SÁch giáo lý CỦa giáo hội công giáo sách giáo lý CỦa giáo hộI



tải về 4.7 Mb.
trang35/68
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích4.7 Mb.
#11671
1   ...   31   32   33   34   35   36   37   38   ...   68

1507 430.

Chúa Phục Sinh đã lặp lại việc sai đi này. "Nhân danh Thầy... họ đặt tay trên những người bệnh hoạn yếu đau, thì những người này sẽ được an lành mạnh khỏe" (Mc 16, 17-18) và xác nhận điều ấy bằng những dấu chỉ Hội Thánh thực hiện khi kêu cầu danh thánh Người ). Các dấu chỉ này đặc biệt minh chứng Đức Giê-su thật là "Thiên Chúa cứu độ" (x. Mt 1,21; Cv 4,12).


1508 798.

Chúa Thánh Thần ban cho một số người đặc sủng chữa bệnh để biểu lộ sức mạnh ân sủng của Đấng Phục Sinh. Ngay cả những lời cầu nguyện sốt sắng nhất cũng không chữa lành mọi bệnh tật. Vì thế, thánh Phao-lô phải học nơi Chúa : "Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối" (2Cr 12,9); và những đau khổ phải chịu cũng có ý nghĩa: "Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức. Như thế, là vì lợi ích cho Thân Thể Người là Hội Thánh" (Cl 1,24).


1509 1405.

"Hãy chữa lành bệnh nhân !" (Mt 10,8). Hội Thánh lãnh nhận sứ vụ này nơi Chúa và cố găéng thực hiện qua việc chăm sóc bệnh nhân và cầu nguyện cho họ. Hội Thánh tin Đức Ki-tô, vị Lương Y thể xác và tinh thần, đang hiện diện và hoạt động đặc biệt trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, bánh ban sự sống đời đời (x. Ga 6,54.58), và theo thánh Phao-lô, có liên hệ đến sức khỏe thể xác (x. 1Cr 11,30).


1510 1117.

Hội Thánh thời các tông đồ đã có nghi thức riêng dành cho bệnh nhân. Thánh Gia-cô-bê làm chứng : "Ai trong anh em đau yếu ư ? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến và họ sẽ cầu nguyện cho người ấy sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy và nếu đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha" (x. Gc 5,14-15). Truyền Thống Hội Thánh nhận nghi thức này làm một trong bảy bí tích (x. DS 216; 1324-1325; 1695-1696; 1716-1717) .


Bí tích cho bệnh nhân
1511.

Hội Thánh tin và tuyên xưng trong bảy bí tích có một bí tích để nâng đỡ người bệnh tật là bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân.


Chính Đức Ki-tô thiết lập bí tích Xức Dầu như một bí tích thực sự và đúng nghĩa của Giao Ước Mới. Bí tích này đã được thánh Mác-cô nhắc đến (Mc 6,13), thánh Gia-cô-bê, tông đồ và là người anh em với Chúa (x. Gc 5,14-15), đã ra chỉ thị và công bố.
1512.

Trong truyền thống phụng vụ của Đông cũng như Tây Phương, từ xa xưa có những dấu chứng chắc chắn cho thấy bí tích Xức Dầu đã được cử hành với dầu đã được thánh hiến. Theo thời gian, bí tích này dần dần chỉ được ban cho những người hấp hối. Vì thế, còn gọi là "Xức dầu lần cuối". Dầu vậy, Hội Thánh không bao giờ quên cầu xin Chúa cho bệnh nhân được lành bệnh, nếu hữu ích cho phần rỗi của ho (x DS 1696).


1513.

Tông Hiến "Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân" ban hành ngày 30/11/1972, theo đường hướng Công Đồng Va-ti-ca-nô II (x. SC 73), xác định nghi thức trong phụng vụ Rô-ma như sau :


"Bí tích Xức Dầu được ban cho những ai bệnh hoạn nguy kịch. Thừa tác viên vừa xức dầu ô-liu hay dầu thực vật khác, đã được thánh hiến, trên trán và trên tay của bệnh nhân vừa đọc: "Nhờ việc xức dầu thánh này và nhờ lòng từ bi nhân hậu của Chúa, xin Chúa dùng ơn Chúa Thánh Thần mà giúp đỡ con, để Người giải thoát con khỏi mọi tội lỗi, cứu chữa con và thương làm cho con thuyên giảm" (x. CIC, khoản 847, triệt 1).
II. NGƯỜI LÃNH NHẬN VÀ NGƯỜI BAN BÍ TÍCH XỨC DẦU
Trong trường hợp bệnh nặng...
1514.

Xức dầu bệnh nhân "không phải chỉ là bí tích dành cho những người hấp hối. Do đó, thời gian thích hợp để lãnh nhận bí tích Xức Dầu Thánh là khi người tín hữu bắt đầu lâm cơn nguy tử vì bệnh tật hay già yếu" (x. SC 73, x. CIC, khoản 1004, triệt 1; 1005;1007; CCEO, khoản 738) .


1515.

Nếu bệnh nhân đã lãnh bí tích Xức Dầu và được hồi phục, sau đó trở bệnh nặng, lại có thể nhận bí tích Xức Dầu lần nữa. Trong cùng một cơn bệnh, có thể lãnh nhận bí tích này nhiều lần, cứ mỗi lần trở nặng. Trước khi chịu đại phẫu, tín hữu nên lãnh bí tích Xức Dầu. Cả người lớn tuổi cũng được lãnh nhận khi thấy sức lực suy yếu.


"... Hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến"
1516.

Chỉ có tư tế (giám mục, linh mục) là thừa tác viên bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân (x. CCEO, khoản 739, triệt 1). Các mục tử phải dạy cho các tín hữu biết những ơn ích của bí tích này. Các tín hữu phải khuyến khích bệnh nhân mời linh mục đến ban bí tích. Bệnh nhân phải chuẩn bị tâm hồn để nhận bí tích này cách xứng đáng. Các mục tử và cộng đoàn phải trợ giúp, chăm sóc và cầu nguyện cho họ.


III. NGHI THỨC XỨC DẦU BỆNH NHÂN
1517 1140 1524.

Như các bí tích khác, bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân là một cử hành Phụng Vụ có tính cách cộng đoàn (x. SC 27), dù cử hành trong gia đình, nơi bệnh viện hay ở nhà thờ, cho một hay nhiều bệnh nhân. Tốt nhất nên cử hành trong thánh lễ tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa. Nếu hoàn cảnh cho phép, nên cử hành bí tích Sám Hối trước khi ban bí tích Xức Dầu, và tiếp đó là bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể như là bí tích vượt qua của Chúa Ki-tô, phải là bí tích cuối cùng mà người tín hữu lãnh nhận trong cuộc lữ hành trần thế, đó là "của ăn đàng" để người tín hữu bước vào cuộc sống vĩnh cửu.


1518.

Lời Chúa và bí tích làm nên một thể thống nhất bất khả phân ly. Để chuẩn bị, cộng đoàn sám hối; tiếp đến, phụng vụ Lời Chúa chính thức khai mạc việc cử hành bí tích. Lời Chúa Ki-tô và chứng từ của các tông đồ (trong các bài đọc) khơi động đức tin của bệnh nhân và cộng đoàn, để cầu xin Chúa ban sức mạnh Thánh Thần.


1519.

Việc cử hành bí tích Xức Dầu gồm những yếu tố chính như sau : "Kỳ mục của Hội Thánh" (Gc 5,14) thinh lặng, đặt tay trên bệnh nhân, cầu nguyện cho bệnh nhân trong đức tin của Hội Thánh (x. Gc 5,15): đó là kinh Xin Ban Thánh Thần của bí tích này; cuối cùng, dùng dầu đã được thánh hiến xức cho bệnh nhân. Nếu được nên dùng dầu do giám mục thánh hiến.


Những nghi thức phụng vụ này biểu thị ân sủng bí tích bệnh nhân được hưởng.
IV. HIỆU QUẢ BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN
1520 733.

Chúa Thánh Thần ban một ân huệ đặc biệt trong bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân. Ơn căn bản của bí tích này là ơn sức mạnh, bình an và can đảm để lướt thắng những khó khăn do bệnh tật hay tuổi già. Đây là hồng ân của Chúa Thánh Thần giúp người đau yếu tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, cho họ sức mạnh chống lại cám dỗ của ma quỷ, cám dỗ ngã lòng và sợ chết (x. Dt 2,15). Sự trợ giúp của Chúa nhờ sức mạnh của Thánh Thần sẽ chữa lành linh hồn bệnh nhân, và nếu Chúa muốn thì thể xác cũng được chữa lành (x. CĐ Phơ-lô-ren-ti-nô: DS 1325). Ngoài ra,"nếu bệnh nhân đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha" (x. Gc 5,15; Cđ Tren-tô :DS 1717)
1521 1535 1499.

Kết hiệp với Đức Ki-tô chịu khổ nạn. Nhờ ân sủng bí tích này, bệnh nhân lãnh nhận sức mạnh và hồng ân kết hiệp chặt chẽ hơn với Đức Ki-tô chịu khổ nạn : có thể nói, họ được thánh hiến để sinh hoa kết trái nhờ đồng hình đồng dạng với Đấng Cứu Thế chịu khổ nạn. Đau khổ, hậu quả của nguyên tội, nhận một ý nghĩa mới : được tham dự vào công trình cứu độ của Đức Giê-su.
1522 953.

Ân sủng mang tính Hội Thánh. "Nhờ sẵn sàng kết hiệp với Đức Ki-tô chịu đau khổ và chịu chết khi lãnh nhận bí tích, các bệnh nhân góp phần mưu ích cho dân Thiên Chúa (x. LG 11). Khi cử hành bí tích này, trong sự hiệp thông của Dân Thánh, Hội Thánh cầu nguyện cho bệnh nhân và bệnh nhân nhờ ân sủng của bí tích, góp phần thánh hóa Hội Thánh và mưu ích cho mọi người : Hội Thánh phải chịu đau khổ và tự hiến cho Chúa Cha, nhờ Chúa Ki-tô, vì mọi người.
1523 1020 1294 1020.

Chuẩn bị cho cuộc ra đi lần cuối. Nếu bí tích Xức Dầu được ban cho những người bệnh nặng và những kẻ liệt lào, thì càng thích hợp hơn cho những người sắp lìa cõi đời này ("In exitu vitea constituti", x. CĐ Trentô: DS 1698). Vì thế, còn gọi là "bí tích của người ra đi" (sđd). Bí tích Xức Dầu hoàn tất điều bí tích Thánh Tẩy đã khởi sự là người tín hữu được đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô chịu chết và sống lại. Bí tích này hoàn tất mọi việc xức dầu thánh, trong suốt cuộc đời người tín hữu : việc xức dầu trong bí tích Thánh Tẩy tuôn tràn sự sống mới trong chúng ta; việc xức dầu trong bí tích Thêm Sức củng cố sức lực chúng ta để chiến đấu giữa cuộc đời; việc xức dầu lần cuối giúp chúng ta an toàn trong cuộc chiến đấu cuối cùng trước khi vào nhà Cha (x sđd: DS 1694).
V. CỦA ĂN ĐÀNG, BÍ TÍCH CUỐI CÙNG CỦA NGƯỜI KI-TÔ HỮU
1524 1392.

Ngoài Bí Tích Xức Dầu, Hội Thánh còn ban Thánh Thể cho kẻ lâm chung, như của ăn đàng. Việc lãnh nhận Mình và Máu Chúa Ki-tô lúc chuẩn bị bước vào nhà Cha có một ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt. Đây là mầm sống vĩnh cửu và là tiềm năng phục sinh như Chúa đã nói : "Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" (Ga 6,54). Bí tích Thánh Thể, bí tích của cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Ki-tô, là bí tích Vượt Qua từ cõi chết đến cõi sống, từ thế gian này mà về cùng Cha (x. Ga 13,1).


1525 1680 2299.

Cũng như ba bí tích Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể hợp thành một, gọi là "các bí tích khai tâm Ki-tô giáo", thì bí tích Thống Hối, Xức Dầu và Thánh Thể như của ăn đàng, hợp thành "các bí tích chuẩn bị về quê trời" hay là "các bí tích hoàn tất cuộc lữ hành trần thế".


TÓM LƯỢC
1526.

"Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục trong Hội Thánh đến, họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu đã phạm tội, thì sẽ được Chúa tha thứ" (Gc 5,14-15).

1527.

Bí tích Xức Dầu nhằm mục đích ban ơn riêng cho người tín hữu đang bị thử thách vì bệnh nặng hay già yếu.
1528.

Thời gian thích hợp để lãnh nhận bí tích Xức Dầu Thánh là khi người tín hữu bắt đầu lâm cơn nguy tử vì bệnh tật hay già yếu.
1529.

Mỗi khi lâm trọng bệnh, người Ki-tô hữu có thể lãnh nhận bí tích Xức Dầu, và khi bệnh tình trở nên nguy kịch, có thể nhận lại bí tích này.
1530.

Chỉ các tư tế (giám mục, linh mục) mới có thể ban bí tích Xức Dầu. Các ngài sử dụng dầu do giám mục thánh hiến, hay trong trường hợp khẩn cấp, do chính thừa tác viên thánh hiến.
1531.

Nghi thức chính yếu của bí tích này là xức dầu trên trán và trên tay của bệnh nhân (theo nghi lễ Rô-ma) hoặc trên các phần khác của thân thể (theo nghi lễ Đông Phương), đang khi thừa tác viên đọc lời nguyện phụng vụ để xin ơn đăềc biệt của bí tích cho bệnh nhân.
1532.

Ơn riêng của bí tích Xức Dầu có những hiệu quả sau đây :

- kết hiệp bệnh nhân với Đức Ki-tô chịu khổ nạn, vì lợi ích cho họ và toàn thể Hội Thánh;

- được ơn sức mạnh, bình an và can đảm đón nhận theo tinh thần Ki-tô giáo những đau khổ do bệnh tật hay tuổi già ;

- tha tội trong tường hợp bệnh nhân không xưng

tội được;

- hồi phục sức khoẻ nếu hữu ích cho phần rỗi;

- chuẩn bị bước vào đời sống vĩnh cửu.

CHƯƠNG BA
CÁC BÍ TÍCH PHỤC VỤ CHO SỰ

HIỆP THÔNG
1533 1212.

Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể là những bí tích khai tâm Ki-tô giáo. Ba bí tích này đặt nền tảng cho ơn gọi chung của người môn đệ Đức Ki-tô, ơn gọi nên thánh và được sai đi rao giảng Tin Mừng cho thế giới. Ba bí tích này còn ban những ơn cần thiết để sống theo Thánh Thần trong cuộc lữ hành về quê trời.


1534.

Hai bí tích Truyền Chức và Hôn Phối được lập ra nhằm phần rỗi tha nhân. Tuy nhiên, khi phục vụ tha nhân, hai bí tích này cũng góp phần cứu rỗi bản thân. Hai bí tích này vừa trao ban một sứ mệnh đặc biệt trong Hội Thánh, vừa xây dựng cộng đoàn Dân Thiên Chúa.


1535 784.

Những ai đã được thánh hiến bởi bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức (x. LG 10) để lãnh nhận chức tư tế chung Chúa dành cho các tín hữu, đều có thể được "thánh hiến" đặc biệt qua các bí tích này. Những người lãnh nhận bí tích Truyền Chức được thánh hiến để nhân danh Đức Ki-tô chăn dắt đoàn chiên của Chúa là Hội Thánh "bằng Lời và ân sủng của Người" (x. LG 11). Còn "vợ chồng ki-tô hữu, được cũng cố và như được thánh hiến bằng một bí tích riêng để đón nhận các bổn phận và phẩm giá của bậc sống họ" (x. GS 48,2).


Mục 6
BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH
1536 860.

Truyền Chức là bí tích qua đó sứ mạng Chúa Ki-tô ủy thác cho các tông đồ tiếp tục được thực hiện trong Hội Thánh cho đến tận thế; vì thế, được gọi là bí tích của thừa tác vụ tông đồ. Bí tích này gồm 3 cấp bậc : chức giám mục, chức linh mục và chức phó tế.


(Về việc Đức Ki-tô thiết lập và trao ban thừa tác vụ tông đồ, xem 874-896. Ở đây, chỉ bàn về bí tích; qua đó, thừa tác vụ này được chuyển giao.)
I. TẠI SAO GỌI LÀ BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC ?
1537 922 923;1631.

Vào thời cổ Rô-ma, người ta dùng từ "Ordo" để chỉ những tập thể dân sự, nhất là tập thể lãnh đạo. "Ordinatio" chỉ việc được nhận vào tập thể đó. Trong Hội Thánh có những tập thể như vậy mà truyền thống, phần nào dựa trên cơ sở Kinh Thánh (x. Dt 5,6; 7,11; Tv 110,4), ngay từ xưa gọi là Taxeis (tiếng Hy lạp) hay "Ordines" (tiếng La-tinh). Chẳng hạn, Phụng vụ nói đến hàng giám mục, hàng linh mục, hàng phó tế. Nhiều nhóm khác cũng được gọi là "Ordo" : giới dự tòng, giới trinh nữ, giới vợ chồng, giới góa bụa....


1538 875 699.

Việc gia nhập vào một tập thể của Hội Thánh xưa kia thường được cử hành bằng một nghi thức gọi là “truyền chức” (Ordinatio). Đó là một hành vi tôn giáo và phụng vụ, có thể là thánh hiến, chúc lành hay bí tích. Ngày nay, từ “truyền chức” dành riêng cho việc cử hành bí tích gia nhập hàng giám mục, linh mục và phó tế. Việc này có giá trị hơn việc cộng đoàn bầu cử, chỉ định, ủy nhiệm hay cắt đặt, vì ban hồng ân Thánh Thần cho phép thi hành một "quyền thánh chức" (x. LG 10) do chính Chúa Ki-tô ban qua Hội Thánh. Ordinatio còn được gọi là thánh hiến, nghĩa là được Đức Ki-tô tách riêng và bổ nhiệm để phục vụ Hội Thánh. Việc giám mục đặt tay và lời nguyện thánh hiến, làm nên dấu chỉ hữu hình của sự thánh hiến này. Theo nghĩa này, tiếng Việt gọi là bí tích Truyền Chức.


II- BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC TRONG KẾ HOẠCH CỨU ĐỘ
Chức Tư Tế trong Giao Ước Cũ
1539.

Thiên Chúa đã tuyển chọn một dân tộc làm "vương quốc tư tế, và dân thánh" (x .Xh 19,6; x. Is 61,6). Trong dân Ít-ra-en, Người lại chọn một trong 12 chi tộc để chuyên lo việc tế tự là chi tộc Lê-vi (x. Ds 1,48,53). Chính Chúa là phần gia nghiệp của họ (x. Gs 13,33). Các tư tế đầu tiên của Giao Ước Cũ được thánh hiến bằng một nghi thức đặc biệt (x. Xh 29,1-30; Lv.8). Họ "được đặt lên làm đại diện loài người trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội" (Dt 5,1).


1540 2099.

Tư tế được đặt lên để loan báo Lời Thiên Chúa (Ml 2,7-9) và để tái lập sự hiệp thông với Thiên Chúa bằng các hy lễ và lời cầu nguyện. Tuy nhiên, chức tư tế này không đủ khả năng thực hiện ơn cứu độ. Các hy tế cứ phải dâng mãi mà vẫn không đạt tới sự thánh hoá dứt khoát (x. Dt 5,3; 7,27; 10,1-4). Chỉ hy lễ của Đức Ki-tô mới thực hiện được điều này.


1541.

Dầu vậy, Phụng Vụ của Hội Thánh vẫn nhận ra trong chức tư tế của A-a-ron và việc phục vụ của các thầy Lê-vi cũng như việc cắt đặt "70 bô lão" (x. Ds 11,24-25)), những hình bóng của chức tư tế Giao Ước Mới. Do đó, trong nghi lễ La-tinh, Hội Thánh cầu xin trong kinh Tiền Tụng lễ phong chức giám mục :


“Lạy Cha là Thiên Chúa và là Cha Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con..., suốt thời Cựu Ước, Cha đã khởi sự định hình cho Hội Thánh. Từ nguyên thủy, Cha đã tiền định cho dòng dõi những người công chính phát xuất từ Áp-ra-ham. Cha đã thiết lập những vị thủ lãnh và tư tế, và không để thánh điện Cha thiếu người phục vụ..."
1542.

Khi truyền chức linh mục, Hội Thánh cầu xin :

“Lạy Chúa là Cha Chí Thánh..., ngay ở thời Cựu Ước xa xưa đã phát sinh những chức vụ được thiết lập qua các nhiệm tích : vì khi Cha đặt Mô-sê và A-a-ron cai trị và thánh hóa dân chúng, Cha đã chọn những người có phẩm hàm và địa vị thấp hơn để giúp đỡ vào tập thể và công việc của các ông. Vì vậy, trong hoang địa, Cha đã phân phát thần trí của Mô-sê cho 70 người có trí thông minh, để khi dùng họ phụ giúp, ông có thể cai trị dân Cha một cách dễ dàng hơn. Cũng vậy, Cha đã thông ban sự sung mãn của A-a-ron cho con cháu ông..."
1543.

Khi phong chức phó tế, Hội Thánh cầu xin :


“Lạy Cha Chí Thánh..., để xây dựng đền thờ mới là Hội Thánh, Cha đã thiết lập ba cấp thừa tác viên là giám mục, linh mục và phó tế, để họ phục vụ danh Cha, như Cha đã chọn con cháu Lê-vi từ thuở đầu, để họ chu toàn thừa tác vụ nơi đền thánh cũ và Cha là gia nghiệp của họ ..."
Chúa Ki-tô là Thượng Tế duy nhất
1544 874.

Tất cả tiên trưng về chức tư tế trong Giao Ước Cũ được hoàn tất trong Đức Ki-tô Giê-su "Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người" (1Tm 2,5) : Vị vua Men-ki-sê-đê, "Tư tế của Đấng Tối Cao" (St 14,18), được truyền thống Công Giáo xem như hình bóng chức tư tế của Chúa Ki-tô là "Thượng Tế duy nhất theo phẩm trật Men-ki-sê-đê" (Dt 5,10; 6,20). Đức Ki-tô "thánh thiện, vẹn toàn, vô tội" (Dt 7,26), nhờ hy lễ duy nhất trên thập giá, đã vĩnh viễn làm cho những người được thánh hiến trở nên hoàn hảo" (Dt 10,14).


1545 1367 662.

Hy lễ cứu độ của Chúa Ki-tô là duy nhất, hoàn tất một lần dứt khoát. Tuy nhiên, hy lễ này hiện diện trong hy lễ của Hội Thánh. Cũng vậy, chức tư tế duy nhất của Chúa Ki-tô hiện diện nhờ chức tư tế thừa tác mà tính duy nhất không bị suy giảm. Do đó, "chỉ mình Đức Ki-tô là tư tế đích thực, những người khác chỉ là thừa tác viên của Ngài" (x.Thánh Tô-ma A-qui-nô, thơ gửi tín hữu Dothái 7,4).


Hai sự thông phần vào chức tư tế duy nhất của Đức Ki-tô
1546 1268.

Đức Ki-tô là thượng tế và trung gian duy nhất đã biến Hội Thánh thành "Vương quốc của các tư tế để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người" (Kh 1,6). Như thế, tất cả cộng đoàn tín hữu là tư tế. Các tín hữu thực thi chức tư tế cộng đồng bằng cách mỗi người tùy ơn gọi riêng, tham dự vào sứ mạng của Đức Ki-tô là Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế. Chính qua bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, các tín hữu được "thánh hiến để trở nên... hàng tư tế thánh" (x. LG 10).


1547 1142 1120.

Chức tư tế thừa tác hay phẩm trật của các giám mục và linh mục cũng như chức tư tế cộng đồng của các tín hữu đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Ki-tô (x. LG 10) theo cách thức riêng của mình và bổ túc cho nhau (x. LG 10). Dầu vậy hai chức tư tế này khác nhau về bản chất. Khác thế nào ? Các tín hữu thi hành chức tư tế cộng đồng bằng cách phát triển sống đức Tin, đức Cậy, đức Mến, sống theo Chúa Thánh Thần. Còn chức tư tế thừa tác dành để phục vụ chức tư tế cộng đồng, giúp phát triển ân sủng bí tích Thánh Tẩy của mọi ki-tô hữu. Đó là một trong những cách thế Đức Giê-su luôn dùng để xây dựng và hướng dẫn Hội Thánh. Vì thế, chức tư tế này được chuyển giao qua bí tích riêng là bí tích Truyền Chức.


Thi hành chức vụ thủ lãnh của Đức Ki-tô
1548 875, 792.

Khi thừa tác viên thi hành chức vụ trong Hội Thánh, chính Đức Ki-tô hiện diện với tư cách là Đầu của Thân Thể, là Mục Tử đoàn chiên, Thượng Tế của hy lễ cứu độ, Thầy dạy Chân Lý. Đó là điều Hội Thánh muốn diễn tả khi nói, nhờ bí tích Truyền Chức, tư tế thi hành chức vụ thủ lãnh của Đức Ki-tô (in persona Christi Capitis) (x. LG 10;28; SC 33; CD 11; PO 2; 6) :


“Thừa tác viên đóng vai trò của chính Đức Ki-tô Tư Tế. Nhờ bí tích truyền chức đồng hóa họ với vị Thượng Tế, thừa tác viên có quyền hành động với thần lực và vai trò của chính Đức Ki-tô (x. Piô XII, thông điệp "Đấng Trung Gian của Thiên Chúa")
Chúa Ki-tô là nguồn mạch mọi chức tư tế : tư tế của Cựu Ước là hình bóng của Đức Ki-tô và tư tế của Tân Ước thi hành chức vụ của Đức Ki-tô” (x. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Tổng luận Thần học 3, 22, 4).

1549 1142.

Qua thừa tác vụ của người có chức thánh, nhất là của các giám mục và linh mục, sự hiện diện của Đức Ki-tô như thủ lãnh của Hội Thánh trở nên hữu hình giữa cộng đoàn tín hữu (x. LG 21). Theo cách diễn tả của thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-ki-a, giám mục là typos tou Patros, là hình ảnh sống động của Chúa Cha (x. Thơ gửi Tra-li-a-nô, 3,1; cf Magn. 6,1).


1550 896 1128 1584.

Sự hiện diện của Đức Ki-tô nơi vị thừa tác viên không loại trừ những khiếm khuyết của con người, óc thống trị, sai lầm và cả tội lỗi nữa. Sức mạnh của Chúa Thánh Thần không bảo đảm cho mọi hoạt động của các thừa tác viên trở nên đồng nhất. Khi thừa tác viên cử hành các bí tích, có sự bảo đảm là ngay cả tội của họ không ngăn trở hiệu quả của ân sủng. Còn các hành vi khác vẫn mang dấu vết cá tính của thừa tác viên, không luôn luôn là dấu chỉ trung thành với Tin Mừng và do đó có thể phương hại đến hiệu quả tông đồ của Hội Thánh.


1551 876 1538 608.

Chức tư tế được thiết lập để phục vụ . "Nhiệm vụ Chúa đã trao phó cho các mục tử của dân Người thực là một việc phục vụ " (x. LG 24). Chức tư tế này có là vì Đức Ki-tô và vì con người, hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa Ki-tô và chức tư tế duy nhất của Người, được thiết lập để mưu ích cho con người và cộng đoàn Hội Thánh. Bí tích Truyền Chức thông ban "quyền thánh chức", chính là quyền của Đức Ki-tô. Phải sử dụng quyền bính theo gương Đức Ki-tô, Đấng vì yêu thương đã trở nên rốt hết và đầy tớ của mọi người (x. Mc 10,43-45; 1Pr 5,3). "Chúa đã tuyên bố rõ ràng việc chăm sóc đoàn chiên là bằng chứng tình yêu đối với Người" (x.Thánh Gio-an Kim Khẩu, về các bí tích 2,4; x. Ga 21,15-17).


"... Nhân danh toàn thể Hội Thánh
1552.

Chức tư tế thừa tác không những có nhiệm vụ đóng vai trò Đức Ki-tô, Thủ Lãnh của Hội Thánh, trước cộng đoàn tín hữu, mà còn hành động nhân danh toàn thể Hội Thánh, khi dâng lên Thiên Chúa kinh nguyện của Hội Thánh (x. SC 33), nhất là khi cử hành thánh lễ (x. LG 10).


1553 795.

"Nhân danh toàn thể Hội Thánh" không có nghĩa là các tư tế được cộng đoàn ủy nhiệm. Kinh nguyện và lễ vật của Hội Thánh liên kết với kinh nguyện và lễ vật của Đức Ki-tô, Thủ Lãnh Hội Thánh. Đây luôn là việc Đức Ki-tô phụng thờ Chúa Cha được dâng lên trong và nhờ Hội Thánh. Toàn thể Hội Thánh, Thân Thể Đức Ki-tô cầu nguyện và dâng mình cho Chúa Cha, "chính nhờ Đức Ki-tô, cùng với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần". Cả Thân thể, gồm Đầu và các chi thể, cầu nguyện và dâng mình; những thừa tác viên đúng nghĩa trong Thân Thể ấy, không những là thừa tác viên của Đức Ki-tô mà còn là thừa tác viên của Hội Thánh nữa. Chính vì đóng vai trò Đức Ki-tô, nên vị tư tế thừa tác có thể hành động nhân danh Hội Thánh.


III- BA CẤP BẬC CỦA BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC
1554 1536 1538.

"Thừa tác vụ do Thiên Chúa thiết lập trong Hội Thánh được thi hành bởi những người có chức vụ khác nhau mà từ xưa được gọi là : giám mục, linh mục và phó tế" (x. LG 28). Giáo lý Công Giáo được diễn tả trong Phụng Vụ, Huấn Quyền và cách thực hành liên tục trong Hội Thánh thừa nhận có hai cấp bậc tham dự như thừa tác viên vào chức tư tế của Đức Ki-tô : hàng giám mục và hàng linh mục. Hàng phó tế có nhiệm vụ giúp đỡ và phục vụ các giám mục và linh mục. Vì thế từ "Sacerdos" ( tư tế) hiện nay được dùng để chỉ các giám mục và các linh mục, nhưng không chỉ các phó tế. Tuy nhiên, giáo lý Công Giáo dạy rằng những cấp bậc tư tế thừa tác (giám mục và linh mục) và cấp bậc phục vụ (phó tế) cả ba đều được trao ban qua một hành vi bí tích được gọi "Ordinatio", nghĩa là qua bí tích Truyền Chức :


Chớ gì mọi người tôn trọng các phó tế như Đức Giê-su Ki-tô, tôn trọng giám mục như hình ảnh của Chúa Cha và tôn trọng các linh mục như nghị viện của Thiên Chúa và như công hội các tông đồ : không có những vị này, không thể nói về Hội Thánh (x.Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-ki-a, Thơ gửi Tra-li-a-nô, 3,1).

tải về 4.7 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   31   32   33   34   35   36   37   38   ...   68




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương