giáo Hội trẻ: biểu dương đức tin, truyền giáo cách ý thức, quy mô, hữu hiệu. Việc tông đồ giáo dân này cũng là một bằng chứng Giáo Hội trẻ đã trưởng thành. (Trở lại đầu trang)

5 Xem 1Cor 15,23. (Trở lại đầu trang)

6 Xem 1Cor 15,28. (Trở lại đầu trang)

7 Xem Eph 4,24. (Trở lại đầu trang)

33* Bằng chứng cuối cùng của một Giáo Hội trẻ trung trưởng thành là đem các giá trị văn hóa riêng biệt của một dân tộc vào Giáo Hội. Phương pháp đồng hóa và sáp nhập được diễn tả trong số 22. Ở đây các vấn đề phần lớn được khảo cứu theo ánh sáng mạc khải. Nhờ các Giáo Hội địa phương thích nghi sâu xa với các quốc gia, nên Giáo Hội phổ quát mới được sáng ngời bằng sự khác nhau trong duy nhất. Tính cách duy nhất này còn được bảo đảm nhờ một đức tin, một tình bác ái, một đời sống bí tích, một quyền cai trị tối cao. (Trở lại đầu trang)

8 Xem Tv 2,8. (Trở lại đầu trang)

9 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 13: AAS 57 (1965), trg 17-18. (Trở lại đầu trang)

10 Xem Phaolô VI, Diễn từ đọc trong lễ phong thánh cho các Vị Tử Ðạo Uganda: AAS 56 (1964), trg 908. (Trở lại đầu trang)

11 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 13: AAS 57 (1965), trg 18. (Trở lại đầu trang)
Chương IV
Các Nhà Truyền Giáo 34*

 23. Ơn gọi truyền giáo. Dù mọi môn đệ Chúa Kitô đều có bổn phận góp phần vào công cuộc gieo vãi đức tin 1, nhưng Chúa Kitô luôn gọi, trong số các môn đệ Người, những kẻ chính Người muốn, để họ ở với Người và để Người sai đi giảng dạy muôn dân 2. Vì thế nhờ Chúa Thánh Thần, Ðấng tùy ý ban phát các đặc sủng để mưu lợi ích chung 3, Chúa Kitô linh ứng ơn kêu gọi truyền giáo trong tâm hồn từng cá nhân, đồng thời thúc đẩy trong Giáo Hội có những tổ chức 4 đảm nhận như một bổn phận riêng nhiệm vụ truyền bá Phúc Âm 35* của toàn thể Giáo Hội.

Do đó, những người có năng khiếu bẩm sinh thích ứng, đủ khả năng tinh thần và trí tuệ, sẵn sàng lãnh nhận công cuộc truyền giáo, đều được kể là có ơn gọi đặc biệt 5, 36* dù họ là người địa phương hay ngoại quốc, là linh mục, tu sĩ hay giáo dân.

Ðược quyền bính hợp pháp sai đi, do đức tin và đức vâng phục, họ ra đi đến với những người xa Chúa Kitô; họ được tách riêng ra để chu toàn công việc mà họ được chọn để thi hành 6 như là những thừa tác viên của Phúc Âm, "để việc phụng hiến dân ngoại làm lễ vật được chấp nhận và được thánh hóa trong Chúa Thánh Thần" (Rm 15,16).

24. Ðường tu đức của nhà truyền giáo. Tuy nhiên, con người phải đáp lại lời kêu gọi của Thiên Chúa mà hoàn toàn dấn thân Phục vụ Phúc Âm 37*, chứ không nghe theo xác thịt và máu mủ 7. Nhưng sự đáp lại này không thể thực hiện nếu không được Chúa Thánh Thần thúc đẩy và củng cố. Thật vậy, kẻ được sai đi phải thấm nhuần đời sống và sứ mệnh của Ðấng đã "tự hủy mình mà nhận lấy thân phận tôi tớ" (Ph 2,7). Do đó, họ phải sẵn sàng để suốt đời đứng vững trong ơn gọi của mình, phải từ bỏ mình và những gì mình có từ trước đến nay và "trở nên mọi sự cho mọi người" 8.

Trong khi rao giảng Phúc Âm giữa muôn dân, nhà truyền giáo phải mạnh dạn và tin tưởng làm cho người ta nhận biết mầu nhiệm Chúa Kitô mà họ là sứ giả, đến nỗi trong Người, họ dám nói như phải nói 9, và không xấu hổ về ô nhục của thập giá. Theo gương Thầy mình, Ðấng hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, họ phải tỏ ra ách Người êm ái và gánh Người nhẹ nhàng 10. Họ phải làm chứng về Chúa của họ bằng đời sống Phúc Âm đích thực 11, đầy kiên nhẫn, đại lượng, nhân hậu, yêu mến chân thành 12, và nếu cần, họ sẽ đổ máu ra. Họ sẽ nài xin Thiên Chúa lòng can đảm và sức mạnh để nhận ra nguồn vui sung mãn trong nhiều thử thách khổ tâm và thiếu thốn cực độ 13. Họ phải xác tín rằng đức vâng phục là sức mạnh đặc biệt của những thừa tác viên của Chúa Kitô, Ðấng đã dùng sự vâng phục để cứu nhân loại.

Những nhà rao giảng Phúc Âm đừng hờ hững với ân sủng đã lãnh nhận mà phải tự canh tân tâm trí mỗi ngày 14. Vì thế, các Ðấng Bản Quyền và Bề Trên phải hội họp các nhà truyền giáo vào những thời gian nhất định, để họ được củng cố bằng niềm cậy trông của ơn gọi, và được canh tân trong thừa tác vụ tông đồ; lại cũng nên lập các cơ sở thích nghi với mục đích này.

25. Huấn luyện đời sống thiêng liêng và luân lý. Ðể đảm nhận công tác cao trọng đó, nhà truyền giáo tương lai phải được huấn luyện đặc biệt về đời sống thiêng liêng và luân lý 15. Thực vậy, họ phải mau mắn khởi xướng, kiên trì hoàn tất công việc, bền chí trong khó khăn, nhẫn nại và can đảm chịu đựng nỗi cô quạnh, sự mệt nhọc và những cố gắng vô hiệu. Họ sẽ đến cùng mọi người với tâm hồn rộng mở, với con tim bao dung, tình nguyện lãnh nhận nhiệm vụ được giao phó, quảng đại thích nghi cả với những phong tục khác thường của các dân tộc và những điều kiện sinh hoạt đổi thay, đồng tâm, tương ái cộng tác với anh em và mọi người đang hiến thân cho cùng một công việc, để theo gương cộng đoàn thời các Tông Ðồ, họ cùng với các tín hữu họp thành một con tim và một tâm hồn duy nhất 16.

Ngay trong thời kỳ huấn luyện, những tâm hướng đó phải được chuyên tâm thực hành, trau dồi và phát triển, nuôi dưỡng bằng đời sống thiêng liêng. Thấm nhuần đức tin sống động và đức cậy vững vàng, nhà truyền giáo phải là con người cầu nguyện; phải được nung đúc bằng tinh thần can đảm, yêu thương và độ lượng 17; phải học quen tự túc trong mọi hoàn cảnh 18; phải lấy tinh thần hy sinh mà mang trên mình cuộc tử nạn của Chúa Giêsu để sự sống Chúa Giêsu tác động trong những người họ được sai đến 19; vì lòng nhiệt thành với các linh hồn, họ phải tự nguyện hy sinh mọi sự và tận hiến chính bản thân cho các linh hồn 20, để như vậy họ "gia tăng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân bằng việc thi hành nhiệm vụ hằng ngày" 21. Như thế, vâng theo ý Ðức Chúa Cha, họ sẽ cùng với Chúa Kitô tiếp tục sứ mệnh của Người dưới quyền phẩm trật trong Giáo Hội, và sẽ cộng tác vào mầu nhiệm cứu rỗi.



26. Huấn luyện giáo lý và làm tông đồ. Như những thừa tác viên xứng đáng của Chúa Kitô, những ai được sai đến với các dân tộc phải được nuôi dưỡng "bằng lời lẽ đức tin và giáo lý lành thánh" (1Tm 4,6) mà họ sẽ múc lấy, trước hết từ Thánh Kinh, trong khi đào sâu Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Ðấng họ phải rao giảng và làm chứng.

