Thaäp giaù vaø LÖÔÛi göÔm linh Muïc traàn tam tæNH



tải về 343.47 Kb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích343.47 Kb.
#37972
1   2   3   4

Trước cuộc nổi dậy khắp nơi như thế, quân Pháp bèn tổ chức tiến công và chiếm đóng toàn bộ Nam kỳ vào năm 1867. Song dầu thấy quân địch thu được những chiến thắng cách chớp nhoáng và quan trọng như thế, du kích quân người Việt vẫn không bỏ cuộc kháng chiến. Và bởi xác tin rằng người công giáo đồng lõa vớn bọn xâm lược, họ cũng coi luôn tín đồ là kẻ thù của mình. Theo ông Nguyễn đình Chiểu, một nhà thơ Việt Nam yêu nước, thì «dân chúng bị tiêm nhiểm phải cái đạo tà nên kẻ thù xâm chiếm nước nhà mà chẳng ai chống cự lại». Và nhà thơ này cũng liên tưởng đến các chiến công của kháng chiến vốn chỉ được trang bị thô sơ, đã viết trong bài thơ phúng điếu các chiến sĩ Cần Giuộc như sau: «Hỏa pháo chỉ dùng ngọn đuốc rơm, đã đủ thiêu rụi một chủng viện. Dùng cây dao làm kiếm, cũng chặt được đầu tên thiếu úy».

Ở đây, nên ghi nhận cái ý tinh vi của vần thơ Việt Nam, đặt chủng viện thừa sai song song với thiếu úy thực dân. Thời gian này, tại Sài Gòn đã bị chiếm các hội thừa sai tổ chức xây dựng trường học, tu viện, nhà thương theo kiểu phương Tây.

6. GIÁM MỤC PUY-GI-NIÊ. ( PUGINIER )

Sau khi đã chiếm xong toàn bộ Nam kỳ, quân Pháp vội vàng đi thăm dòng sông Mêkong, mục đích là tìm một đường giao thương với Trung Quốc. Họ thấy ngay, không thể ngược dòng sông này lên tới Trung Quốc. Họ bàn quyết định cho tàu đi ngược dòng sông Hồng ở Bắc kỳ.

Năm 1873, Giăng Đuypui (Jean Dupuis), một tay mạo hiểm Pháp, vịn cớ phải ngược dòng sông Hồng để bán vũ khí cho người Hoa, đã chống lại lệnh cấm của nhà cầm quyền Việt Nam. Thiên hạ biết rằng y đã nhận được tiếp viện hùng mạnh của đô đốc Đuyporé (Dupre) thống sứ Nam kỳ, thuộc địa Pháp kể từ 1868. Trong một thư gửi giám mục Xôhiê (Sohier) địa phận Huế ngày 6.10.1873, y thổ lộ: “Hẳn đây là vấn đề đặt cơ sở cho ảnh hưởng Pháp dọc bờ sông Hồng và chuẩn bị cho một cuộc đổ bộ cả Bắc kỳ luôn”. Quả là một thách thức đối với chính quyền Việt Nam.

Theo tin tình báo nhận được từ các thừa sai tại Bắc kỳ, quân Pháp nắm được tình hình chính trị của miền Bắc Việt Nam, Lê Bảo Phụng, từng bí mật quan hệ nhiều với quân Pháp, đã tổ chức một cuộc bạo loạn gây bất ổn cho xứ sở. Đàng khác, các toán quân Cờ Trắng, Cờ Vàng, Cờ Đen người Hoa cướp phá khuấy nhiễu nhiều vùng tại đất Bắc. Những bọn này trước kia ở trong quân đội của Tai Pinh, nhưng rồi đã bị quân chính qui Trung quốc săn đuổi. Nắm vững tình hình đó nhờ các cố thừa sai, quân Pháp tìm cách để nhảy vào. Cớ đây rồi: Đuypui bị các nhà cầm quyền Hà nội bắt giữ. Đuypơrơ phái Phrăngxít Gacníe (Francis Garnier) dẫn một hạm đội tiến ra. Tới Hà nội, Phrăngxít Gác-niê đơn phương ra lệnh thả Giăng Đuypuy, phải mở sông Hồng cho tự do giao thông và bãi bỏ quan thuế ở đây. Đứng trước khước từ của nhà cầm quyền Việt Nam, Gacniê đánh chiếm Hà nội ngày 19.11.1873. Ông bắt liên lạc ngay với giám mục Puyginiê: “Thưa đức cha, không ai am tường Bắc kỳ bằng Đức cha và đức cha lại có lòng yêu mến nước Pháp. Đức cha có vui lòng giúp tôi cũng cố những gì chúng ta đã chiếm được bằng cách chỉ cho tôi những người bản xứ có khả năng cai trị dưới quyền tôi không?” “Dĩ nhiên sự hợp tác của giám mục Hà nội là điều đã ăn chắc từ trước rồi”. Khi ngọn cờ Pháp xuất hiện ở Bắc kỳ, giám mục mừng vui sung sướng, Ngài ra sức giúp quân lính chúng ta tất cả những việc gì có thể thích hợp với vị trí một giám mục thừa sai tại Bắc kỳ “sử gia đã ghi rõ như thế trong cuốn sử về cuộc đời giám mục. Giám mục đã đóan chắc binh lính rằng ông có thể nhập ngũ dưới ngọn cờ của kẻ chiến thắng, bởi vì ngọn cờ này là cờ nước Pháp. Nhờ người công giáo, Phrăngxít Gácniê đã chiếm được Nam Định, Hải Dương và những vùng khác thuộc đồng bằng sông Hồng một cách nhanh chóng. Nhưng, mặc dầu được giám mục bảo là phải cảnh giác, Gácniê đã bị giết ngày 21.12.1873 trong một cuộc phục kích tại Cầu Giấy. Đám tang của y được cử hành trọng thể bởi giám mục Puyginiê với hai giám mục Pháp khác.

Chiến thắng và cái chết của Phrăngxít Gácniê đã gây ra sau đó những cuộc bắt đạo dữ dội. Theo tài liệu của chính quyền Nam kỳ, mỗi lần quân đội Việt Nam bị thất bại, thì dân chúng người lương lại thêm căm thù dân công giáo: “Nhiều cuộc tàn sát đốt làng đã theo sau vụ Nam Định bị quân Pháp đánh chiếm ngày 9.12.1873. Tại các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Hà Nội những cảnh đó trở nên rất tàn bạo, khi người ta nghĩ rằng sau cái chết của Gácniê quân Pháp có thể rời bỏ Bắc kỳ”.

Chẳng cần nhấn mạnh liên hệ nhân quả ở đây, tài liệu trên kể thêm rằng: “Cơn bắt đạo xảy ra sau sự rút lui của chúng tôi khỏi Bắc kỳ đã không hoành hành trong các địa phận thuộc Dòng Đa-Minh Tây Ban Nha cai quản. Các thừa sai của họ vẫn được tự do tương đối và đã được đối xử khoan hồng. Giám mục (Côlomer) đã được vua Tự Đức cấp cho đất xây nhà thờ và nhiều huân chương vàng bạc tưởng thưởng họ, vì đã đóng góp tốt cho việc giữ gìn tri an trong các tỉnh mạn đông sông Cái (tức sông Hồng)”.

Trong một tài liệu song song - truyền đơn do các chí sĩ Nghệ Tĩnh tung ra năm 1871 - người ta đọc thấy những lời tố cáo thừa sai như sau: “Từ bên ngoài, từ bên trong, bọn chúng (người Tây) gặm dần đất nước ta như tằm ăn dâu: nhà thờ mọc lên, dân chúng theo đạo, rõ ràng là nguy cơ trước mắt đó, đất nước ta đang bị xói mòn dần, ngay dưới bàn chân”.

Cho tới ngày chết, 25.4.1892, giám mục Puyginiê chẳng bỏ qua bữa nào mà không hoạt động để cũng cố thêm vị trí nước Pháp tại xứ sở con nuôi này của ông. Người ta đang giữ được hàng chục điệp văn và bản tin tình báo mang chữ ký của ông trong văn khố của Bộ thuộc địa. Và một phần nhờ các bản tin đó mà quân Pháp đã có thể dập tan cuộc kháng chiến vũ trang của Người Việt Nam. Cuộc kháng cự hùng mạnh nhất đã xảy ra tại Ba Đình, Thanh Hóa, dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tráng. Bề ngoài, đó là một loại làng được biền thành căn cứ, được lũy tre bảo vệ, có thành, có đường hầm và hệ thống giao thông hào được bố trí rất thông minh. Tinh thần các chiến sĩ lúc đó rất cao. Nhằm «bình định» cứ điểm này, quân Pháp đã gửi tới một lực lượng gồm 2250 tên lính, 25 đại bác, 4 pháo hạm dưới quyền chỉ huy của trung tá Métxanhgiê (Metzinger). Cuộc tấn công ngày 16-12-1886 bị đẩy lùi. Quân Pháp phải tổ chức bao vây để tìm hiểu chiến thuật mới. May cho chúng, vì có một sĩ quan trẻ, đại úy Giôphơrơ (Joffre sau này là thống chế Pháp trong chiến tranh thế giớ thứ nhất) nghĩ tới việc nhờ linh mục Trần Lục, quản xứ Phát Diệm và là Phó vương, tiếp trợ cho cuộc bình định các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông linh mục này đã nhận phép lành của giám mục Puyginiê, rồi đi tiếp viện cho quân Pháp với 5000 giáo dân, Ba Đình đã thất thủ.

Thật đau lòng cho một sử gia người Việt Nam công giáo khi phải nhắc lại những năm tháng ấy, thấy quân đội Pháp hành quân “bình định” chỉ được nghĩ ngơi trong các làng giáo: “Sau một cuộc hành quân mệt rã rời, quân lính của ta kiệt sức vì thiếu ăn, mà tiến vào một làng người lương thì thường chỉ được ăn đạn. Nhưng nếu gặp được làng người công giáo thì trẻ con chạy ra đóng đường và kêu ầm lên: Công giáo, công giáo đây! để quân chúng ta biết rằng chẳng có gì phải sợ ở đó, rồi dân làng đem chuối, trứng, gà ra chiêu đãi. Sự khác biệt thật rõ ràng và là điều đáng ghi nhớ nhỉ?”. Những giòng trên đây chẳng phải do một bàn tay Cộng sản ghi lại, mà là do một tu sĩ dòng Tên đã say sưa thích thú về thái độ của người có đạo kitô lúc đó nghĩ rằng bổn phận của họ là phải hợp tác (với Pháp) vì mình là người công giáo (F. Rouvier, Loin du Pays, Paris 1896, tr/ 103-104).

Cụ Phan Bội Châu, một chí sĩ yêu nước, đã gửi cho họ những lời tâm huyết trong cuốn Việt Nam vong quốc sử, xuất bản năm 1905 như sau: “Có một hạng người mà tổ tiên là Việt Nam, nhưng đã cùng vợ con trở thành tín đồ kitô. Này, hãy nghe tôi nói. Chúng ta đều sinh ra trong cùng một xứ sở, chúng ta cùng sống với nhau dưới gầm trời, cùng ăn một thứ cơm gạo... Bởi thế, chúng ta phải liên kết với nhau hầu bảo vệ giống nòi, hơn là quì gối trước mặt quân thù. Sau cái chết của các ngươi, có thể các người lên thiên đường, nhưng bây giờ đây, các ngươi phải cầu nguyện cho hòa bình; cuộc sống của các ngươi tại ngục tù trần gian này thật là khốn khổ, tại sao các người lại dững dưng được? Quả thực, mặc dầu là kitô hữu, các người thảy là người dân Việt Nam. Các người đừng đi theo quân Pháp, đừng giúp chúng nó làm hại Tổ quốc chúng ta. Như vậy, các người sẽ lập được công đức trung thành với Chúa, môn đồ của Đấng Kitô Cứu Thế, đồng thời thật là đồng bào Việt Nam”.

7. GIÁO HỘI DƯỚI CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA.

Từ ngày xâm chiếm Viêt Nam cho tới năm 1945, quân Pháp hằng phải đương đầu với các cuộc nổi dậy liên tục, lúc thì rộng lớn, khi thì giới hạn hơn. Không những nhân dân Việt Nam vì hãnh diện với nền băn hóa 4000 năm, không thể chịu cái nhục bị đô hộ, nhưng cũng vì thế chế độ cai trị thuộc địa đã giam hãm họ mãi trong sự nghèo khổ, dốt nát và bất công. Với những ly rượu, ly thuốc phiện, bọn thực dân bắt quần chúng say sưa quân cả bản thân và nghiện ngập đến trở thành đần độn như súc vật. Cứ đọc chẳng hạn những bản báo cáo mà phủ toàn quyền gửi về cho Bộ thuộc địa Pháp, sẽ thấy Báo cáo ngày 29-1-1908 viết: «Việc bán rượu trong cùng một thời kỳ (tháng 10-1907) đã vượt con số 700 ngàn lít, nhưng giảm mất 60 ngàn lít so với tháng trước... Còn thuốc phiện trái lại mức bán có gia tăng luôn. Tháng 10, đã bán được gần 1.800 kí thuốc phiện, nghĩa là gần gấp đôi số lượng đã bán cùng kỳ năm 1906”.

Báo cáo ngày 19-2-1908 ghi: “Việc tiêu thụ rượu tháng 11-1907 đã lên tới 744.798 lít, vượt tháng 10 được 40.957 lít, nhưng thấp hơn tháng 11 năm 1906, vì năm ấy đã bán tất cả 923.245 lít rượu. Còn việc bán thuốc phiện vẫn gia tăng một cách rất đáng phấn khởi”.

Vài ví dụ đó chỉ rõ công trình văn minh “Thiên Chúa Giáo» người Pháp thực hiện tại Việt Nam đứng ở mức đạo lý cao chừng nào. Tuy thế, trong thời kỳ này, công giáo vẫn đang phồn thịnh và ngày càn một phát triễn hơn. Có vài người lãnh đạo công giáo Việt Nam còn dám gọi thời thuộc địa đó là «thời vàng son của Giáo Hội tại Việt Nam”.

Việc phát triển công giáo trước hết là về mặc kinh tế. Nhằm tỏ lòng tri ân đối với các hoạt động thừa sai ngày 28-8-1962, tức chỉ 2 năm sau khi chiếm được 3 tỉnh ở Nam kỳ, toàn quyền thực dân đã ra nghị định dâng “nhưng không cho Nhà Chung mạn Tây Nam kỳ, hoàn toàn được chủ quyền về một sở đất tọa lạc tại Sài Gòn”. Đàng khác, mặc dầu có luật tách biệt Nhà thờ khỏi Nhà nước được bỏ phiếu năm 1905 và áp dụng tại “mẫu quốc” rồi, luật đó vẫn không bao giờ được công bố và áp dụng tại thuộc địa. Nhiều vụ nhượng đất đai đã được thực hiện cho Nhà Chung, chẳng hạn những năm 1923, 1926, 1927, 1930, 1931, không nói tới các vụ hiến đất «cách riêng tư», một số quan người Pháp đã lấy đất công dâng cho Nhà chung, thể theo lòng đạo đức cá nhân của họ.







tải về 343.47 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương