TÒA Án nhân dân quậN 11 CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố HỒ chí minh độc lập Tự do Hạnh phúc



tải về 57.08 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích57.08 Kb.
#17090
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

___________________________ _________________________________________________________________

Bản án số: 254/2012/DS-ST

Ngày: 29/8/2012

V/v: “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản


NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: B à Vũ Thị Thu Hương

Các hội thẩm nhân dân:

1/. Ông Huỳnh Anh Vũ

2/. Bà Đàm Thu Ánh

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Thái Thị Mỹ Hạnh – Cán bộ Tòa án nhân dân quận 11

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận 11 tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh – Kiểm sát viên.

Mở phiên tòa sơ thẩm vào ngày 29/8/2012 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận 11 xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số 42/2012/TLST – DS ngày 27/02/2012 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2012/QĐST-DS ngày 12/6/2012 giữa các đương sự:



1. Nguyên đơn: Bà  Nguyễn Thị Thu, sinh năm 1971

Địa chỉ thường trú: 47/8 đường Bửu Đình, phường 5, quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ tạm trú: 704 đường Kinh Dương Vương, phường An Lạc, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Thù Tư Lộc, sinh năm 1960

Địa chỉ thường trú: 49/40/21 đường Trịnh Đình Trọng, phường Phú Trung, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ tạm trú: 1AB đường Lạc Long Quân, phường 5, quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc Thảo, sinh năm 1971

Là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (văn bản ủy quyền ngày 04/4/2012).



3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Ngọc Thảo, sinh năm 1971.

Địa chỉ thường trú: 49/40/21 đường Trịnh Đình Trọng, phường Phú Trung, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ tạm trú: 1AB đường Lạc Long Quân, phường 5, quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Luật sư Trần Hồng Phong – Công ty luật hợp danh Ecolaw - Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

4. Người làm chứng:

- Bà Trần Thị Huệ, sinh năm 1958

Địa chỉ: 233A đường Dương Bá Trạc, phường 1, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Ông Nguyễn Tri Hùng, sinh năm 1980

Địa chỉ: 10/10A đường Lương Định Của, phường Bình Khánh, quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Ông Lê Quang Dũng, sinh năm 1977

Địa chỉ: 185P3 đường Mai Xuân Thưởng, phường 5, quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NHẬN THẤY
Trong đơn khởi kiện ngày 17 tháng 01 năm 2012, các biên bản lập tại Tòa án và tại phiên tòa, nguyên đơn - bà Nguyễn Thị Thu trình bày:

Bà là người đứng tên đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh Phú Hưng, địa điểm kinh doanh tại 704 đường Kinh Dương Vương, phường An Lạc, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, cửa hàng của bà chuyên mua bán máy móc đã qua sử dụng. Ông Thù Tư Lộc là khách hàng quen biết với cửa hàng Phú Hưng, ông Lộc đã mua hàng nhiều lần (05 lần), đều thanh toán tiền đầy đủ và cho người đến chở máy về. Vào tháng 8/2010, ông Lộc đi chung với ông An (bà không biết họ tên đầy đủ của ông An) đến cửa hàng của bà và mua 02 máy cán cao su, 01 cái nhông, đơn giá 16.000đ/kg, cụ thể:



  • Máy thứ 1: 6120kg x 16.000đ/kg = 97.920.000đ

  • Máy thứ 2: 4040kg x 16.000đ/kg = 64.640.000đ

  • 01 cái nhông: 206kg x 16.000đ/kg = 3.296.000đ

Tổng cộng: 165.856.000đ,

Sau khi thỏa thuận xong, ông Lộc dặn dò ông An chở máy về nhà ông Lộc, nhưng ông Lộc chưa giao tiền cho bà và hẹn sau một tuần sẽ trả tiền. Sau đó hết 01 tuần không thấy ông Lộc trả tiền, bà có đến nhà ông Lộc để lấy tiền, ông Lộc nói đã giao tiền cho ông An để trả cho bà với số tiền là 140.000.000đ. Thực tế bà chưa nhận được bất kỳ khoản tiền nào từ việc bán máy và nhông nói trên. Cửa hàng của bà không có người bán hàng nào tên An cả.

Sau đó giữa bà và ông Lộc có thỏa thuận bằng văn bản lập ngày 07/01//2012 về số tiền 165.856.000đ sẽ được thỏa thuận như sau: bà và ông Lộc mỗi bên chịu ½ là 70.000.000đ (trong số tiền 140.000.000đ mà ông Lộc đã giao cho ông An), số còn lại là 25.856.000đ ông Lộc hứa trả cho bà vào ngày 22/01/2012 nhưng sau đó ông Lộc có viết cho bà một bức thư với nội dung rằng ông Lộc sẽ không trả nợ cho bà như đã thỏa thuận.

Nay bà yêu cầu ông Lộc trả cho bà 165.856.000đ là tiền ông Lộc mua hai máy cán cao su và một cái nhông của bà, trả một lần sau khi án có hiệu lực pháp luật.

“Giấy thỏa thuận” ngày 07/01/2012 được lập tại nhà ông Lộc số 1AB đường Lạc Long Quân, phường 5, quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, phần bên “ông Lộc” là do ông Lộc ký và ghi họ tên, phần “C.Thu” là do bà tự tay ký tên vào. Bà Thu xác định trong nội dung của “Giấy thỏa thuận” trên, phần những dòng chữ có nội dung từ “ Hôm nay, ngày 07/01/2012, chúng tôi gồm có….” đến “trước đó ông Lộc có mua bán với cửa hàng Phú Hưng với hình thức như vậy và đã thanh toán đầy đủ” là do ông Nguyễn Tri Hùng (người làm chứng đi cùng với bà Huệ) tự tay viết vào. Phần những dòng chữ có nội dung “ (thực tế bên ông Lộc không nhận máy từ cửa hàng Phú Hưng… Hai bên đồng ý thỏa thuận trên cùng ký vào.” và phần những dòng chữ có nội dung “nếu không thanh toán ST (70.000.000 bảy mươi triệu đồng) thì ông Lộc trả lại 2 máy cho c. Thu” đều do vợ ông Lộc là bà Nguyễn Thị Ngọc Thảo tự tay viết vào. Bà Trần Thị Huệ là người làm chứng do bà dẫn đến.

Tại các biên bản lập tại Tòa án và tại phiên tòa, đại diện bị đơn - bà Nguyễn Thị Ngọc Thảo trình bày:

Từ nhiều năm trước đây ông Thù Tư Lộc có quan hệ mua bán máy móc phế liệu với cửa hàng Phú Hưng và người trực tiếp giao dịch mua bán tại cửa hàng Phú Hưng với ông Lộc là ông An. Thông thường việc mua bán thanh toán dứt điểm ngay tại cửa hàng, ông Lộc là người trực tiếp giao tiền cho ông An. Ông Lộc đã đến cửa hàng Phú Hưng để mua bán từ 05 đến 07 lần.

Việc mua bán hai máy cán phế liệu thì ông An có điện thoại cho ông Lộc nói là có bán 02 loại máy nêu trên và hỏi ông Lộc có mua không, ông Lộc đồng ý mua, ông Lộc mua máy thứ nhất vào khoảng tháng 8 đến tháng 10/2010 với số tiền là 96.000.000đ, máy thứ hai vào tháng 9/2010 là 64.000.000đ, tổng cộng là 160.000.000đ. Ông Lộc đã thanh toán cho ông An tổng cộng là 141.000.000đ, có giấy biên nhận tiền do ông An ký tên. Ông Lộc còn nợ ông An 19.000.000đ. Việc mua bán 02 máy trên ông Lộc chỉ giao dịch, nhận hàng và trả tiền cho ông An. Ông Lộc xác định không giao dịch với bà Thu. Hiện ông Lộc không biết ông An đang ở đâu, ông Lộc không thể cung cấp địa chỉ của ông An. Việc mua bán giữa ông Lộc và ông An có ông Lê Quang Dũng là người làm chứng do ông Dũng chở hàng giao cho ông Lộc.

“Giấy thỏa thuận” ngày 07/01/2012 được lập tại nhà ông Lộc số 1AB đường Lạc Long Quân, phường 5, quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, nội dung, chữ viết, chữ ký và có người làm chứng là bà Trần Thị Huệ đúng như bà Thu trình bày. Việc ông Lộc và bà ký vào giấy thỏa thuận là do phía bà Thu có dẫn theo 8 người để gây áp lực với ông Lộc, đe dọa và đòi nợ trái pháp luật, ngay sau khi ký giấy thỏa thuận trên, ông Lộc đã làm đơn trình bày và tố cáo lên Công an quận 11 về hành vi của bà Thu.

Bà đại diện cho ông Lộc không đồng ý theo yêu cầu của bà Thu.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Nguyễn Thị Ngọc Thảo trình bày:

Bà là vợ ông Thù Tư Lộc, ý kiến của ông Lộc cũng là ý kiến của bà. Bà đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa và hỗ trợ bà và ông Lộc xác minh, tìm ra ông An để làm sáng tỏ vụ án.

Người làm chứng - ông Lê Quang Dũng trình bày tại biên bản lấy lời khai ngày 10/4/2012:

Ngày 09/8/2010, ông An (không rõ họ tên đầy đủ) có gọi điện cho ông nói ông đến cửa hàng Phú Hưng nhận máy chở về giao cho ông Lộc. Khi ông đến kho của cửa hàng Phú Hưng, ông có thấy hai máy cán tại đó, ông An nói ông chở một cái máy về giao cho ông Lộc. Sau đó ngày 07/11/2010, ông An lại gọi điện cho ông lần nữa, nói ông tới Ao Đôi cẩu một máy cán nữa giao cho ông Lộc, cái máy ông chở lần 2 nặng hơn, chính là máy cán mà ông đã thấy ngày 09/8/2010 tại bãi Phú Hưng. Riêng về cái nhông, ông không biết và không chở cho ông Lộc cái nhông nào cả. Ông xác định hai cái máy cán ông giao cho ông Lộc là từ cửa hàng Phú Hưng. Trong sự việc mua bán hai máy cán nói trên giữa ông An và ông Lộc, ông không thấy có bà Thu. Riêng về ông An, ông chỉ biết ông An do ông An gọi điện cho ông chở máy giao cho ông Lộc. Theo ông được biết thì ông An là người môi giới cho ông Lộc mua hai máy cán của cửa hàng Phú Hưng, ông An không phải là nhân viên của cửa hàng Phú Hưng. Ông Dũng cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời khai của mình.

Người làm chứng - bà Trần Thị Huệ trình bày:

Bà là người cùng mua bán trong ngành nghề với bà Thu và ông Lộc. Ông Lộc là khách hàng thường xuyên đến cửa hàng Phú Hưng của bà Thu mua máy cũ về sửa chữa lại và bán lại cho những người có nhu cầu. Việc mua bán hai máy cán giữa ông Lộc và bà Thu, bà có biết. Bà là người đi cùng bà Thu đến nhà ông Lộc và chứng kiến việc thỏa thuận giữa hai bên về việc hẹn trả tiền mua hai máy cán, chữ viết, chữ ký trong giấy thỏa thuận đúng như bà Thu trình bày. Thời điểm hai bên thỏa thuận có mặt bà Thu, ông Lộc, bà Thảo, bà và ông Nguyễn Tri Hùng, không có sự ép buộc nào cả mà do hai bên tự thỏa thuận. Bà Huệ cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời khai của mình.

Người làm chứng – ông Nguyễn Tri Hùng trình bày:

Trước ngày 07/01/2012, ông không quen biết ông Lộc, ông là nhân viên của bà Huệ. Vào ngày 07/01/2012, ông đi cùng bà Thu, bà Huệ và một người nữa đến nhà ông Lộc để đòi tiền hàng ông Lộc còn thiếu bà Thu. Tại nhà ông Lộc, bà Thu và ông Lộc, bà Thảo thỏa thuận với nhau. Bà Thu và bà Thảo yêu cầu ông viết giúp giấy thỏa thuận, trên giấy thỏa thuận nói trên, ông viết từ chữ “Giấy thỏa thuận… đã thanh toán đầy đủ”, còn nội dung phần sau của giấy thỏa thuận do ai viết thì ông không biết. Ông là người thường xuyên chở bà Huệ đến cửa hàng Phú Hưng (bà Huệ không đi xe được) do bà Huệ là người làm ăn chung với bà Thu, ông không biết ông An là ai. Ông Hùng cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời khai của mình.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn vẫn giữ yêu cầu khởi kiện. Các bên đương sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ kiện.

Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Căn cứ vào hồ sơ và lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa, xác định quan hệ mua bán tài sản giữa bà Nguyễn Thị Thu và ông Thù Tư Lộc là chưa có cơ sở, việc mua bán không có chứng từ giữa hai bên, không thể hiện có việc mua bán tài sản giữa bà Thu và ông Lộc, nên đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của bà Thu. Giao dịch mua bán giữa ông An và ông Lộc là có thật, có chứng cứ mà phía ông Lộc đã chứng minh và có người làm chứng là ông Dũng đã nhận hàng từ ông An và giao hàng cho ông Lộc. Giấy thỏa thuận có nhiều mâu thuẫn cần được làm sáng tỏ, có dấu hiệu nhầm lẫn của phía bị đơn nên ngay sau khi hai bên làm giấy thỏa thuận thì phía ông Lộc, bà Thảo đã có đơn trình bày và tố cáo gửi Công an để giải quyết; do có sự nhầm lẫn về phía bị đơn nên giấy thỏa thuận này đề nghị xem xét là vô hiệu. Hiện nay phía bị đơn đã xác định được hình ảnh của ông An, xe của ông An sử dụng, họ tên của ông An cũng chính là ông Châu Vĩnh Huê trên giấy CMND và sổ hộ khẩu; do vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hỗ trợ xác minh, thu thập chứng cứ để tìm được ông An làm sáng tỏ vụ việc

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận 11 phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật như sau: Trong quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng; các bên tham gia tố tụng chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay người đại diện hợp pháp và người bảo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn yêu cầu Tòa án hoãn phiên tòa và hỗ trợ thu thập chứng cứ, Hội đồng xét xử đã không chấp nhận yêu cầu hoãn phiên tòa của bị đơn và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn là đúng quy định của pháp luật.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Quan hệ xác lập giữa nguyên đơn - bà Nguyễn Thị Thu và bị đơn - ông Thù Tư Lộc là quan hệ giao dịch mua bán tài sản, trong quá trình thực hiện xảy ra tranh chấp, bà Thu có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, ông Lộc cư trú tại quận 11; do vậy, đây là tranh chấp về hợp đồng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận 11 theo quy định tại khoản 3 Điều 25, điểm a khoản 1 Điều 33, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng Dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011).

Xét về yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn trả số tiền mua hai máy cán cao su với tổng số tiền là 162.560.000đ, xác định bà Nguyễn Thị Thu là chủ cửa hàng Phú Hưng theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể số 41W8011278 do Phòng Kinh tế quận Bình Tân cấp ngày 02/4/2007, địa điểm kinh doanh tại 704 đường Kinh Dương Vương, phường An Lạc, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Việc mua bán dựa trên cơ sở uy tín lâu năm giữa hai bên nên chỉ thỏa thuận miệng không lập hóa đơn, chứng từ. Xác định có việc mua bán tài sản giữa cửa hàng Phú Hưng do bà Thu làm chủ với ông Thù Tư Lộc thông qua các chứng cứ sau: giấy thỏa thuận lập ngày 07/01/2012 giữa bà Thu và ông Lộc, bà Thảo như sau: “ông Thù Tư Lộc có mua hai máy cán cao su trị giá 165.000.000đ (một trăm sáu mươi lăm triệu đồng) của cửa hàng Phú Hưng…”, bà Thảo cam kết vào ngày 08/7/2012 anh Lộc sẽ thanh toán cho chị Thu số tiền là 70.000.000đ (bảy mươi triệu đồng) nếu không kiếm được ông An. Hai bên đồng ý thỏa thuận cùng ký vào; lời khai của người làm chứng là bà Trần Thị Huệ (Theo bản tự khai ngày 19/3/2012); lời khai của người làm chứng là ông Lê Quang Dũng: ông Dũng là người chở hai máy cán ở cửa hàng Phú Hưng giao cho ông Lộc, ông Dũng xác định ông An là người môi giới cho ông Lộc mua hai máy cán cửa cửa hàng Phú Hưng, ông An không phải là nhân viên của cửa hàng Phú Hưng (Theo biên bản lấy lời khai ngày 10/4/2012). Tại phiên tòa, bà Thảo và người làm chứng - ông Dũng nại rằng, ông Dũng chở hàng cho ông Lộc từ bãi đất trống gần cầu An Lạc chứ không phải cửa hàng Phú Hưng, điều này trái với tất cả biên bản làm việc tại Tòa án cũng như các đơn khiếu nại, đơn trình bày của bà Thảo nhiều lần gửi cho cơ quan Công an, Tòa án và Viện kiểm sát thể hiện sự không trung thực trong lời khai của mình. Ông Lộc và bà Thảo cho rằng giấy thỏa thuận ngày 07/01/2012 được lập do bị đe dọa, ép buộc là không đúng, bởi lẽ theo Phiếu hướng dẫn đơn của Công an quận 11 trả lời đơn trình bày và tố cáo của ông Lộc ghi rõ: “Không có sự việc đòi nợ trái pháp luật như nội dung trong đơn tố cáo. Việc mua bán hàng hóa giữa ông Lộc và bà Thu dẫn đến phát sinh tranh chấp về lợi ích giữa các bên – thuộc quan hệ dân sự”, đồng thời những người làm chứng – bà Huệ, ông Hùng xác định chỉ có bà Thu thỏa thuận với bà Thảo, ông Lộc ngoài ra không có người nào khác. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng bị đơn bị nhầm lẫn khi ký giấy thỏa thuận nói trên, xét thấy việc thỏa thuận là tự nguyện, ông Lộc và bà Thảo đều có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và đã thừa nhận chữ viết, chữ ký của mình nên không thể chấp nhận ý kiến của luật sư.

Trong quá trình giải quyết vụ kiện, ông Lộc và bà Thảo nhiều lần cho rằng ông bà mua hai máy cán cao su của ông An và đã trả tiền mua máy cho ông An, không có việc mua bán với cửa hàng Phú Hưng của bà Thu, ông Lộc đã đưa ra chứng cứ là các giấy tờ viết tay cho rằng của ông An nhưng những chứng cứ này chưa đủ chứng minh theo quy định tại Điều 80 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án đã ra quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ số 03/2012/QĐ-CCCC ngày 19/4/2012 đối với ông Thù Tư Lộc yêu cầu ông Lộc cung cấp họ tên đầy đủ, nơi cư trú của ông An để Tòa án triệu tập ông An giải quyết vụ kiện theo quy định của pháp luật nhưng ông Lộc không cung cấp được. Sau khi Tòa án ra quyết định xét xử, theo yêu cầu của bà Thảo, Tòa án đã hoãn phiên tòa lần thứ nhất để xác minh về ông An, theo kết quả xác minh của Công an phường 5 quận 11 thì không xác định được chủ chiếc xe 51U8-7586 mà bà Thảo cho rằng của ông An để lại hiện trường là của ai và ngoài ra, Công an phường 5 quận 11 không giữ giấy tờ gì khác liên quan đến ông An. Tại phiên tòa hôm nay, bà Thảo đại diện cho ông Lộc có đơn đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa và hỗ trợ thu thập chứng cứ đối với ông An nhưng bà Thảo không đưa ra được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của bà, Hội đồng xét xử xét thấy không đủ cơ sở xem xét thu thập thêm chứng cứ do không liên quan đến vụ kiện. Do không thể xác định được người tên An mà ông Lộc cho rằng ông đã giao tiền mua hai máy cán cho ông An nên ông Lộc phải có trách nhiệm trả cho bà Thu là người chủ hàng đã bán hai máy cán cao su nói trên cho ông Lộc. Riêng về lời khai và các chứng cứ mà ông Lộc đưa ra cho rằng ông An đã nhận tiền mua hai máy cán thì ông Lộc có quyền khởi kiện ông An bằng một vụ kiện khác khi tìm được ông An.

Ngoài ra, nguyên đơn có yêu cầu về việc đòi ông Lộc thanh toán tiền mua một cái nhông cân nặng 206kg, đơn giá 16.000đ/kg, thành tiền là 3.296.000đ; xét thấy nguyên đơn không đưa ra chứng cứ chứng minh ông Lộc có mua món hàng nói trên, tại giấy thỏa thuận ngày 07/01/2012 cũng không nói đến việc này, người làm chứng – ông Dũng cũng xác định khi chở hàng không có cái nhông nào cả nên không chấp nhận phần yêu cầu này của nguyên đơn.

Từ những phân tích, nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi bị đơn phải trả số tiền mua bán hai máy cán cao su là 162.560.000đ.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thu phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên yêu cầu không được chấp nhận theo quy định của pháp luật là 200.000đ. Ông Thù Tư Lộc phải chịu án phí trên số tiền phải trả là 8.128.000đ.

Bởi những nhận định trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 25, điểm a khoản 1 Điều 33, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 243, 245, 250, 252 Bộ luật tố tụng Dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011);

Căn cứ Điều 305, Điều 428, 438 Bộ luật Dân sự 2005;

Căn cứ vào Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thu.

Buộc ông Thù Tư Lộc phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị Thu số tiền mua hai máy cán cao su là 162.560.000đ (một trăm sáu mươi hai triệu năm trăm sáu mươi ngàn đồng) sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Trong trường hợp ông Thù Tư Lộc chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho bà Thu thì ông Lộc phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Hai bên thực hiện việc giao nhận tiền tại chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

2/. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thu phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm ngàn đồng), khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Thu đã đóng là 4.146.500đ (bốn triệu một trăm bốn mươi sáu ngàn năm trăm đồng) theo biên lai thu số AB/2010/09264 ngày 09/02/2012 của Chi cục Thi hành án dân sự quận 11. Hoàn lại cho bà Thu số tiền chênh lệch là 3.946.500đ (ba triệu chín trăm bốn mươi sáu ngàn năm trăm đồng).

Ông Thù Tư Lộc phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 8.128.000đ (tám triệu một trăm hai mươi tám ngàn đồng).

3/. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.



Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM

- VKSND-TAND TP.HCM; Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa

- VKSND Q.11;

- Chi cục THADS Q.11;

- Các đương sự;

- Lưu;


Vũ Thị Thu Hương





tải về 57.08 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương