III. Thực trạng ngành Logistics Việt Nam trong tình hình dịch
covid-19
Đầu năm 2020, khi đại dịch C0VID-19 bùng phát đã gây nên tổn thất trầm trọng
đến mọi mặt từ kinh tế, văn hoá, du lịch đến đời sống con người trên toàn cầu (La, 2020).
Đặc biệt, đại dịch đã gây áp lực nặng nề lên khả năng sản xuất cũng như chuỗi cung ứng
6
toàn cầu hay còn là ngành dịch vụ Logistic. Toàn bộ dây chuyền của ngành logistic đã
bị ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch, mọi hoạt động bị trì hoãn và chính dịch bệnh cũng tạo
nên những thử thách không ngừng dành riêng cho ngành từ hiện tại và cả trong tương
lai.
Chuỗi cung ứng đã bị đảo lộn và đứt gãy do đại dịch mà những hoạt động thuộc
ngành Logistics – cốt lõi của chuỗi cung ứng cũng không tránh khỏi ảnh hưởng. Đối với
thế giới nói chung, các dịch vụ vận tải như vận tải đường bộ, vận tải đường sắt hay vận
tải hàng không bị thiệt hại nặng nề nhất. Vận tải biển có bị tác động nhẹ hơn bởi việc
giữ vững cước phí, dù yêu cầu chuyên chở có giảm sút và khó khăn về thủ tục do đại
dịch (khi phải có những giấy tờ xét nghiệm, chứng nhận an toàn sức khỏe,… mới được
thông qua).
Các đặc điểm này của chuỗi cung ứng và dịch vụ logistics thế giới cũng đã thể
hiện đầy đủ trong ngành dịch vụ Logistics Việt Nam, khi mà sự khó khăn trong lưu
thông dây chuyền cung ứng ở nước ta cũng xảy ra trên mọi mặt trận. Nêu lên thực trạng
tắc nghẽn trong chuỗi logistic tại Việt Nam được thể hiện rõ nhất ở đợt bùng phát
COVID-19 thứ tư kéo dài suốt năm tháng qua, bà Nguyễn Thị Thành Thực - Chủ tịch
Công ty Bagico Bắc Giang, Uỷ viên Ban chấp hành Hiệp hội Nông nghiệp số Việt Nam
cho biết trong đợt dịch vừa qua, sự “ ngăn sông cấm chợ” đã khiến cho 1 kg rau tại Bình
Phước có giá 8 nghìn đồng, trong khi vẫn 1 kg rau đó tại thành phố Hồ Chí Minh người
dân có thể phải mua tới 70-80 nghìn đồng. “ Đây chính là sư lãng phí rất lớn. Vấn đề ở
đây là do cách điều hành, người dân nói chung hay bà con nông dân nói riêng bị thiệt
hại, doanh nghiệp hay người tiêu dùng cũng đều chịu thiệt hại”, Trang nói tại tọa đàm.
Điều này dẫn tới sự khủng hoảng cho người dân nói chung và các doanh nghiệp nói
riêng về mặt tinh thần.. Qua đây, có thể thấy ngành Logistics trong giai đoạn vừa qua bị
tác động bởi nhiều yếu tố tiêu cực ở cả nội địa và ngoài nước. Còn theo ông Lê Duy
Hiệp - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ logistics Việt Nam, chuỗi cung ứng
hoạt động không mấy hiệu quả và cũng chính là các doanh nghiệp đang phải chịu vô số
tổn thất do đại dịch. Có rất nhiều doanh nghiệp đã phá sản, hay đang lâm vào tình trạng
phá sản, rời bước khỏi thị trường lao động ngành logistic vì hậu quả nặng nề mà COVID-
19 đem lại. Việc doanh nghiệp phá sản cũng dẫn đến nguồn lao động bị ảnh hưởng,
nhiều người trở nên thất nghiệp, nhiều công nhân bị mất việc khiến cho cuộc sống của
7
họ và gia đình họ đã khó khăn nay càng khó khăn hơn. Ông Hiệp còn nói “ Sản lượng
vận tải của ngành Logistics trong 6 tháng đầu năm 2021 so với 2020 không kém là bao
.
Nhưng đến tháng 7, tháng 8 lại bị sụt giảm nghiêm trọng do các hạn chế trong quá trình
vận chuyển, đồng thời bị thiếu hụt một phần lực lượng lao động” (Phượng, 2021).
Đối với ngành hàng không, các hãng hàng không hiện nay đều hủy tối đa các
chuyến bay tới Hồng Kông, Trung Quốc, Hàn Quốc thêm vào đó hạn chế nhất có thể
các chuyến bay từ vùng dịch. Ngoài ra, giá cước vận chuyển hàng hóa tăng cao hơn so
với bình thường. Trong khi đó, các tuyến biên giới đều khó để kiếm được nhà cung cấp
vận chuyển. Nhu cầu vận tải đường bộ giờ giảm xuống còn 30% do lượng hàng hoá sụt
giảm. Ngành hàng không cũng đã chịu những tổn thất nặng về vô cùng lớn, ảnh hưởng
kinh tế trầm trọng trong khi dịch bệnh vẫn hoành hành không có dấu hiệu giảm nhẹ.
Bằng chứng là nhiều hãng hàng không đã phải vay nợ và xin hỗ trợ tài chính từ chính
phủ, nhiều nhân viên, tiếp viên phải nghỉ việc hoặc buộc phải thôi việc do cắt giảm nhân
sự bởi công ty không đủ ngân sách để chi trả lương. Qua đây, Logistic một lần nữa cho
thấy vai trò quan trọng của mình đối với xã hội.
Những tổn thất nặng nề mà ngành đang phải hứng chịu khiến xương sống của
chuỗi cung ứng ngày một trở nên “ kiệt sức “, tác động tiêu cực tới vô số ngành có liên
quan. Ở một số khía cạnh khác trong ngành Logistics ở Việt Nam, các ngành sản xuất
như dệt may dựa chủ yếu vào việc nhập khẩu nguyên liệu từ Trung Quốc – nơi xảy ra
đại dịch mạnh nhất, đã ngưng trệ sản xuất. Chiến dịch giải cứu hàng hóa ở biên giới với
Trung Quốc bị ách tắc trong giai đoạn đầu của đại dịch và đặc biệt là thời gian cách ly
xã hội diễn ra từ tháng 4 đến tháng 8/2020 đã làm cho những quy trình sản xuất,
Logistics, vận tải bị tắc nghẽn, gián đoạn. Từ tháng 5/2021, kinh tế bắt đầu phục hồi
nhưng đại dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp tại các thị trường là đối tác thương
mại chính của Việt Nam do đó gây ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xuất, nhập khẩu và
Logistics. Nhu cầu quốc tế giảm sút đồng nghĩa với việc giảm xuất khẩu đơn hàng dẫn
đến việc nhiều công ty buộc phải cho công nhân nghỉ việc.
Để tìm ra các giải pháp sáng tạo giúp giảm tổn thất nặng nề từ tác động của dịch
COVID-19, từ cách tiếp cận tổng thể, chúng tôi khuyến nghị sử dụng hệ sáng tạo, hay
còn gọi là hệ xử lý thông tin 3D (Vuong, Q.H., 2022; Vuong & Napier, 2014). Trong hệ
8
này, việc thu thập thông tin, xử lý thông tin truyền thông rất quan trọng. Tiếp theo là
làm việc với các chuyên gia giỏi nhất trong ngành Logistics và hợp tác giữa các bên liên
quan (nhà nước, doanh nghiệp, khác hàng, chuyên gia) một cách thường xuyên.
Tóm lại, đại dịch COVID-19 đã gây ra thiệt hại nặng nề cho tất cả các ngành
trong thị trường lao động của Việt Nam và tất cả các quốc gia trên toàn thế giới. Đặc
biệt trong số đó, Logistic đã và đang hứng chịu sự tàn phá di dịch bệnh, ảnh hưởng tới
nhiều khía cạnh và vấn đề. Bên cạnh những khó khăn do dịch bệnh đem lại, Logistics
Việt Nam cũng có những thời cơ mới để chuyển mình phát triển trong tương lai.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |