5
Về lao động: Thị trường lao động ngành Logistics Việt Nam khá dồi dào, nhưng đó lại
là đối với các doanh nghiệp Nhà nước đang được cổ phần hoá, thực tế ở các
doanh
nghiệp vừa và nhỏ, nguồn nhân lực chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu của ngành,
tỷ lệ nguồn nhân lực được đào tạo bài bản về Logistics còn chiếm khá thấp, chỉ từ 5-7%
(BBT, 2016)
Về doanh nghiệp: Hiện nay, các doanh nghiệp lớn đang chiếm lĩnh thị trường nhiều,
doanh nghiệp nhỏ chưa có chỗ đứng trên thị trường. Bên cạnh đó, theo thống kê cho
thấy các công ty Logistics Việt Nam mới chỉ hoạt động trong phạm vi nội địa hay một
vài nước trong khu vực, và chủ yếu làm đại lý hoặc đảm nhận từng công đoạn cho các
doanh nghiệp Logistics quốc tế, thua thiệt ngay trên “sân nhà” đối với lĩnh vực được coi
là ngành dịch vụ “cơ sở hạ tầng” của nền kinh tế Quốc gia.
Về cơ sở hạ tầng: Cơ sở vật chất chưa được trang bị những công cụ, phương tiện tốt nhất
để vận chuyển hàng hóa. Hàng hóa vẫn thường bị ùn tắc rất nhiều và vẫn chưa có cách
để xử lý ổn thỏa và triệt để nhất.
Về chi phí dịch vụ: Mức chi phí dịch vụ rất cao đang là vấn đề cần được cải thiện với
ngành Logistics Việt Nam
Đồng thời, đi cùng với những thách thức là cơ hội phát triển của ngành Logistics
Việt Nam. Hiện nay, ngành Logistics Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận được thị trường
logistics rộng lớn hơn với những ưu đãi thương mại để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, dịch
vụ; Bên cạnh đó, địa hình nước ta rất phù hợp để phát huy lợi thế địa lý - chính trị trong
phát triển cơ sở hạ tầng logistics như phát triển cảng nước sâu, sân bay quốc tế, hệ thống
đường sắt xuyên Á, các trung tâm Logistics; việc hội nhập logistics quốc tế cũng tạo cơ
hội cho Việt Nam phát triển quan hệ đối tác, thị trường xuất khẩu được mở rộng, góp
phần cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng...
Chia sẻ với bạn bè của bạn: