SÁch giáo lý CỦa giáo hội công giáo sách giáo lý CỦa giáo hộI



tải về 4.7 Mb.
trang34/68
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích4.7 Mb.
#11671
1   ...   30   31   32   33   34   35   36   37   ...   68

1458 1783.

Dù không bó buộc, Hội Thánh vẫn khuyên các tín hữu nên xưng các lỗi thường ngày (các tội nhẹ) (x CĐ Tren-te : DS 1680; CIC, can. 988, 2) . Việc năng xưng các tội nhẹ giúp chúng ta rèn luyện lương tâm, giúp ta chiến đấu chống lại các khuynh hướng xấu, sẵn sàng để Đức Ki-tô chữa lành và tiến tới trong đời sống theo Thánh Thần. Nếu chúng ta thường xuyên hưởng nhờ lòng nhân từ của Chúa Cha qua bí tích Giao Hòa thì dần dần chúng ta cũng trở nên nhân từ như Người (x. Lc 6,36):


2468.

“Ai xưng thú tội mình là cộng tác với Thiên Chúa. Thiên Chúa tố cáo tôềi ngươi, và ngươi cũng tố cáo tội mình, thì ngươi liên kết với Thiên Chúa. Con người và tội nhân là hai thực tại : con người là tác phẩm của Thiên Chúa; tội nhân là sản phẩm của con người. Hỡi người, hãy phá đi điều ngươi đã tạo ra để Thiên Chúa cứu điều Người đã tạo thành. Khi ngươi bắt đầu ghê tởm điều ngươi đã làm ra, lúc ấy những điều tốt đẹp của ngươi khởi sự, vì ngươi lên án những hành động xấu của ngươi. Nhìn nhận việc xấu đã làm, là khởi đầu những việc tốt. Hãy sống trong Sự Thật, ngươi sẽ đến được với Sự Sáng” (Thánh Augustinô, Tin Mừng Gio-an 12,13).


Việc đền tội
1459 2412 2487 1473.

Có những tội gây thiệt hại cho tha nhân. Chúng ta phải hết sức để đền bù (như trả lại đồ vật đã lấy cắp, phục hồi danh dự cho người mình xúc phạm, bồi thường thiệt hại). Đức công bình đòi buộc thực hiện như vậy. Hơn nữa, tội lỗi gây thương tổn và làm suy yếu chính tôềi nhân cũng như mối liên hệ giữa họ với Thiên Chúa và tha nhân. Bí tích Giao Hòa tha thứ tội lỗi, nhưng không xóa bỏ những hậu quả xấu do tội gây nên (x. CIC, khoản 914).Sau khi được tha thứ, tội nhân còn phải hồi phục hoàn toàn sức sống thiêng liêng. Vì thế, họ phải làm một việc gì sửa lại lỗi lầm của mình : phải "đền bù" cân xứng hoặc "đền tạ" tội lỗi mình. Việc đền tội như vậy cũng gọi là "thống hối".


1460 2447 618.

Khi chỉ định việc đền tội, linh mục phải chú ý đến tình trạng riêng của hối nhân và mưu cầu lợi ích thiêng liêng cho họ. Việc đền tội phải tương xứng với bản chất và tính chất trầm trọng của tội đã phạm. Có thể đền tội bằng cách cầu nguyện, dâng cúng, bố thí, phục vụ tha nhân, hãm mình, các hy sinh và nhất là kiên trì vác thánh giá của mình. Những việc đền tội như thế giúp chúng ta nên giống Đức Ki-tô, Đấng duy nhất đã đền bù dứt khoát tội lỗi chúng ta, và làm cho chúng ta trở nên đồng thừa tự với Đức Ki-tô phục sinh "một khi chúng ta chịu đau khổ với Người" (Rm 8,17) : (x. CĐ Trentô : DS 1690)


2011.

Chính nhờ Đức Ki-tô mà chúng ta có thể đền bù tội lỗi đã phạm : chúng ta không thể tự mình làm được gì, nhưng với "Đấng ban sức mạnh, chúng ta làm được mọi việc" . Con người không có gì để tự phụ, nhưng tất cả "vinh dự" của chúng ta là Đức Ki-tô... Trong Người, chúng ta "làm việc lành phúc đức để chứng tỏ lòng ăn năn thống hối" (Lc 3,8). Do Người, những việc lành phúc đức ấy có giá trị; nhờ Người, được dâng lên Chúa Cha; và qua Người được Chúa Cha chấp nhận. (x CĐ Trentô: DS 1691)


VIII. THỪA TÁC VIÊN CỦA BÍ TÍCH GIAO HÒA
1461 981.

Vì Đức Ki-tô đã trao cho các tông đồ thừa tác vụ giao hòa (x. Ga 20,23; 2Cr 5,18), nên các giám mục kế nhiệm các ngài và các linh mục là những cộng sự viên của các giám mục, tiếp tục thi hành thừa tác vụ này. Nhờ bí tích Truyền Chức, các giám mục và linh mục có quyền tha tội "nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần".


1462 886 1567.

Khi được tha tội, chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa và Hội Thánh. Xưa nay giám mục, vị thủ lãnh hữu hình của Giáo Hội điạ phương vẫn được coi là người chính thức có quyền và có chức vụ hòa giải : giám mục là người định đoạt kỷ luật bí tích thống hối (x. LG 26). Các linh mục, cộng sự viên của giám mục, thực thi thừa tác vụ này trong phạm vi trách nhiệm được giám mục (hay bề trên dòng) hay Đức Giáo Hoàng ủy thác theo luật Hội Thánh .


1463 982.

Có một số tội nặng đặc biệt, ai phạm sẽ bị vạ tuyệt thông. Đây là hình phạt nặng nhất theo giáo luật, cấm không cho nhận lãnh các bí tích và hành xử một số tác vụ trong Hội Thánh. Theo giáo luật, chỉ có Đức Giáo Hoàng, giám mục địa phận hay vị linh mục được ủy quyền, mới có quyền tha vạ (x. CIC, khoản 1331; 1354-1357; CCEO, khoản 1431; 1434, 1420). Trong trường hợp nguy tử, bất cứ linh mục nào, dù không có năng quyền giải tội, vẫn có thể tha hết các tội (x. CIC, khoản 976; CCEO, khoản 725) và tha mọi vạ tuyệt thông.


1464.

Các linh mục phải khuyến khích các tín hữu lãnh nhận bí tích Giao Hòa. Các ngài phải luôn sẵn sàng cử hành bí tích này mỗi khi người tín hữu yêu cầu với lý do chính đáng (x. CIC, khoản 976; CCEO, khoản 725).


1465 983.

Khi ban bí tích sám hối, linh mục thi hành chức vụ như Đấng chăn chiên lành đi tìm chiên lạc, như người Sa-ma-ri-ta-nô nhân lành băng bó vết thương, như người cha chờ đợi và đón nhận người con đi hoang trở về, như quan án chính trực xét xử công bình và nhân hậu, không thiên vị một ai. Tóm lại, linh mục là dấu chỉ và khí cụ của Thiên Chúa giàu lòng thương xót đối với tội nhân.


1466 1551 2690.

Cha giải tội không ban ơn tha thứ như là người chủ, nhưng là tôi tớ phục vụ Thiên Chúa nhân từ. Thừa tác viên phải cử hành bí tích này theo ý định và lòng nhân từ của Chúa Ki-tô (x. PO 13). Ngài cần hiểu rõ người Ki-tôâ hữu phải sống thế nào, có kinh nghiệm về những gì liên quan đến con người, tôn trọng và tế nhị đối với người sa ngã. Linh mục phải yêu mến chân lý, trung thành tuân phục Huấn Quyền của Hội Thánh và kiên trì hướng dẫn hối nhân để họ được chữa lành và đạt tới sự trưởng thành toàn diện. Ngài phải cầu nguyện và đền tội giúp hối nhân, phó thác họ cho Thiên Chúa giàu lòng thương xót.


1467 2490.

Thừa tác vụ này rất cao trọng đòi hỏi cha giải tội tôn trọng và tế nhị với người xưng tội. Do đó, Hội Thánh buộc mọi linh mục, khi giải tội, phải giữ kín tuyệt đối những tội hối nhân đã xưng thú. Ai vi phạm sẽ mắc vạ nặng nề (x. CIC, khoản 1388, triệt 1; CCEO, khoản 1456). Vị linh mục cũng không có quyền tỏ ra bên ngoài những gì biết được khi giải tội. Bí mật tòa giải tội không chấp nhận luật trừ nào. Đây là "ấn tín bí tích", vì tất cả những gì hối nhân xưng thú đều được bí tích "niêm ấn".


IX HIỆU QUẢ BÍ TÍCH THỐNG HỐI
1468 2305.

"Bí tích Thống Hối phục hồi chúng ta trong ơn nghĩa Chúa và liên kết chúng ta với Người trong tình bằng hữu thắm thiết và cao cả" (x. Giáo lý Rô-ma 2,5,18) . Mục đích và hiệu quả của bí tích này là giao hòa hối nhân với Thiên Chúa. Ai lãnh nhận bí tích Giao Hòa với lòng thống hối và đạo đức, lương tâm "sẽ được bình an thư thái, được an ủi thiêng liêng" (x. CĐ Trentô: DS 1674). Bí tích Giao Hòa thực hiện một "cuộc phục sinh thiêng liêng" đích thực, hoàn lại phẩm giá và những đặc quyền của đời sống con cái Thiên Chúa, nhất là tình bằng hữu với Người (Lc 15,32).


1469 953 949.

Bí tích này giao hòa hối nhân với Hội Thánh. Bí tích Giao Hòa tái tạo sự hiệp thông huynh đệ, mà tội lỗi làm tiêu hao hay cắt đứt. Theo nghĩa này, bí tích Giao Hòa không những chữa lành hối nhân vừa được hiệp thông lại với Hội Thánh, mà còn làm cho Hội Thánh thêm sức sống sau khi đã phải đau khổ vì tội lỗi của các chi thể (x. 1Cr 12,26). Tội nhân được Hội Thánh đón nhận lại vào cộng đoàn chư thánh, được liên kết với Hội Thánh và được củng cố nhờ sự trao đổi gia sản thiêng liêng giữa các chi thể sống động của Thân Thể Chúa Ki-tô, dù họ còn đang lữ hành nơi trần thế hay đã về Quê Trời (x. LG 48-50):
"Việc giao hòa với Thiên Chúa còn dẫn tới những sự giao hòa khác là chữa lành các vết thương do tội : khi được tha thứ, hối nhân được giao hòa với chính mình, nhờ đó tìm lại được chính mình; được giao hòa với anh em là những người họ đã xúc phạm và gây thương tổn; được giao hòa với Hội Thánh và vạn vật" (RP 31).
1470 678 1039.

Khi phó thác cho Thiên Chúa nhân từ xét xử, tội nhân nhận trước sự phán xét mà họ phải chịu khi lìa đời. Ở đời này, chúng ta có thể chọn sự sống hay sự chết; chỉ có con đường hoán cải mới đưa chúng ta vào Nước Trời, nơi kẻ mắc tội trọng bị loại trừ (x. 1Cr 5,11; Gl 5,19-21; Kh 22,15). Khi thống hối và tin tưởng quay về với Chúa Ki-tô, tội nhân "sẽ từ cõi chết bước vào cõi sống và khỏi bị xét xử" (Ga 5,24).


X. CÁC ÂN XÁ
1471.

Giáo lý về ân xá và việc áp dụng các ân xá trong Hội Thánh liên hệ mật thiết với các hiệu quả của bí tích Giao Hòa.


Ân xá là gì ?
"Ân xá là tha những hình phạt tạm do tội gây nên, dù tội đã được tha. Muốn hưởng nhờ ân xá, người Ki-tô hữu phải hội đủ điều kiện và thi hành những điều Hội Thánh qui định. Với tư cách là trung gian phân phát ơn cứu chuộc, Hội Thánh dùng quyền để ban phát và áp dụng kho tàng công phúc của Đức Ki-tô và các thánh".
"Tùy việc tha vạ một phần hay toàn bộ hình phạt tạm, mà chúng ta gọi là tiểu xá hay đại xá (Phao-lô VI, Tông hiến "Giáo lý về lòng khoan dung", 1-3)."Mọi tín hữu đều có thể hưởng ân xá, hoặc nhường cho người qua đời".
Hình phạt do tội
1472 1861 1031.

Để hiểu giáo lý và cách thực hành của Hội Thánh, chúng ta phải biết tội có hai hậu quả. Tội nặng làm cho ta không được hiệp thông với Chúa, nên không được hạnh phúc vĩnh cửu. Sự mất mát này gọi là "hình phạt đời đời". Ngoài ra, tất cả các tội dù là tội nhẹ, đều có sự quyến luyến lệch lạc với thụ tạo, nên cần được thanh tẩy hoặc ngay đời này hoặc sau khi chết trong luyện ngục. Sự thanh luyện đời này cũng như đời sau giải thoát ta khỏi "hình phạt tạm". Những hình phạt này không thể được coi như hình thức báo thù Thiên Chúa giáng xuống trên chúng ta, mà phải coi là xuất phát từ bản chất của tội. Nếu tội nhân hoán cải do đức mến thiết tha thúc đẩy, họ có thể được thanh luyện hoàn toàn đến độ không cần một hình phạt nào nữa (x. CĐ Trentô : DS 1712-1713; 1820) .


1473 2447.

Được tha thứ tội lỗi và tái lập hiệp thông với Thiên Chúa, hối nhân cũng được tha các hình phạt đời đời do tội. Nhưng những hình phạt tạm vẫn còn. Người ki-tô hữu phải cố gắng đón nhận các hình phạt tạm này như một ân sủng, bằng cách nhẫn nại chịu đựng những đau khổ và thử thách đủ loại, ngay cả cái chết. Họ phải cởi bỏ hoàn toàn "con người cũ" và mặc lấy "con người mới" (x. Ep 4,24), nhờ làm những việc từ bi và bác ái cũng như nhờ cầu nguyện và sám hối.


Mầu nhiệm Các Thánh Thông Công
1474 946-959 795.

Người Ki-tô hữu không đơn độc khi cố gắng thanh luyện khỏi tội lỗi và thánh hóa bản thân nhờ ơn Chúa. "Trong Đức Ki-tô và nhờ Đức Ki-tô, mỗi con cái Thiên Chúa được liên kết một cách lạ lùng với những anh em ki-tô hữu khác trong sự hiệp nhất siêu nhiên của Nhiệm Thể Đức Ki-tô như trong một ngôi vị nhiệm mầu" (x. Phao-lô VI, Tông hiến "Giáo lý về lòng khoan dung" 5) .


1475.

Trong mầu nhiệm Các Thánh Thông Công, các tín hữu - những người đã về quê trời, những người còn đền tội nơi luyện ngục hay những người đang lữ hành trên trần gian này- tất cả liên kết với nhau trong tình yêu bền vững và chia sẻ với nhau những điều thiện hảo (x. Phao-lô VI, Tông hiến "Giáo lý về lòng khoan dung" 5) .Trong sự hiệp thông kỳ diệu này, sự thánh thiện của một người ảnh hưởng trên người khác vượt xa thiệt hại do tội lỗi của một người có thể gây ra cho người khác. Vì thế, sự hiệp thông của Dân Thánh giúp cho hối nhân được thanh luyện nhanh chóng và hữu hiệu hơn.


1476 617.

Chúng ta gọi những điều thiện hảo trong sự hiệp thông của Dân Thánh là kho tàng của Hội Thánh,"đây không phải là tổng số của cải vật chất tích lũy qua bao thế kỷ, nhưng là công đức vô giá và vô lượng trước nhan Thiên Chúa, do việc Chúa Ki-tô đền tạ và lập công dâng lên Thiên Chúa để nhân loại được giải thoát khỏi tội lỗi và được hiệp thông với Chúa Cha. Trong Người, chúng ta có được dư dật sự đền tạ và những công do ơn Người cứu chuộc" (x. Dt 7,23-25; 9,11-28).


1477 969.

"Kho tàng này còn bao gồm những lời cầu khẩn và việc lành của Đức Ma-ri-a và các thánh. Đây là phần có giá trị vô song, không thể đo lường được và luôn luôn mới mẻ. Nhờ ân sủng, khi bước theo Đức Ki-tô, các ngài được thánh hóa và chu toàn sứ mạng Chúa Cha trao phó, nên khi cố gắng để mình được cứu rỗi, các ngài cũng cộng tác vào việc cứu rỗi anh em mình trong sự hiệp nhất của Nhiệm Thể" (x. Phao-lô VI, Tông hiến "Giáo lý về lòng khoan dung").


Thiên Chúa ban ân xá qua Hội Thánh
1478 981.

Chính Hội Thánh ban phát ân xá. Nhờ quyền cầm buộc và tháo cởi do Đức Ki-tô ban, Hội Thánh chuyển cầu cho người ki-tô hữu và mở cho họ kho tàng công phúc của Đức Ki-tô và các thánh để Chúa Cha nhân từ tha cho họ những hình phạt tạm phải chịu vì tội. Như thế, Hội Thánh chẳng những muốn nâng đỡ người tín hữu, mà còn khuyến khích họ làm những việc đạo đức, thống hối và bác ái" (x. Phao-lô VI, sđd 8; CĐ Trentô: DS 1835).


1479 1032.

Vì những tín hữu đã qua đời đang chịu thanh luyện cũng là thành phần của cộng đoàn Dân Thánh, một trong những cách chúng ta có thể giúp họ là nhờ các ân xá để họ được tha các hình phạt tạm thời trong luyện ngục.


XI. CỬ HÀNH BÍ TÍCH THỐNG HỐI
1480.

Cũng như các bí tích khác, bí tích Thống Hối là một hoạt động phụng vụ. Thường việc cử hành bí tích này diễn tiến như sau : linh mục chào và chúc lành, đọc Lời Chúa để soi sáng lương tâm hối nhân và giúp họ giục lòng ăn năn, khuyên nhủ hối nhân hoán cải; hối nhân thú tội với linh mục; ra và nhận việc đền tội; linh mục giải tội; lời ca ngợi và tạ ơn, ra về với phép lành của linh mục.


1481 1449.

Phụng vụ By-zan-tin có nhiều công thức giải tội, dưới nhiều hình thức cầu khẩn, biểu thị rõ ràng mầu nhiệm tha thứ: "Thiên Chúa đã dùng ngôn sứ Na-than mà tha thứ cho Đa-vít khi ông xưng thú tội mình, đã tha thứ cho Phê-rô khi ông khóc lóc đau đớn, tha thứ cho người kỹ nữ khi cô nhỏ lệ trên chân Chúa, tha thứ cho người Pha-ri-sêu và người con hoang đàng. Xin Người cũng dùng tôi mà tha thứ cho anh ở đời này cũng như đời sau và đừng kết án anh, khi anh phải ra trước toà công thẳng của Thiên Chúa, Đấng được chúc tụng muôn đời A-men".


1482 1140.

Bí tích Thống Hối cũng có thể được cử hành cộng đoàn : tất cả cùng chuẩn bị xưng tội và cùng nhau cảm tạ vì được ơn tha thứ. Lúc đó việc xưng tội và giải tội cá nhân được tiến hành trong một cử hành phụng vụ Lời Chúa, với việc đọc Sách Thánh và diễn giảng, cộng đoàn được hướng dẫn xét mình; xin ơn tha thứ, đọc kinh Lạy Cha và cùng tạ ơn. Hình thức này diễn tả rõ nét hơn tính Hội Thánh của việc thống hối. Tuy nhiên, dầu cử hành thế nào, bí tích Thống Hối vẫn là hoạt động phụng vụ nên có tính cách công khai và Hội Thánh (SC 26-27).


1483 1401.

Trong trường hợp thật cần thiết, có thể cử hành bí tích Giao Hòa tập thể tức là xưng tội chung và giải tội chung. Trường hợp thật cần thiết là khi gần cơn nguy tử và một hay nhiều linh mục không đủ thời gian nghe từng hối nhân xưng tội, khi có sự khẩn thiết trầm trọng nghĩa là, khi có đông hối nhân và không có đủ cha giải tội để nghe từng người xưng tội hợp lệ trong một thời gian thích đáng, đến nỗi vì vậy mà các hối nhân không phải lỗi tại họ đành thiệt mất ơn bí tích Giao Hòa hay ơn rước lễ trong một thời gian lâu dài. Trong trường hợp này, người tín hữu phải quyết tâm xưng riêng những tội trọng khi thuận tiện để bí tích Giao Hòa được hoàn thành (x. CIC, khoản 962, triệt 1). Giám mục giáo phận có thẩm quyền nhận định về những điều kiện để có thể giải tội tập thể (x. CIC, khoản 961, triệt 2). Trong các đại lễ hay hành hương, số đông tín hữu đến xưng tội, không được coi là trường hợp thật khẩn thiết để giải tội tập thể (x. CIC, khoản 961, triệt 1) .


1484 878.

"Bình thường xưng tội cá nhân và trọn vẹn, sau đó giải tội là hình thức duy nhất để tín hữu giao hòa với Thiên Chúa và Hội Thánh, trừ khi có ngăn trở về thể lý hay luân lý chuẩn chước việc xưng tội như vậy" (x. OP 31). Điều này có nhiều lý do sâu xa. Đức Ki-tô hành động trong mỗi bí tích. Người đích thân nói với từng tội nhân : "Này con, con đã được tha tội rồi" (Mc 2,5). Người là thầy thuốc cúi mình trên từng bệnh nhân cần được chữa lành (x. Mc 2,17). Người nâng dậy và dẫn họ về hiệp thông lại với anh em. Như thế việc xưng tội riêng là hình thức có ý nghĩa nhất trong việc giao hòa với Thiên Chúa và Hội Thánh.


TÓM LƯỢC
1485.

"Chiều ngày Phục Sinh, Chúa Giê-su hiện ra với các tông đồ và nói : "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,22-23).
1486.

Có một bí tích riêng để tha những tội người tín hữu phạm sau khi đã được thanh tẩy. Bí tích này được gọi là bí tích Hoán Cải hay Xưng Tội, Thống Hối hay Giao Hòa.

1487.

Ai phạm tội là xúc phạm đến danh dự và tình yêu của Thiên Chúa, làm tổn thương chính phẩm giá của mình là Con Thiên Chúa và phương hại đến đời sống thiêng liêng của Hội Thánh mà mỗi ki-tô hữu phải là viên đá sống động.
1488.

Trên bình diện đức tin, không có gì xấu hơn tội lỗi, không có hậu quả nào thảm hại hơn hậu quả do tội gây ra cho chính tội nhân, cho Hội Thánh và cho cả thế giới.
1489.

Tội ngăn cản con người hiệp thông với Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa giàu lòng thương xót và chăm lo cho phần rỗi con người, ban ơn giúp tội nhân trở về hiệp thông với Người. Chúng ta phải cầu xin ơn quý trọng này cho chính mình và cho anh em.
1490.

Việc trở về với Thiên Chúa hay hoán cải và sám hối, đòi có sự đau buồn, ghê tởm các tội đã phạm và quyết tâm không phạm tội nữa. Hoán Cải bao trùm cả quá khứ lẫn tương lai. Chính sự trông cậy vào lòng nhân từ của Thiên Chúa giúp tội nhân hoán cải không ngừng.
1491.

Bí tích Thống Hối gồm ba việc hối nhân phải làm và việc giải tội của linh mục. Ba việc của hối nhân là : thống hối; thú tội với linh mục; quyết tâm làm việc đền tội và đền bù các thiệt hại do tội gây ra.
1492.

Thống hối (hay ăn năn tội) phải do động lực đức tin thúc đẩy. Nếu thống hối vì lòng mến Chúa, đó là ăn năn tội "cách trọn". Nếu vì những lý do khác, thì được gọi là ăn năn tội "cách chẳng trọn".
1493.

Tội nhân muốn giao hòa với Thiên Chúa và Hội Thánh, phải xưng cùng linh mục tất cả những tội trọng chưa xưng thú và nhớ được sau khi đã xét mình kỹ lưỡng. Hội Thánh tha thiết khuyên xưng các tội nhẹ, mặc dù điều đó không buộc.
1494.

Cha giải tội chỉ định việc "đền tội" cho hối nhân để đền bù những thiệt hại do tội gây ra và giúp họ trở lại với nếp sống của người môn đệ Đức Ki-tô.
1495.

Chỉ các linh mục được Hội Thánh ban năng quyền giải tội, mới có thể tha tội nhân danh Đức Ki-tô.
1496.

Hiệu quả thiêng liêng của bí tích Thống Hối là :
- giao hòa với Thiên Chúa, nhờ đó hối nhân lại

được ân nghĩa với Chúa;

- giao hòa với Hội Thánh;

- tha hình phạt đời đời đáng chịu vì tội trọng;

- tha, ít là một phần, các hình phạt tạm do tội;

- lương tâm được bình an thư thái và được an ủi thiêng liêng;

- tăng cường sức mạnh thiêng liêng cho người

Ki-tô hữu để họ chiến đấu.
1497.

Bình thường xưng tội cá nhân và xưng hết các tội trọng, sau đó linh mục giải tội, là cách thức duy nhất để tội nhân giao hòa với Thiên Chúa và Hội Thánh.
1498.

Nhờ các ân xá, các tín hữu có thể hưởng ơn tha thứ các hình phạt tạm do tội, hoặc nhường cho các linh hồn trong luyện ngục.

Mục 5
BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN
1499.

"Bằng việc xức dầu thánh và lời cầu nguyện của linh mục, toàn thể Hội Thánh phó thác các bệnh nhân cho Chúa Ki-tô đau khổ và vinh hiển để Người an ủi và cứu rỗi họ; hơn nữa, Hội Thánh còn thúc giục họ sẵn sàng kết hợp với Chúa Ki-tô đau khổ và chịu chết để mưu ích cho Dân Thiên Chúa" (LG 11).


I . NHỮNG NỀN TẢNG CỦA BÍ TÍCH XỨC DẦU TRONG KẾ HOẠCH CỨU ĐỘ
Bệnh tật trong cuộc sống con người
1500 1006.

Bệnh tật và đau khổ là những thử thách nặng nề nhất trong cuộc sống con người. Khi lâm bệnh, con người cảm nghiệm sự bất lực, giới hạn và sự hữu hạn của mình. Bệnh tật khiến con người ý thức về cái chết nhiều hơn.


1501.

Bệnh tật có thể làm cho con người xao xuyến, yếm thế, đôi khi đưa tới tuyệt vọng và nổi loạn chống lại Thiên Chúa, nhưng cũng có thể làm cho con người chín chắn hơn, giúp họ nhận ra những điều phụ thuộc trong cuộc sống để biết quay về với những điều chính yếu. Thường bệnh tật hối thúc con người tìm kiếm Thiên Chúa và quay về với Người.


Bệnh nhân trước mặt Thiên Chúa
1502 164 376.

Cựu Ước nhìn bệnh tật trong tương quan với Thiên Chúa. Con người than thở với Chúa về bệnh tật (x. Tv 38) và xin Người cứu chữa, vì Người là Chúa sự sống và sự chết (x. Tv 6,3; Is 38). Bệnh tật trở thành con đường hoán cải và Thiên Chúa có tha thì bệnh mới lành (x. Tv 32,5; 107,20; Mc 2, 5-12). Dân Ít-ra-en có kinh nghiệm rằng bệnh tật liên hệ cách bí nhiệm với tội lỗi và sự dữ; trung thành giữ luật Chúa sẽ được Người hoàn lại sự sống, "vì Ta là Chúa, là Lương Y của ngươi" (Xh 15,26). Ngôn sứ I-sai-a tin rằng đau khổ cũng có giá trị chuộc tội cho kẻ khác (x Is 53,11). Ông loan báo Thiên Chúa sẽ ban cho Xi-on một thời đại, lúc đó Người sẽ tha thứ mọi tội lỗi và chữa lành mọi bệnh tật (x. Is 33,34).


Chúa Ki-tô - Lương Y
1503 549 1421 2288.

Đức Ki-tô cảm thương người bệnh tật và chữa lành nhiều kẻ yếu đau (x. Mt 7,24): đó là dấu chỉ tỏ tường Thiên Chúa viếng thăm Dân Người (Lc 7,16) và Nước Trời đã gần kề. Đức Giê-su không những có quyền chữa bệnh nhưng còn có quyền tha tội (x. Mc 2,5-12): Người đến chữa lành con người, cả hồn lẫn xác; Người là Lương Y mà các bệnh nhân cần đến (x. Mc 2,17). Người cảm thương mọi bệnh nhân đến nỗi đồng hóa với họ : "Ta đau yếu, các ngươi đã chăm nom" (Mt 25,36). Lòng yêu thương Đức Ki-tô dành cho những người đau yếu luôn thôi thúc các tín hữu đón nhận tất cả những người đau khổ về thể xác cũng như tinh thần. Tình yêu này là nguồn mọi cố gắng không ngừng để nâng đỡ những anh em đau khổ.


1504 695.

Đức Giê-su thường đòi các bệnh nhân phải tin (x. Mc 5,34; 9,23). Người dùng những dấu bề ngoài để chữa bệnh : nước miếng và việc đặt tay (x. Mc 7, 32-36; 8,22-25), bùn đất và rửa sạch (x. Ga 9,6tt). Các bệnh nhân tìm cách chạm đến Chúa (x. Mc 1,41; 3,10; 6,56), "vì có một năng lực tự nơi Người phát ra chữa tất cả mọi người" (Lc 6,19). Trong các bí tích, Đức Ki-tô tiếp tục "chạm" đến để chữa lành chúng ta.


1505 440 307.

Xúc động trước bao cảnh khổ đau, Đức Giê-su không những để cho bệnh nhân chạm đến Người nhưng còn nhận lấy đau khổ của họ làm của mình : "Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta" (x. Mt 8,17; Is 53,4). Tuy nhiên, Người đã không chữa mọi bệnh nhân. Việc Người chữa lành là dấu chỉ Nước Trời đang đến, loan báo việc chữa lành tận căn : đó là toàn thắng trên tội lỗi và cái chết nhờ cuộc Vượt Qua của Người. Trên thập giá, Đức Ki-tô đã mang lấy tất cả mọi gánh nặng của sự dữ. Người "xóa tội trần gian" (Ga 1,29) mà bệnh tật chỉ là một hậu quả. Khi chịu nạn và chịu chết trên thánh giá, Đức Ki-tô đã đem lại một ý nghĩa mới cho đau khổ : đau khổ giúp chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô và liên kết chúng ta với cuộc khổ nạn cứu độ của Người.


Hãy chữa lành bệnh nhân !
1506.

Đức Ki-tô đòi các môn đệ vác thánh giá mình mà theo Người (Mt 10,38). Khi theo Chúa, các môn đệ có cái nhìn mới về bệnh tật và bệnh nhân. Chúa đã cho họ chia sẻ đời sống nghèo khó và phục vụ của Người, cho họ tham dự vào sứ vụ cảm thương và chữa lành : "Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh" (Mc 6,12-13).



tải về 4.7 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   30   31   32   33   34   35   36   37   ...   68




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương