nhường, quảng đại với người khác, giản dị phục vụ Giáo Hội,
ngày ngày đi lễ hai lần trong ngày đến nhà thờ cầu nguyện và
nghe tiếng Chúa? Làm sao Chúa có thể nhắm mắt khi bà khóc,
những giọt lệ khẩn khoản không phải xin vàng bạc, hay danh
vọng trần
gian mau qua, nhưng chỉ cho đứa con xa lạc được
cứu rỗi? Vì thế để đáp lại lời nguyện âm thầm của bà Chúa
chữa tôi lành và cho tôi chỗi dậy. Tại Roma, cùng với bạn bè
với niềm tin xa lạ, Chúa đã gặp tôi và đánh động tôi. Nhưng tôi
vẫn không lay chuyển. Tôi kiêu ngạo đến nỗi coi mình không
có tội. Theo niềm tin của phái Manichee tôi bảo tôi không có
tội theo quan điểm là không phải tôi phạm tội nhưng nguyên lý
sự dữ hiện diện vật lý trong tôi phạm tội, trong khi thực ra tôi
duy nhất và chính do sự không vâng lời tội lỗi của tôi đã tạo
nên xung đột nội tâm đó. Nhưng trong lúc đó tôi không chấp
nhận điều ấy. Tôi đã phá hủy sự tự tin.
Vì thế việc khỏi bịnh không đem tôi đến gần Chúa ngay. Hơn
nữa tôi lại theo tư tưởng của giới trí thức Roma thời đó cho là
ta nên nghi ngờ mọi sự và đặt vấn đề trong mọi sự vì con người
không thể hiểu được chân lý tối hậu. Ðồng thời tôi không thèm
để ý đến những phức tạp do quan niệm ấy. Ông chủ nhà tôi ở
hoàn toàn tin theo những câu chuyện trong sách của nhóm
Manichee nhưng tôi không bảo ông nên nghi ngờ khi đọc
những chuyện đó. Chính tôi lại nghi ngờ những chuyện đó hơn
và tôi cũng không binh vực lý thuyết đó hăng hái như xưa.
Thật đáng buồn khi tôi hoàn toàn không muốn quay về với
Giáo Hội để tìm câu trả lời, thất vọng trong việc tìm ra chân lý
Kitô giáo mà bạn bè tôi đã làm tôi xa cách, và còn dậy giáo
thuyết mà tôi ghê tởm là chính Thiên Chúa là thần linh đã mang
lấy thịt máu nơi con ngài. Chắc chắn tôi nghĩ rằng Chúa Kitô
sinh ra trong xác thịt cũng bị xác thịt làm nhơ uế. Ý nghĩ đó
làm tôi chống đối. Nhưng ít ra tôi suy nghĩ và hỏi han. Và Mẹ
tôi vẫn cầu nguyện.