Bởi vậy, mọi nhà truyền giáo - linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân - đều phải được chuẩn bị và đào tạo theo hoàn cảnh riêng của mỗi người để khỏi thiếu những khả năng đáp ứng với những đòi hỏi của công việc mai sau 22. Ngay từ đầu, việc huấn luyện giáo thuyết cho họ phải được tổ chức thế nào để vừa bao hàm tính cách phổ quát của Giáo Hội vừa gồm sự dị biệt của các dân tộc. Ðiều đó cũng có giá trị đối với các môn học mà họ phải trau dồi để hoàn thành thừa tác vụ, cũng như đối với những khoa học hữu ích khác, giúp họ có kiến thức chung thuộc về quá khứ cũng như trong hiện tại về các dân tộc, các nền văn hóa, các tôn giáo. Như thế nghĩa là bất cứ ai sẽ đến với dân tộc khác, phải hết sức mến chuộng di sản, tiếng nói và phong tục của dân tộc đó. Nhà truyền giáo tương lai trước hết cần phải miệt mài học hỏi khoa truyền giáo, tức là thấu hiểu giáo thuyết và những quy tắc của Giáo Hội về hoạt động truyền giáo, biết đường lối mà các nhà rao giảng Phúc Âm đã từng trải qua bao thế kỷ, và cả tình trạng truyền giáo hiện thời, cùng những phương pháp hiện nay được coi là hiệu nghiệm hơn cả 23.

Mặc dầu việc giáo dục toàn hảo này chú tâm đặc biệt đến phương diện mục vụ, nhưng cũng phải chú ý tới việc đào tạo tinh thần tông đồ một cách đặc biệt và có hệ thống cả về giáo thuyết lẫn thực hành 24.

Phải có một số rất đông nam nữ tu sĩ được học hỏi và chuẩn bị kỹ lưỡng về nghệ thuật dạy giáo lý để họ có thể cộng tác vào việc tông đồ một cách đắc lực hơn nữa.

Cả những người chỉ đảm nhận một phần công tác truyền giáo trong một thời gian cũng cần phải được huấn luyện tương xứng với hoàn cảnh của họ.

Những loại huấn luyện này phải được bổ túc ở chính những nơi mà họ được sai tới, để các nhà truyền giáo hiểu biết rộng rãi hơn về lịch sử, cơ cấu xã hội và tập quán của các dân tộc, thấu triệt trật tự luân lý, luật lệ tôn giáo và cả những ý tưởng thâm sâu mà theo truyền thống thiêng liêng, các dân tộc có quan niệm về Thiên Chúa, về vũ trụ và về con người 25. Do đó, họ phải học biết tiếng nói đến mức độ có thể xử dụng thông thạo và trôi chảy, như thế họ tìm thấy đường lối đến với tâm trí và con tim con người một cách dễ dàng hơn 26. Ngoài ra, họ phải được khai tâm đúng đắn về những nhu cầu mục vụ riêng biệt.

Cũng phải có một số nhà truyền giáo được chuẩn bị kỹ lưỡng hơn tại những Học Viện Truyền Giáo, hoặc những Phân Khoa hay Ðại Học khác để họ có thể thi hành những trách vụ đặc biệt một cách hữu hiệu hơn 27, và nhờ sự uyên bác của mình mà có thể giúp đỡ những nhà truyền giáo khác trong việc truyền giáo, nhất là trong thời đại chúng ta với nhiều khó khăn đồng thời cũng nhiều thuận tiện. Lại nữa, cũng rất mong ước các Hội Ðồng Giám Mục Miền có sẵn trong tay nhiều nhà chuyên môn như thế và xử dụng kiến thức, kinh nghiệm của họ một cách hữu hiệu trong những nhu cầu của chức vụ mình. Cũng nên có những người biết xử dụng thông thạo các dụng cụ kỹ thuật và truyền thông xã hội mà mọi người phải quý chuộng tầm quan trọng đặc biệt của chúng.

27. Các hội thừa sai. Tuy tất cả những điều đó đều hoàn toàn cần thiết cho bất cứ ai được sai đến với các dân tộc, nhưng từng cá nhân khó có thể thực sự đạt tới được. Hơn nữa, vì kinh nghiệm đã chứng minh rằng chính công việc truyền giáo không thể do từng người riêng rẽ chu toàn được, nên những người có cùng một ơn kêu gọi sẽ hợp thành những Tổ Chức, 38* để nhờ chung sức với nhau, họ được huấn luyện một cách thích hợp và theo đuổi công việc đó nhân danh Giáo Hội và theo ý muốn của hàng Giáo Phẩm. Từ nhiều thế kỷ nay, những Tổ Chức này đã mang gánh nặng của tháng ngày và của nóng nực, đã tự hiến trọn vẹn hoặc một phần cho công việc truyền giáo vất vả. Thường thường, Tòa Thánh ủy thác cho họ việc rao giảng Phúc Âm cho những vùng đất rộng lớn, ở đó họ tụ họp cho Thiên Chúa một dân tộc mới, một Giáo Hội địa phương liên kết chặt chẽ với các chủ chăn mình. Ðối với các Giáo Ðoàn mà họ đã xây dựng bằng mồ hôi và cả bằng máu mình, họ đem hết lòng nhiệt thành và kinh nghiệm để phục vụ trong tinh thần cộng tác huynh đệ, hoặc bằng việc săn sóc các linh hồn, hoặc bằng cách chu toàn những công tác đặc biệt nhằm lợi ích chung.

Ðôi khi họ sẽ đảm nhận một số công tác khẩn cấp hơn cho cả một miền, chẳng hạn việc rao giảng Phúc Âm cho những nhóm người hay những dân tộc, mà vì những lý do riêng, có lẽ chưa nhận được, hoặc vẫn còn chống lại sứ điệp Phúc Âm 28.

Nếu cần, họ phải sẵn sàng dùng kinh nghiệm mình mà huấn luyện và giúp đỡ những người hiến thân trong một thời gian cho hoạt động truyền giáo.

Vì những lý do trên và vì vẫn còn nhiều dân tộc phải được dẫn về với Chúa Kitô, nên những tổ chức đó còn hết sức cần thiết.



 



Chú Thích:

34* Hoạt động truyền giáo có bản tính và mục đích riêng biệt. Vì thế nó phải có những người thợ được chỉ định và được đặc biệt chuẩn bị. Ðó là các vị truyền giáo. Có những cái nhìn mơ hồ được phổ biến đó đây quan niệm rằng các nhà truyền giáo chỉ có tính cách phụ thuộc, và làm lu mờ hình ảnh cũng như vai trò của họ. Nhưng các Giám Mục xứ truyền giáo và với các ngài cả Công Ðồng mong ước rằng các nhà truyền giáo phải được xác định một cách trọn vẹn, được diễn tả và khuyến khích qua một sắc lệnh. Thật vậy, dù cả Giáo Hội phải truyền giáo, nhưng Thánh Kinh cũng cho thấy có một số người được cắt đặt rao giảng Phúc Âm (CvTđ 13,2; Rm 1,1). Chủ đề chương IV là ơn kêu gọi, ý niệm, vai trò và việc huấn luyện một nhà truyền giáo. (Trở lại đầu trang)

1 CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 17: AAS 57 (1965), trg 21. (Trở lại đầu trang)

2 Xem Mc 3,13t. (Trở lại đầu trang)

3 Xem 1Cor 12,11. (Trở lại đầu trang)

4 "Tổ chức" ở đây hiểu là các Dòng Tu, Hội Dòng, Tu Hội và các Hiệp Hội làm việc truyền giáo. (Trở lại đầu trang)

35* Ở đây (ngay chương này cũng như chương VI) danh từ truyền bá Phúc Âm hiểu theo nghĩa rộng và bao hàm: việc truyền giáo, rao giảng Phúc Âm và vun trồng Giáo Hội, gọi tắt là công việc truyền giáo. (Trở lại đầu trang)

5 Xem Piô XI, Tđ. Rerum Ecclesiae, 28-2-1926: AAS 18 (1926), trg 69-71. - Piô XII, Tđ. Saeculo exeunte, 13-6-1940: AAS 32 (1940), trg 256; Tđ. Evangelii praecones, 2-6-1951: AAS 43 (1951), trg 506. (Trở lại đầu trang)

36* Ðoạn này cho ta một khái niệm đúng về nhà truyền giáo và hình như cải chính một ý tưởng thông thường về nhà truyền giáo. Theo dân chúng, nhà truyền giáo là một người da trắng, một người Âu Châu, một người lìa bỏ quê hương và văn minh của mình. Những phương diện đó có thể đúng, nhưng không thiết yếu. Khi giải thích đoạn này cho các Nghị Phụ, Ủy Ban đặc trách vấn đề truyền giáo đã nêu lên 5 yếu tố trong khái niệm về nhà truyền giáo: nhà truyền giáo phải là: 1) người được tách rời, nghĩa là được đại diện để thi hành một hoạt động chuyên biệt; 2) được Bản Quyền Giáo Hội sai đi; 3) phải ra đi, nghĩa là mang Giáo Hội đến những nơi chưa có Giáo Hội; 4) đến nơi xa, không nhất thiết phải hiểu theo nghĩa địa lý, nhưng theo nghĩa thiêng liêng: đi từ một nơi Giáo Hội được vun trồng đến một nơi ngoại giáo, nơi mà Giáo Hội còn vắng mặt và phải được vun trồng; 5) để rao giảng Phúc Âm như một sứ giả chân chính và thi hành mọi công việc của một vị truyền giáo. Thật vậy, Sắc Lệnh nêu lên các đặc tính thiết yếu đó. Nếu vậy, những ai hội đủ các yếu tố trên, đều là những nhà truyền giáo chân chính, dù họ là người địa phương, ngoại quốc, linh mục, tu sĩ hay giáo dân. (Trở lại đầu trang)

6 Xem CvTđ 13,2. (Trở lại đầu trang)

37* Bức chân dung vị truyền giáo được phác họa ra đây là theo mẫu Chúa Kitô. Vị truyền giáo biểu lộ các đặc tính chính yếu của Người. Ðang khi cố gắng diễn tả hết sức hình ảnh Chúa Kitô nơi mình thì vị truyền giáo đồng thời phải trở nên chính Người. Ngay từ đoạn đầu, một chương trình vĩ đại cho vị truyền giáo đã được phác họa: hoàn toàn ràng buộc vào việc rao giảng Phúc Âm sẵn sàng sống trong ơn gọi đó suốt đời, khước từ chính bản thân và tất cả những gì mình có. Các yêu sách đó nặng nề đến nỗi không ai có thể đáp ứng được nếu không có sự hỗ trợ và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. (Trở lại đầu trang)

7 Xem Gal 1,16. (Trở lại đầu trang)

8 Xem 1Cor 9,22. (Trở lại đầu trang)

9 Xem Eph 6,19tt.; CvTđ 4,31. (Trở lại đầu trang)

10 Xem Mt 10,29tt. (Trở lại đầu trang)

11 Xem Benedictô XV, Tđ. Maximum illud 30-11-1919: AAS 11 (1919), trg 449-450. (Trở lại đầu trang)

12 Xem 2Cor 6,4tt. (Trở lại đầu trang)

13 Xem 2Cor 8,2. (Trở lại đầu trang)

14 Xem 1Tm 4,14; Eph 4,23; 2Cor 4,16. (Trở lại đầu trang)

15 Xem Benedictô XV, Tđ. Maximum illud 30-11-1919: AAS 11 (1919), trg 448-449. - Piô XII, Tđ. Evangelii Praecones, 2-6-1951: AAS 43 (1951) trg 507.

Việc đào tạo các linh mục truyền giáo cũng được CÐ Vat. II đề cập trong Sắc lệnh về việc Ðào Tạo Linh Mục. (Trở lại đầu trang)



16 Xem CvTđ 2,42; 4,32. (Trở lại đầu trang)

17 Xem 2Tm 1,7. (Trở lại đầu trang)

18 Xem Ph 4,11. (Trở lại đầu trang)

19 Xem 2Cor 4,10tt. (Trở lại đầu trang)

20 Xem 2Cor 12,15tt. (Trở lại đầu trang)

21 CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 41: AAS 57 (1965), trg 46. (Trở lại đầu trang)

22 Xem Benedictô XV, Tđ. Maximum illud, 30-11-1919: AAS 11 (1919), trg 440. - Piô XII, Tđ. Evangelii praecones, 2-6-1951: AAS 43 (1951), trg 507. (Trở lại đầu trang)

23 Benedictô XV, Tđ. Maximum illud, 30-11-1919: AAS 11 (1919), trg 448. - Thánh Bộ Truyền Bá Ðức Tin, Sắc lệnh 20-5-1923: AAS 15 (1923), trg 369-370. - Piô XII, Tđ. Saeculo exeunte, 2-6-1940: AAS 32 (1940), trg 256. - n.t., Tđ. Evangelii praecones, 2-6-1951: AAS 43 (1951), trg 507. - Gioan XXIII, Tđ. Princeps Pastorum, 28-11-1959: AAS 51 (1959), trg 843-844. (Trở lại đầu trang)

24 CÐ Vat. II, Sắc lệnh về việc Ðào Tạo Linh Mục, số 19-21. - X. thêm Tông hiến Sedes Sapientiae với những qui luật chung, 21-5-1956: AAS 48 (1956), trg 354-365. (Trở lại đầu trang)

25 Piô XII, Tđ. Evangelii praecones: AAS 43 (1951), trg 523-524. (Trở lại đầu trang)

26 Benedictô XV, Tđ. Maximum illud: AAS 11 (1919), trg 448. - Piô XII, Tđ. Evangelii praecones: AAS 43 (1951), trg 507. (Trở lại đầu trang)

27 Xem Piô XII, Tđ. Fidei donum, 15-6-1957: AAS 49 (1957), trg 234. (Trở lại đầu trang)

38* Những Tổ Chức truyền giáo dưới những hình thức khác nhau trong số này mang đầy đủ ý nghĩa, vì chỉ có những tổ chức này mới có thể bảo đảm công trình chuẩn bị và thích nghi kỹ thuật cho những nỗ lực truyền giáo. Tuy nhiên, những quả quyết đáng ca tụng đó không giải quyết các vấn đề rất nghiêm trọng được đặt ra, nhất là trong thời đại chúng ta, về cơ cấu của những tổ chức truyền giáo thuần túy, về những tương quan với Giám Mục, với những thể thức hoạt động truyền giáo. (Trở lại đầu trang)

28 Xem CÐ Vat. II, Sắc lệnh về Chức Vụ và Ðời Sống Linh Mục, số 10, chỗ nói về các giáo phận, các giám mục biệt hạt, và các miền tương tự. (Trở lại đầu trang)
Chương V
Tổ Chức Hoạt Ðộng Truyền Giáo 39*

 28. Nhập đề. Các Kitô hữu vì có những ân huệ khác nhau 1, nên mỗi người phải cộng tác vào Phúc Âm tùy theo hoàn cảnh thuận tiện, tài năng đặc sủng và chức vụ 2 của mình. Do đó tất cả mọi người, kẻ gieo và người gặt 3, kẻ trồng và người tưới, phải hiệp nhất với nhau 4, để "khi cùng nhau hướng về một mục đích cách tự do và trật tự" 5, họ đồng tâm gắng sức xây dựng Giáo Hội.

Vì thế công việc của những người rao giảng Phúc Âm và sự trợ giúp của các Kitô hữu khác phải được hướng dẫn và tập trung thế nào, để trong mọi lãnh vực hoạt động và hợp tác truyền giáo "mọi sự đều được thực hiện theo trật tự" (1Cor 14,40).



29. Tổ chức tổng quát. Vì nhiệm vụ loan báo Phúc Âm cho toàn thế giới trước hết là việc của Giám Mục Ðoàn 6, nên Thượng Hội Ðồng Giám Mục, tức "Hội Ðồng Giám Mục thường trực để lo cho toàn thể Giáo Hội" 7, giữa những công tác có tầm quan trọng tổng quát khác 8, phải đặc biệt lưu tâm đến hoạt động truyền giáo, một phận vụ rất quan trọng và rất thánh thiện của Giáo Hội 9.

Ðể lo cho các xứ truyền giáo và cho mọi hoạt động truyền giáo, phải có một Thánh Bộ duy nhất có thẩm quyền, tức là "Thánh Bộ Truyền Bá Ðức Tin"; Thánh Bộ này điều khiển và phối hợp chính công cuộc truyền giáo cũng như sự hợp tác truyền giáo trên toàn thế giới; tuy nhiên quyền của các Giáo Hội Ðông Phương vẫn còn nguyên vẹn 10.

Vẫn biết Chúa Thánh Thần có nhiều cách thúc đẩy tinh thần truyền giáo trong Giáo Hội Chúa, và đôi khi đã đi trước hành động của những vị hướng dẫn đời sống Giáo Hội; tuy nhiên, riêng về phần mình, Thánh Bộ này cũng phải phát động ơn kêu gọi và tinh thần truyền giáo, nhiệt tâm và kinh nguyện cho các xứ truyền giáo, và phải thông báo những tin tức chính xác và đầy đủ về những xứ đó. Thánh Bộ cũng phải cổ võ và phân phối các nhà truyền giáo tùy nhu cầu khẩn cấp hơn của các miền. Thánh Bộ lại phải sắp đặt kế hoạch hoạt động cho có quy củ, ban bố những tiêu chuẩn hướng dẫn và những nguyên tắc thích nghi với việc rao giảng Phúc Âm, và thúc đẩy công việc đó nữa. Thánh Bộ phải phát động và phối hợp việc đóng góp hữu hiệu tiền trợ cấp và phân phát tùy theo nhu cầu hay lợi ích, theo diện tích, theo số tín hữu và lương dân, theo số công tác và tổ chức cũng như theo số thừa tác viên và nhà truyền giáo.

Hợp với Văn Phòng cổ võ sự hiệp nhất các Kitô hữu, Thánh Bộ phải tìm đường lối và phương tiện để tạo ra cũng như tổ chức sự cộng tác huynh đệ và cả việc hòa hợp với những kế hoạch truyền giáo của các cộng đoàn Kitô giáo khác, hầu tẩy trừ các gương xấu chia rẽ càng nhiều càng hay.

Bởi vậy Thánh Bộ này cần phải vừa là phương tiện điều hành, vừa là cơ quan chỉ đạo sống động, biết xử dụng những phương pháp khoa học và những phương tiện thích nghi với các hoàn cảnh hiện đại, nghĩa là chú trọng đến các khảo cứu hiện thời về thần học, phương pháp học và mục vụ truyền giáo.

Trong việc điều hành Thánh Bộ này, phải có phần tích cực với phiếu quyết định của những đại biểu được chọn trong số tất cả những người cộng tác vào công cuộc truyền giáo: đó là các Giám Mục từ khắp hoàn cầu, sau khi đã lãnh ý các Hội Ðồng Giám Mục và những vị Giám Ðốc các tổ chức và các Hội Giáo Hoàng, theo cách thức và quy tắc do Ðức Giáo Hoàng ấn định. Tất cả những vị này được triệu tập theo định kỳ để thực thi công việc điều hành tối cao của toàn thể công cuộc truyền giáo dưới quyền Ðức Giáo Hoàng.

Thánh Bộ này cũng phải có một Ủy Ban Cố Vấn thường trực, gồm những người chuyên môn, đầy kiến thức và kinh nghiệm; trong các công việc của họ, những người này còn có nhiệm vụ thu thập những tài liệu cần biết về hoàn cảnh địa phương của các miền và về tâm tính của những nhóm người khác nhau, cũng như về những phương pháp cần phải áp dụng cho việc rao giảng Phúc Âm và đưa ra những kết luận có nền tảng khoa học cho công cuộc truyền giáo và việc cộng tác truyền giáo.

Những Hội Dòng Nữ, cũng như các công cuộc địa phương giúp các xứ truyền giáo và cả những tổ chức giáo dân, nhất là những tổ chức quốc tế, đều phải được đại diện một cách thích đáng.



30. Tổ chức địa phương ở các xứ truyền giáo. Ðể thi hành công cuộc truyền giáo này đạt tới mục đích và kết quả, mọi người làm việc truyền giáo phải có một "con tim duy nhất và một tâm hồn duy nhất" (CvTđ 4,32).

Ðức Giám Mục 40* là vị chỉ huy và là trung tâm hiệp nhất việc tông đồ giáo phận, có nhiệm vụ phát động, điều khiển và phối hợp hoạt động truyền giáo thế nào để duy trì và cổ võ lòng nhiệt thành của những người tham gia vào công việc này. Hết mọi nhà truyền giáo, kể cả những tu sĩ miễn trừ, phải phục quyền Ngài trong những công tác nhằm thi hành việc tông đồ thánh 11. Ðể phối hợp công việc tốt đẹp hơn, Ðức Giám Mục nếu có thể nên thiết lập Hội Ðồng Mục Vụ, trong đó giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đều được góp phần qua những đại biểu được tuyển chọn. Ngoài ra, Giám Mục phải lo liệu để hoạt động tông đồ không chỉ giới hạn cho những người đã tòng giáo, nhưng phải dành một phần nhân lực và vật lực tương đương vào việc rao giảng Phúc Âm cho những người ngoài Kitô giáo.



31. Phối hợp hoạt động trong miền. Các Hội Ðồng Giám Mục phải đồng lòng cứu xét những chuyện quan trọng hơn và những vấn đề khẩn cấp hơn, nhưng không được xem nhẹ những dị biệt địa phương 12. Ðể khỏi phân tán nhân lực và vật lực còn thiếu thốn, và để khỏi gia tăng những công cuộc không cần thiết, nên hợp lực thiết lập những công tác phục vụ lợi ích chung, thí dụ chủng viện, các trường cao đẳng hay kỹ thuật, những trung tâm mục vụ, giáo lý, phụng vụ và cả những trung tâm cho các phương tiện truyền thông xã hội.

Cũng phải tùy tiện mà thiết lập sự cộng tác như vậy giữa các Hội Ðồng Giám Mục khác nhau.



32. Phối hợp hoạt động của các tổ chức. Cũng nên phối hợp hoạt động của các Tổ Chức hay Hội Ðoàn trong Giáo Hội. Mọi tổ chức đó, bất cứ thuộc loại nào, trong bất cứ điều gì liên quan đến chính hoạt động truyền giáo, đều phải tùy phục Ðấng Bản Quyền địa phương. Vì thế, sẽ rất hữu ích nếu đi đến những hợp đồng riêng để qui định những liên lạc giữa Ðấng Bản Quyền và vị Giám Mục của Tổ Chức.

Khi một địa hạt được ủy thác cho một Tổ Chức nào, thì Bề Trên của Giáo Hội địa phương và của Tổ Chức đó phải để tâm qui hướng mọi sự đến mục đích này là để cộng đoàn Kitô giáo mới mẻ được phát triển thành một Giáo Hội địa phương; việc quản trị Giáo Hội này sẽ được trao cho Chủ Chăn cùng với hàng giáo sĩ riêng của mình vào lúc thuận tiện. Sau khi việc ủy thác một địa hạt chấm dứt, một hoàn cảnh mới sẽ phát sinh, khi đó các Hội Ðồng Giám Mục và các Tổ Chức phải đồng lòng ấn định những tiêu chuẩn hướng dẫn mối tương quan giữa các Ðấng Bản Quyền và các Tổ Chức 13. Còn Tòa Thánh có nhiệm vụ phác họa những nguyên tắc tổng quát để theo đó mà ký kết những hợp đồng miền, hoặc cả những hợp đồng riêng tư nữa.

Tuy các Tổ Chức sẵn sàng tiếp tục công việc đã khởi xướng, bằng cách cộng tác vào các thừa tác vụ thông thường là coi sóc các linh hồn, nhưng khi hàng giáo sĩ địa phương tăng triển, phải trù liệu để các Tổ Chức theo mức độ thích hợp với mục đích mình, vẫn còn trung thành với chính giáo phận bằng cách quảng đại lãnh nhận những công tác đặc biệt hay một vùng nào đó trong giáo phận.

33. Phối hợp giữa các tổ chức. Những Tổ Chức 41* đang chăm lo công việc truyền giáo trong cùng một địa hạt phải tìm đường lối và phương pháp phối hợp công tác. Vì thế rất cần phải có những Hội Ðồng Nam Tu và Hiệp Hội Nữ Tu với sự tham gia của mọi tổ chức trong cùng một nước hay một miền. Các Hội Ðồng này phải tìm xem có thể cùng nhau cố gắng làm được những gì, và phải liên kết chặt chẽ với các Hội Ðồng Giám Mục.

Vì lý do tương tự, tất cả những điều trên cũng nên được mang ra áp dụng vào việc cộng tác giữa những Tổ Chức truyền giáo ngay tại quê hương, để có thể giải quyết các vấn đề và các công cuộc chung một cách dễ dàng và ít tốn kém hơn, chẳng hạn như việc huấn luyện về giáo thuyết cho các nhà truyền giáo tương lai, những khóa học cho những nhà truyền giáo, những liên lạc với chính quyền hay với những cơ quan quốc tế và siêu quốc gia.



34. Phối hợp giữa các viện khoa học. Một hoạt động truyền giáo được thực thi đúng đắn và có tổ chức chặt chẽ đòi hỏi các thợ rao giảng Phúc Âm phải được chuẩn bị cho nhiệm vụ mình một cách khoa học, nhất là để đối thoại với các tôn giáo và văn hóa ngoài Kitô giáo. Họ phải được giúp đỡ một cách hữu hiệu ngay trong khi thi hành chức vụ; do đó ước mong rằng: để giúp đỡ các xứ truyền giáo, cần có sự cộng tác huynh đệ và quảng đại giữa những Tổ Chức khoa học đang nghiên cứu khoa truyền giáo và những môn học hay nghệ thuật khác giúp ích cho các xứ truyền giáo như nhân chủng học, ngôn ngữ học, lịch sử học, tôn giáo học, xã hội học, những nghệ thuật mục vụ và những môn tương tự.

 



Chú Thích:

39* Công việc truyền giáo thật vĩ đại, về phương diện địa lý cũng như về mục đích nhằm thực hiện. Một công trình như thế muốn thành công, cần phải có tổ chức. Chương V đề cập đến tổ chức này. Vì hoạt động truyền giáo là một bổn phận chính yếu của Giáo Hội, nên có thể khảo sát việc tổ chức này trên ba phương diện: phổ quát, theo miền và địa phương. Trên phương diện phổ quát, có vấn đề kế hoạch hóa và điều khiển hoạt động truyền giáo tổng quát. Theo nguyên tắc cộng đoàn, trách nhiệm rao giảng cho muôn dân là trách nhiệm của Giám Mục Ðoàn với Ðức Giáo Hoàng (số 28; GH số 23). Nhưng trong thực tế các ngài hoạt động dưới hình thức cụ thể nào? Theo Sắc Lệnh thì có hai cách: việc chỉ huy và điều khiển công việc truyền giáo tổng quát là bổn phận của Ðức Thánh Cha với "Hội Ðồng Giám Mục thường trực để lo cho toàn thể Giáo Hội". Trên phương diện quản trị và thi hành, thì Thánh Bộ Truyền Bá Ðức Tin chịu trách nhiệm với sự phê chuẩn của Ðức Giáo Hoàng. Sắc Lệnh không quảng diễn điểm thứ hai này (số 29). Nhưng với Thánh Bộ Ðức Tin thì có hai điểm được xác định: các Giám Mục hội viên phải được tuyển chọn sau khi tham khảo ý kiến của các Hội Ðồng Giám Mục. Hơn nữa, các đại diện của những người cộng tác vào việc truyền giáo phải góp phần tích cực với quyền biểu quyết ngay cả trong Thánh Bộ. Tất cả những yếu tố đó đòi hỏi phải có một cuộc cải tổ dựa trên nguyên tắc cộng đoàn. (Trở lại đầu trang)

1 Xem Rm 12,6. (Trở lại đầu trang)

2 Xem 1Cor 3,10. (Trở lại đầu trang)

3 Xem Gio 4,37. (Trở lại đầu trang)

4 Xem 1Cor 3,8. (Trở lại đầu trang)

5 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 18: AAS 57 (1965), trg 22. (Trở lại đầu trang)

6 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 23: AAS 57 (1965), trg 28. (Trở lại đầu trang)

7 Xem Tự sắc Apostolica Sollicitudo, 15-9-1965: AAS 57 (1965), trg 776. (Trở lại đầu trang)

8 Xem Phaolô VI, Diễn từ ngày 21-11-1964 tại Công Ðồng: AAS 56 (1964), trg 1011. (Trở lại đầu trang)

9 Xem Benedictô XV, Tđ. Maximum illud, 30-11-1919: AAS 11 (1919), trg 39-40. (Trở lại đầu trang)

10 Nếu vì lý do nào đó mà đến nay một số xứ truyền giáo vẫn còn tạm thời tùy thuộc vào nhiều Thánh Bộ khác, thì phải làm thế nào để các Thánh Bộ đó có liên lạc với Thánh Bộ Truyền Bá Ðức Tin, hầu có thể có một phương pháp cũng như một nguyên tắc hoàn toàn cố định và đồng nhất trong việc tổ chức và điều khiển mọi xứ truyền giáo. (Trở lại đầu trang)

40* Trên bình diện địa phương, chính Giám Mục là người phải điều khiển hoạt động truyền giáo (số 30). Trên phương diện miền, chính Hội Ðồng Giám Mục miền có trách nhiệm (số 31). (Trở lại đầu trang)

11 Xem CÐ Vat. II, Sắc lệnh về nhiệm vụ mục vụ của các Giám Mục, số 35, 4. (Trở lại đầu trang)

12 Xem n.t., số 36-38. (Trở lại đầu trang)

13 Xem CÐ Vat. II, Sắc lệnh về nhiệm vụ mục vụ của các Giám Mục, số 35, 5-6. (Trở lại đầu trang)

41* Vì trong các xứ truyền giáo các tổ chức tôn giáo hay các tổ chức khác hoặc truyền giáo hoặc có tính cách khoa học, thường đóng vai trò quan trọng, nên Sắc Lệnh cũng đề cập đến việc sắp đặt cũng như phối hợp hoạt động truyền giáo của những tổ chức đó (số 32-34). Những thỏa hiệp giữa những tổ chức truyền giáo và các Giám Mục địa phương sẽ xúc tiến việc phối hợp hoạt động truyền giáo. Giữa các tổ chức truyền giáo, phải có Ủy Ban để thỏa thuận đưa ra một vài phương thế chung, hầu phục vụ việc truyền giáo. Sắc lệnh cũng nhấn mạnh cần phải biểu dương công giáo tính thật sự của việc truyền giáo bằng cách vượt qua mọi tính cách riêng tư cũng như mọi hình thức lấn áp quyền hành. (Trở lại đầu trang)
 
Chương VI
Sự Cộng Tác

 35. Nhập đề. Vì toàn thể Giáo Hội là truyền giáo và vì công việc rao giảng Phúc Âm là nhiệm vụ căn bản của Dân Chúa, nên Thánh Công Ðồng mời gọi mọi người canh tân tự thâm tâm mình, để khi đã tích cực ý thức trách nhiệm riêng trong việc truyền bá Phúc Âm, mọi người góp phần vào công cuộc truyền giáo nơi Muôn Dân 42*.

36. Nhiệm vụ truyền giáo của toàn Dân Thiên Chúa. Tất cả các Kitô hữu vì là chi thể của Chúa Kitô hằng sống, được sáp nhập và nên giống Người nhờ Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể, nên họ 43* có bổn phận phải cộng tác vào việc phát triển và bành trướng Thân Thể Người, để Thân Thể này được sung mãn càng sớm càng hay 1.

Vì thế, tất cả con cái Giáo Hội phải tích cực ý thức trách nhiệm của mình đối với thế giới, phải hun đúc cho mình có tinh thần thực sự công giáo, và phải hy sinh góp sức vào công việc rao giảng Phúc Âm. Tuy nhiên, mọi người phải biết rằng bổn phận đầu tiên và quan trọng nhất đối với việc truyền bá đức tin là sống sâu xa đời sống Kitô hữu. Vì chính khi nhiệt thành phụng sự Thiên Chúa và bác ái đối với tha nhân, họ mang lại cho toàn thể Giáo Hội một cảm hứng tinh thần mới và làm cho Giáo Hội xuất hiện như là một dấu chỉ nổi lên giữa các dân 2, là "ánh sáng thế gian" (Mt 5,14) và là "muối đất" (Mt 5,13). Chứng cứ đời sống này sẽ đem lại kết quả dễ dàng hơn, nếu cùng được thực hiện chung với các nhóm Kitô giáo khác, theo tiêu chuẩn của Sắc Lệnh về sự Hiệp Nhất 3.

Nhờ tinh thần đổi mới này, các kinh nguyện và việc khổ hạnh sẽ được tự phát dâng lên Thiên Chúa, để nhờ ơn thánh Ngài, công việc của các nhà truyền giáo mang lại kết quả, ơn kêu gọi truyền giáo được phát sinh và những tài nguyên mà các xứ truyền giáo đang cần đến sẽ được dồi dào.

Ðể tất cả và mỗi một Kitô hữu biết rõ hoàn cảnh hiện tại của Giáo Hội trong thế giới, và để họ nghe tiếng kêu gào của đám đông: "xin giúp chúng tôi" 4, phải dùng cả những phương tiện truyền thông xã hội hiện đại mà cung cấp những tin tức truyền giáo để khi cảm thấy hoạt động truyền giáo là việc của mình, họ mở rộng tâm hồn đáp ứng những nhu cầu rất bao la và thâm sâu của con người và có thể giúp đỡ những người ấy.

Cũng cần phải phối hợp các tin tức và cộng tác với các cơ quan quốc gia hay quốc tế.

37. Nhiệm vụ truyền giáo của cộng đoàn Kitô giáo. Vì Dân Chúa sống trong các cộng đoàn, 44* nhất là các cộng đoàn giáo phận và giáo xứ và tỏ ra hữu hình một cách nào đó trong các cộng đoàn trên, nên các cộng đoàn đó cũng phải minh chứng về Chúa Kitô trước mặt Muôn Dân.

Ơn canh tân không thể lớn lên trong các cộng đoàn nếu mỗi cộng đoàn không mở rộng phạm vi bác ái đến tận cùng trái đất và không lo lắng cho những kẻ ở xa giống như cho những người thuộc cộng đoàn mình.

Như thế toàn thể cộng đoàn cầu nguyện, cộng tác và hành động giữa muôn dân nhờ những người con đã được Thiên Chúa tuyển chọn vào chức vụ rất cao trọng này.

Cũng sẽ rất hữu ích, nhất là để đừng xao lãng công việc truyền giáo phổ quát, nếu giữ được mối liên lạc với những nhà truyền giáo xuất thân từ chính cộng đoàn, hoặc với một giáo xứ hay giáo phận nào đó trong các xứ truyền giáo, để mối thông hiệp giữa các cộng đoàn trở nên hữu hình và đi đến chỗ xây dựng cho nhau.



38. Nhiệm vụ truyền giáo của Giám Mục. Tất cả các Giám Mục với tư cách là thành phần của Giám Mục Ðoàn kế vị Tông Ðồ Ðoàn, được cung hiến không phải chỉ cho một giáo phận nào đó, mà là cho phần rỗi của toàn thế giới. Mệnh lệnh của Chúa Kitô sai đi rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật 5 trước hết và trực tiếp nhắm tới các Ngài, cùng với Phêrô và dưới quyền Phêrô. Do đó, giữa các Giáo Hội xuất phát một mối hiệp thông và cộng tác mà ngày nay rất cần thiết để theo đuổi công cuộc rao giảng Phúc Âm. Nhờ sự thông hiệp này mỗi Giáo Hội đều lo lắng cho tất cả các Giáo Hội khác, cho nhau biết những nhu cầu riêng của mình, cùng nhau san sẻ của cải, vì việc bành trướng Thân Thể Chúa Kitô là phần vụ của toàn thể Giám Mục Ðoàn 6.

Khi Giám Mục cổ võ, phát động và điều khiển công cuộc truyền giáo trong giáo phận - mà Giám Mục với giáo phận chỉ là một - chính là Giám Mục làm thể hiện tinh thần và nhiệt tâm truyền giáo của Dân Chúa và có thể nói là thể hiện cách hữu hình, để toàn thể giáo phận trở thành truyền giáo.

Các Giám Mục có nhiệm vụ khuyến khích trong dân mình, nhất là giữa những kẻ đau yếu và khổ tâm, những tâm hồn quảng đại dâng lên Thiên Chúa kinh nguyện và việc khổ hạnh để cầu cho công cuộc rao giảng Phúc Âm trên thế giới; sẵn lòng cổ võ ơn kêu gọi thanh niên và giáo sĩ gia nhập các Tổ Chức truyền giáo, và cảm tạ Thiên Chúa khi Chúa tuyển chọn một số người dấn thân vào hoạt động truyền giáo của Giáo Hội; khuyến khích và giúp đỡ các Hội Dòng giáo phận để họ góp phần riêng vào các xứ truyền giáo; phát động nơi tín hữu mình những công cuộc của các Tổ Chức truyền giáo, và nhất là các Hội Giáo Hoàng truyền giáo. Thực vậy, những hội này phải chiếm chỗ nhất vì chúng là những phương tiện vừa để người công giáo, ngay từ tuổi thơ, được thấm nhiễm cảm thức thực sự phổ quát và truyền giáo, vừa để khuyến khích một cuộc quyên góp hữu hiệu những tiền trợ cấp cho tất cả các xứ truyền giáo tùy theo nhu cầu từng nơi 7.

Vì ngày càng cần nhiều thợ vườn nho Chúa và vì các linh mục giáo phận cũng ước ao ngày càng được góp phần lớn hơn vào việc rao giảng Phúc Âm cho thế giới, nên Thánh Công Ðồng rất ước mong các Giám Mục, trong khi cân nhắc về việc thiếu linh mục rất trầm trọng đang cản trở việc rao giảng Phúc Âm cho nhiều miền, hãy sai đến những giáo phận thiếu giáo sĩ vài linh mục xuất sắc đã tự hiến để làm việc truyền giáo và đã được chuẩn bị đầy đủ, để họ thi hành thừa tác vụ truyền giáo với tinh thần phục vụ ít là trong một thời gian 8.

Ðể hoạt động truyền giáo của các Giám Mục có thể thực thi một cách hữu hiệu hơn cho lợi ích của toàn thể Giáo Hội, các Hội Ðồng Giám Mục nên điều khiển các công việc liên quan đến việc tổ chức sự cộng tác trong miền.

Trong các Hội Ðồng, các Giám Mục phải bàn về các linh mục thuộc hàng giáo sĩ giáo phận đang hiến thân rao giảng Phúc Âm cho muôn dân, về số tiền đóng góp hạn định, tương xứng với những lợi tức riêng, mà mỗi giáo phận hằng năm buộc phải đóng góp cho công trình tại các xứ truyền giáo 9, về việc điều khiển và tổ chức những cách thức và phương tiện trực tiếp nâng đỡ các xứ truyền giáo, về việc giúp đỡ và nếu cần, thiết lập các Tổ Chức truyền giáo và các chủng viện giáo sĩ giáo phận cho các xứ truyền giáo, về việc cổ võ những liên lạc chặt chẽ hơn giữa những Tổ Chức loại này với các giáo phận.

Cũng thế, các Hội Ðồng Giám Mục có nhiệm vụ thiết lập và phát động những công cuộc nhằm tiếp đón trong tình huynh đệ và đem lòng chăm sóc mục vụ thích đáng mà giúp đỡ những người vì lý do công vụ hay học hành, từ các miền truyền giáo đến trú ngụ. Nhờ họ mà những dân tộc xa xôi trở nên gần gũi một cách nào đó, và là dịp rất tốt để các cộng đoàn Kitô giáo lâu đời được đối thoại với những dân tộc chưa nghe nói đến Phúc Âm, cùng tỏ bày cho họ gương mặt đích thực của Chúa Kitô trong nghĩa cử yêu thương và giúp đỡ 10.

39. Nhiệm vụ truyền giáo của Linh Mục. Các linh mục đóng vai trò Chúa Kitô và là cộng sự viên của hàng Giám Mục trong ba phận vụ thánh 45*, mà tự bản tính thuộc về sứ mệnh của Giáo Hội 11. Vậy các ngài phải thấu hiểu sâu xa rằng đời sống các ngài cũng được cung hiến để phục vụ các xứ truyền giáo. Vì nhờ thừa tác vụ riêng của mình, thừa tác vụ này cốt yếu hệ tại Bí Tích Thánh Thể, bí tích kiện toàn Giáo Hội, các ngài thông hiệp với Chúa Kitô là Ðầu và dẫn đưa kẻ khác đến sự thông hiệp này; do đó các ngài không thể không cảm thấy rằng sự viên mãn của Thân Thể đến nay vẫn còn biết bao thiếu sót, và do đó còn biết bao điều phải làm để Thân Thể ngày một lớn hơn. Vậy các ngài phải sắp đặt công việc mục vụ thế nào để mưu ích cho việc bành trướng Phúc Âm nơi những người ngoài Kitô giáo.

Các linh mục, trong việc mục vụ, phải cổ võ và duy trì giữa tín hữu lòng nhiệt thành đối với việc rao giảng Phúc Âm cho thế giới, bằng cách dạy giáo lý và giảng thuyết để giáo huấn họ về nhiệm vụ của Giáo Hội phải loan báo Chúa Kitô cho Muôn Dân, bằng cách dạy các gia đình Kitô hữu về sự cần thiết và vinh dự vun trồng ơn kêu gọi truyền giáo nơi con trai con gái mình; bằng cách cổ võ nhiệt tâm truyền giáo nơi thanh thiếu niên trong các trường và các hội đoàn công giáo để từ nơi họ, xuất phát những nhà rao giảng Phúc Âm tương lai. Các ngài phải dạy tín hữu cầu nguyện cho các xứ truyền giáo và đừng xấu hổ xin họ bố thí và trở nên như những hành khất vì Chúa Kitô và vì phần rỗi các linh hồn 12.

Các giáo sư Chủng Viện và Ðại Học phải dạy cho thanh thiếu niên biết hoàn cảnh đích thực của thế giới và của Giáo Hội, để họ nhìn thấy nhu cầu rất cấp bách của việc rao giảng Phúc Âm cho những người ngoài Kitô giáo và để nuôi dưỡng nhiệt tâm của họ. Trong khi dạy các môn tín lý, Thánh Kinh, luân lý và lịch sử, phải nêu rõ những khía cạnh truyền giáo hàm chứa trong các môn ấy, để nhờ đó đào tạo cho các linh mục tương lai một ý thức truyền giáo.

40. Nhiệm vụ truyền giáo của Hội Dòng. Các Hội Dòng 46* sống đời chiêm niệm hay hoạt động, cho đến nay đã và đang góp phần rất lớn vào việc rao giảng Phúc Âm cho thế giới. Thánh Công Ðồng vui mừng nhìn nhận công lao của họ và cảm tạ Thiên Chúa vì biết bao nỗ lực được thực hiện để làm vinh danh Chúa và phục vụ các linh hồn. Thánh Công Ðồng khuyến khích họ hãy cứ hăng say theo đuổi công việc đã khởi sự, vì họ phải biết rằng sức mạnh của đức ái mà ơn kêu gọi buộc họ phải thực thi một cách hoàn hảo hơn, thúc đẩy và buộc họ phải có tinh thần và việc làm thực sự công giáo 13.

Các Hội Dòng sống đời chiêm niệm góp phần rất lớn vào việc trở lại của các linh hồn nhờ những kinh nguyện, việc khổ hạnh và thử thách, vì Thiên Chúa là Ðấng sai thợ đến gặt lúa của Ngài theo lời ta cầu xin 14, Ðấng mở rộng tâm hồn người ngoài Kitô giáo để họ lắng nghe Phúc Âm 15, và làm cho lời cứu rỗi sinh hoa kết quả trong lòng họ 16. Hơn nữa, xin các Hội Dòng đó lập các nhà dòng trong những xứ truyền giáo, như họ đã làm khá nhiều, để ở đó, nhờ sống thích nghi với các truyền thống tôn giáo đích thực của các dân tộc, họ tỏ cho những người ngoài Kitô giáo thấy một chứng tá cao đẹp về uy quyền và tình yêu của Thiên Chúa cũng như về sự hiệp nhất trong Chúa Kitô.

Còn các Hội Dòng sống đời hoạt động, hoặc theo đuổi mục đích hoàn toàn truyền giáo hoặc không, đều phải thành thật tự vấn trước mặt Chúa xem mình có thể bành trướng hoạt động vào việc mở rộng Nước Chúa nơi Muôn Dân không; xem mình có thể trao một số thừa tác vụ cho những người khác để cống hiến sức lực mình cho các xứ truyền giáo không; xem mình có thể khởi công hoạt động trong các xứ truyền giáo bằng cách thích nghi Hiến Pháp của mình nếu cần, mà vẫn theo tinh thần của Vị Sáng Lập không; xem các tu sĩ của mình có thể tùy sức tham gia vào hoạt động truyền giáo không; xem cách sống thường xuyên của họ có phải là một chứng tá của Phúc Âm được thích nghi với đặc tính và hoàn cảnh của dân chúng không.

Vì nhờ ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Giáo Hội ngày càng có thêm nhiều Tu Hội triều, và hoạt động của các tu hội ấy dưới quyền Giám Mục, có thể mang lại nhiều kết quả trong các xứ truyền giáo về nhiều phương diện, như là dấu chỉ của sự tận hiến trọn vẹn cho việc rao giảng Phúc Âm trên thế giới.



41. Nhiệm vụ truyền giáo của giáo dân. Giáo dân 47* cộng tác vào công cuộc rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội, đồng thời với tư cách chứng nhân và khí cụ sống động 17 họ tham gia vào sứ mệnh cứu rỗi của Giáo Hội, nhất là khi họ được Thiên Chúa kêu gọi và được Giám Mục thu nhận để làm việc đó.

Trong những địa hạt đã theo Kitô giáo, giáo dân tham gia vào việc rao giảng Phúc Âm bằng cách tự khuyến khích và khích lệ người khác hiểu biết và yêu mến các xứ truyền giáo, cổ võ ơn kêu gọi trong gia đình mình, trong các hội đoàn công giáo và trong các trường học, dâng cúng mọi thứ của cải; như thế họ có thể trao tặng kẻ khác ơn đức tin mà họ đã lãnh nhận nhưng không.

Còn trong những địa hạt thuộc các xứ truyền giáo, giáo dân, hoặc ngoại kiều, hoặc địa phương, phải dạy học trong các trường, phụ trách các việc trần thế, hợp tác vào hoạt động giáo xứ hay giáo phận, thành lập và cổ võ các hình thức làm việc tông đồ giáo dân, để tín hữu của các Giáo Hội trẻ trung được góp phần riêng mình vào đời sống Giáo Hội càng sớm càng hay 18.

Sau cùng giáo dân phải tự ý cộng tác trong lãnh vực kinh tế xã hội với các dân tộc trên đường phát triển. Sự cộng tác này càng đáng khen ngợi nếu càng liên quan đến việc thành lập các tổ chức thuộc những cơ cấu căn bản của đời sống xã hội hay để đào tạo những người có trách nhiệm với quốc gia.

Cũng đáng đặc biệt tán thưởng những giáo dân, trong các Ðại Học hay các Viện Khoa Học, biết dùng những khảo cứu lịch sử hay khoa học tôn giáo mà cổ võ sự hiểu biết về các dân tộc và các tôn giáo: như thế là họ giúp các nhà rao giảng Phúc Âm và chuẩn bị cuộc đối thoại với những người ngoài Kitô giáo.

Họ cũng phải hợp tác trong tình huynh đệ với các Kitô hữu khác, với những người ngoài Kitô giáo và nhất là với các hội viên của những tổ chức quốc tế, nhưng phải luôn nhớ rằng "việc xây dựng xã hội trần thế đặt nền tảng trong Chúa và quy hướng về Người" 19.

Ðể chu toàn tất cả những phận vụ đó, giáo dân cần phải được chuẩn bị về kỹ thuật và đời sống thiêng liêng tại những Học Viện chuyên khoa, để đời sống họ trở thành chứng tá cho Chúa Kitô đối với những người ngoài Kitô giáo, như lời Thánh Tông Ðồ: "Anh em đừng nêu gương xấu cho người Do Thái, cho Muôn Dân và cho Giáo Hội Chúa, như chính tôi, tôi làm vừa lòng mọi người trong mọi sự mà không tìm tư lợi gì cho tôi, chỉ mong giúp ích cho nhiều người để họ được cứu rỗi" (1Cor 10,32-33).

 

Kết Luận

 

42. Lời chào mừng thân ái. Các Nghị Phụ Công Ðồng, hiệp nhất cùng Ðức Giáo Hoàng, ý thức rất sâu xa về bổn phận phải mở rộng Nước Chúa khắp nơi, hết lòng thân ái chào mừng tất cả những người rao giảng Phúc Âm, nhất là những người chịu bách hại vì Danh Chúa Kitô và chia xẻ những đau khổ của họ 20.

Như Chúa Kitô đã cháy lửa yêu mến nhân loại thế nào thì các Ngài cũng nóng nảy yêu mến nhân loại như vậy. Nhưng ý thức rằng chính Thiên Chúa khiến Nước Ngài đến trong thế gian, các Ngài hiệp cùng tất cả các Kitô hữu cầu nguyện để nhờ sự cầu bầu của Trinh Nữ Maria Nữ Vương các Tông Ðồ, cho muôn dân mau được đưa về nhận biết chân lý 21 để vinh quang Thiên Chúa đang chói lọi trên dung nhan Chúa Giêsu Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần mà chiếu sáng cho hết mọi người 22.

 

Tất cả và từng điều đã được ban bố trong Sắc Lệnh này đều được các Nghị Phụ Thánh Công Ðồng chấp thuận. Và, dùng quyền Tông Ðồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì đã được Thánh Công Ðồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.



 

Roma, tại Ðền Thánh Phêrô, ngày 7 tháng 12 năm 1965.

Tôi, Phaolô Giám Mục Giáo Hội Công Giáo.

Tiếp theo là chữ ký của các Nghị Phụ.



 



Chú Thích:

42* Giáo Hội là Giáo Hội truyền giáo, chính vì thế trong chương này, Sắc Lệnh phân tích những khả năng mà mọi năng lực trong Giáo Hội có thể mang lại cho công việc truyền giáo. (Trở lại đầu trang)

43* Trước tiên ở đây Sắc Lệnh quả quyết mỗi tín hữu có nhiệm vụ truyền giáo, vì họ đã được ghép vào Nhiệm Thể Chúa Kitô qua ba bí tích gia nhập (Thánh Tẩy, Thêm Sức, Thánh Thể). Các phương thế được chỉ định là: ý thức trách nhiệm cá nhân, đời sống Kitô giáo gương mẫu, cầu nguyện, tinh thần sám hối. Tiếp theo Sắc Lệnh đề cập tỉ mỉ đến nhiệm vụ truyền giáo của các cộng đoàn Kitô hữu (số 37), các Giám Mục và Hội Ðồng Giám Mục (số 38), các linh mục (số 39), các tu hội (số 40), và sau cùng giáo dân (số 41). Tất cả các đoạn đó đều đầy đủ chi tiết cụ thể và thực tiễn. (Trở lại đầu trang)

1 Xem Eph 4,13. (Trở lại đầu trang)

2 Xem Is 11,12. (Trở lại đầu trang)

3 Xem CÐ Vat II, Sắc Lệnh về Hiệp Nhất, số 12: AAS 57 (1965), trg 99. (Trở lại đầu trang)

4 Xem CvTđ 16,9. (Trở lại đầu trang)

44* Số 37 khuyến khích cộng đoàn cộng tác vào việc truyền giáo trên lãnh vực giáo phận và giáo xứ. Ở đây Sắc Lệnh khuyến dụ rằng cộng đoàn trong các nước công giáo hãy đảm đương việc truyền giáo hay một phần việc truyền giáo bằng cách đặc biệt giúp đỡ về mọi phương diện. (Trở lại đầu trang)

5 Xem Mc 16,15. (Trở lại đầu trang)

6 Xem CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 23-24: AAS 57 (1965), trg 27-29. (Trở lại đầu trang)

7 Xem Benedictô XV, Tđ. Maxium illud, 30-11-1919: AAS 11 (1919), trg 453-454. - Piô XI, Tđ. Rerum Ecclesiae, 28-2-1926: AAS 18 (1926), trg 71-73. - Piô XII, Tđ. Evangelii Praecones, 2-6-1951: AAS 43 (1951), trg 525-526. - n.t., Tđ. Fidei donum, 15-1-1957: AAS 49 (1957), trg 241. (Trở lại đầu trang)

8 Xem Piô XII, Tđ. Fidei donum, 15-1-1957: AAS 49 (1957), trg 245-246. (Trở lại đầu trang)

9 Xem CÐ Vat II, Sắc Lệnh về nhiệm vụ mục vụ của các Giám Mục, số 6. (Trở lại đầu trang)

10 Xem Piô XII, Tđ. Fidei donum, 15-1-1957: AAS 49 (1957), trg 245. (Trở lại đầu trang)

45* Ba phận vụ là cai trị, thánh hóa và giáo huấn. Sắc Lệnh minh định sự cộng tác vào việc truyền giáo có thể thực hiện được trong những hoàn cảnh khác biệt của đời sống linh mục: linh mục trong giáo xứ, linh mục giáo sư trong một trường học và nhất là trong một chủng viện. Trong phạm vi hoạt động của mình, mỗi linh mục phải là một nhà giáo dục cho các tín hữu có một ý thức truyền giáo. (Trở lại đầu trang)

11 Xem CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 28: AAS 57 (1965), trg 34. (Trở lại đầu trang)

12 Xem Piô XI, Tđ. Rerum Ecclesiae, 28-2-1926: AAS 18 (1926), trg 72. (Trở lại đầu trang)

46* Công Ðồng ủy thác cho các cơ sở tôn giáo nhiệm vụ nới rộng hoạt động truyền giáo, và nếu chưa hoạt động gì, thì phải đảm nhận một công tác. Có kẻ nghĩ rằng các tu sĩ có lẽ ít thích hợp trong việc xây dựng những giáo phận và nhất là đào tạo một hàng giáo sĩ giáo phận, nhưng không có lý do nào biện minh cho một linh mục dòng không thể vun trồng một Giáo Hội địa phương. Nhiều Giáo Hội địa phương trong những nơi ngoại giáo là kết quả hoạt động do một nhóm tu sĩ đảm nhiệm. (Trở lại đầu trang)

13 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 44: AAS 57 (1965), trg 50. (Trở lại đầu trang)

14 Xem Mt 9,38. (Trở lại đầu trang)

15 Xem CvTđ 16,14. (Trở lại đầu trang)

16 Xem 1Cor 3,7. (Trở lại đầu trang)

47* Giáo dân là một đoàn viên đúng nghĩa trong cộng đoàn dân Chúa, và vì thế người giáo dân cũng được mời gọi giúp đỡ việc truyền giáo. Họ có thể giúp đỡ cách gián tiếp, nhất là bằng lời cầu nguyện và phương tiện vật chất. Người giáo dân cũng có thể là một nhà truyền giáo hy sinh cả thời giờ và đời sống, không lương bổng, phục vụ một công tác chuyên biệt. Số 41 này quảng diễn những cách thức mà giáo dân có thể cộng tác vào hoạt động truyền giáo của Giáo Hội. (Trở lại đầu trang)

17 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 33, 35: AAS 57 (1965), trg 39, 40-41. (Trở lại đầu trang)

18 Xem Piô XII, Tđ. Evangelii Praecones, 2-6-1951: AAS 43 (1951), trg 510-514. - Gioan XXIII, Tđ. Princeps Pastorum, 28-11-1959: AAS 51 (1959), trg 851-852. (Trở lại đầu trang)

19 Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội, số 46: AAS 57 (1965), trg 52. (Trở lại đầu trang)

20 Xem Piô XII, Tđ. Evangelii Praecones, 2-6-1951: AAS 43 (1951), trg 527. - Gioan XXIII, Tđ. Princeps Pastorum, 28-11-1959: AAS 51 (1959), trg 864. (Trở lại đầu trang)

21 Xem 1Tm 2,4. (Trở lại đầu trang)

22 Xem 2Cor 4,6. (Trở lại đầu trang)

 

Thánh Công Ðng Chung Vaticanô II

 


tải về 5.72 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   42   43   44   45   46   47   48   49   ...   67




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương