Sự tiếp nhận văn hóa phưƠng tây thông qua hoạT ĐỘNG



tải về 97.5 Kb.
trang4/6
Chuyển đổi dữ liệu12.09.2022
Kích97.5 Kb.
#53147
1   2   3   4   5   6
HOANG THI ANH DAO - LSVNH (1)

Đối với Pháp, người Pháp cũng tiến hành hoạt động thương mại với Việt Nam, người Pháp đến Việt Nam muộn so với các nước phương Tây khác (Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh), nhưng việc buôn bán của người Pháp không phải là sự buôn bán theo mùa như người Bồ Đào Nha, mà họ buôn bán thông qua hoạt động của Công ty Đông Ấn Pháp (La Compagnie Française d’Extrême-Orient – CIO), quá trình buôn bán dưới hình thức Công ty Đông Ấn diễn ra từ nửa cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX. Năm 1669, CIO cử đại diện của mình đến Đàng Ngoài của Đại Việt nhằm thiết lập quan hệ buôn bán, chuyến đi được khởi hành từ Xiêm và các thương nhân Pháp được chính quyền Lê – Trịnh đón tiếp nồng nhiệt, những đại diện của CIO cũng được cho phép mở và xây dựng thương điếm như những người Hà Lan trước đó. Nhưng, việc thiết lập quan hệ ngoại giao của của CIO với Đàng Ngoài cũng gặp nhiều trở ngại vì những thương nhân của CIO gặp phải sự chống đối cạnh tranh của người Hà Lan và gặp phải thời tiết khó khăn, một số chiếc tàu do CIO cử đến đã không cập bến an toàn. Kết quả là phải mất một thời gian sau (kể từ năm 1669) thì CIO mới đến được Đàng Ngoài. Và trong thời gian này, chúa Trịnh bận quan tâm đến chiến tranh với Đàng Trong, cũng như “thủ tục” tiếp kiến vua của Đại Việt hết sức khó khăn, thêm vào đó, những người ủng hộ mạnh mẽ việc thiết lập buôn bán với Đại Việt như J.B.Corbert, F.Pallu qua đời nên ảnh hưởng không tốt đến giao thương. Hơn 10 năm kể từ khi ý định giao thương với Đại Việt được thực hiện, thì việc buôn bán cũng diễn ra ít ỏi, một số mặt hàng mang đến chỉ là hàng mẫu, biếu tặng cho chính quyền Lê – Trịnh và quan lại địa phương là phần nhiều.
Đến thế kỷ XVIII, CIO đã chuyển trọng tâm thương mại từ Đàng Ngoài vào Đàng Trong. Đối với hiểu biết của người Pháp, Đàng Trong là vùng đất mới khai phá, có nhiều ngành nghề thủ công phát triển, nhân dân ở đây có cuộc sống ấm no, phồn thịnh. Chúa Nguyễn ở Đàng Trong lại cởi mở trong việc tiếp nhận các thương nhân nước ngoài. Chính điều đó, Đàng Trong được đánh giá như một vùng đất giàu có và trở thành một trung tâm thương mại phát triển của Đông Nam Á. Đến những năm của nửa sau thế kỷ XVIII, việc buôn bán với Đàng Ngoài không còn mặn mà với người phương Tây, không chỉ riêng người Pháp, tuy thế, người Pháp vẫn giữ lại những đại diện của mình ở Đàng Ngoài và vạch ra kế hoạch chuyển hướng thương mại vào Đàng Trong. Việc chuyển hướng vào Đàng Trong cũng phản ánh một thực tế là Pháp không giành nhiều thắng lợi trong việc buôn bán với Trung Quốc. Kế hoạch của người Pháp là muốn xây dựng thương điếm ở Đàng Trong và phá vỡ thế độc quyền buôn bán của người Hà Lan. Nhưng trong giai đoạn này, chúa Nguyễn đang ra lệnh trục xuất hết các giáo sĩ vào năm 1750, vì vậy kế hoạch buôn bán với Đàng Trong của CIO không mấy thành công. Tuy không có nhiều hoạt động buôn bán ở Đàng Trong, nhưng CIO cũng thiết lập được một thương điếm ở Tourance (Đà Nẵng) vào những năm 1750.
Đến cuối thế kỷ XVIII, tình hình buôn bán giữa Đại Việt và CIO ngày càng khan hiếm, lý do là việc Anh trở thành cường quốc sau Đại cách mạng công nghiệp, Pháp nhận thức được rằng nếu người Anh đến trước sẽ làm mất quyền lợi của Pháp ở vùng Viễn Đông, trong lúc đó, vị trí của Pháp ngày càng giảm sút ở những khu vực này, vì thế việc buôn bán song phương tự nguyện giữa CIO và Đại Việt đã ngày càng chuyển sang một thái trạng khác. Về phía người Pháp, họ cần đưa ra biện pháp mới trong việc chiếm đất ở những khu vực buôn bán này, còn đối với Đàng Trong và Đàng Ngoài, chính quyền nơi đây ngày càng cảnh giác với các đoàn thuyền buôn phương Tây. Đến cuối thế kỷ XVIII, CIO đã dần dần rút lui những hoạt động thương mại của mình ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Thay vào đó là những kế hoạch mới trong việc đánh chiếm Đàng Trong.
Đến đầu thế kỷ XIX, tình hình chính trị - xã hội Đại Việt có nhiều biến chuyển quan trọng, việc lên ngôi của Nguyễn Ánh – Gia Long cùng với sự tham gia chính sự của Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), sự thất bại của Nguyễn Ánh trong việc cầu cứu quân Xiêm trong việc tranh giành ngôi báu khiến Nguyễn Ánh càng quyết định gắn kết chặt chẽ với vị giám mục này. Việc xuất hiện ngày càng nhiều vai trò của người Pháp đối với triều đình Gia Long đã mở ra một trang mới trong quan hệ thương mại hai nước, và về sau là việc Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, để lại những hệ lụy lịch sử cho đến ngày nay.
Về hoạt động truyền giáo, Bồ Đào Nha, vào năm 1523, những cuộc tiếp xúc truyền giáo giữa người Việt và người Bồ Đào Nha đã diễn ra, nhưng chỉ là những ý định bước đầu, mãi đến năm 1544 một giáo sĩ người Bồ là Fernão Mander Pinto đi qua xứ Bắc để tham khảo tình hình, đến năm 1556, Fernão Mander Pinto lại đi qua bờ biển Việt Nam và tiến hành cắm cột thánh giá ở Cù Lao Chàm (thuộc Quảng Nam ngày nay).
Dưới thời vua Lê Anh Tông, nhà vua cởi mở cho việc truyền đạo của các giáo sĩ, và cũng trong thời gian này, các giáo sĩ dóng thánh Phanxico đã gửi thư lên nhà vua để xin truyền giảng, cùng thời điểm, các giáo sĩ chưa xây dựng các tu viện ở Macao và Philippines. Tuy nhiên, không may mắn cho các giáo sĩ, là việc thiếu hụt các thừa sai khiến các giáo sĩ chần chừ, khất lại một thời gian nên việc truyền đạo không được tiến hành nhanh chóng và “bắt nhịp” cùng ý muốn của nhà vua. Tuy nhiên, theo một số tài liệu thì người ta vẫn tìm thấy những cột thánh giá ở Thanh Hóa. Cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ thứ XVII, các giáo sĩ người Bồ còn truyền giáo ở cả Thăng Long, nhưng trong thời gian này, việc truyền giáo ở Macao và Philippines, Trung Quốc có nhiều bước tiến triển, và công cuộc truyền giáo ở Đại Việt thường xuyên liên lạc với các nơi này.
Cũng chính từ công cuộc truyền giáo, các giáo sĩ phải tiến hành học tiếng địa phương, phiên âm và truyền giảng tiếng địa phương, đó là lý do để giáo sĩ Alexandre de Rhodes – một giáo sĩ người Pháp, hoạt động truyền giáo dưới danh nghĩa là giáo phận của Bồ Đào Nha đã dần hoàn thiện cuốn từ điển Việt-Bồ-La để dễ dàng trong việc truyền đạo, về sau, người Việt Nam từ nền tảng đó làm chữ Quốc Ngữ hoàn thiện như ngày hôm nay.
Hoạt động truyền giáo của Pháp, vào năm 1662, các thừa sai Pháp đã đến Xiêm, hoạt động truyền giáo ở đây được nhà vua Xiêm cởi mở, nguyên nhân chính là do chính sách ngoại giao mềm dẻo của người Thái, và một điều nữa là do nhà vua Xiêm hiểu rõ rằng là dân chúng Xiêm tôn thờ đạo Phật, đạo Phật đã vào trong máu thịt của người dân Thái, nên nhà vua một mặt cởi mở với các giáo sĩ phương Tây, một mặt tin tưởng vào nhân dân của mình vẫn chung thủy với Quốc đạo. Trong thời gian ở Xiêm, những thông tin hiểu biết về Đại Việt được các giáo sĩ Pháp hiểu biết ít nhiều, về tôn giáo, về văn hóa và lối sống người Việt. Trong thời gian này, việc truyền giáo ở Đại Việt là hoạt động của Hội truyền giáo hải ngoại Paris (La Société des Missions Étrangerères de Paris - MEP) ra đời chính thức năm 1663.
Hai năm sau kể từ ngày các giáo sĩ đến Xiêm – 1664, Louis Chevreuil được cử đến Đàng Trong, giáo sĩ này đã ra sức thuyết phục các địa phận quản hạt tại Đàng Trong công nhận địa vị của các giáo sĩ Pháp thay thế người Bồ Đào Nha. Nhưng công việc này không hề dễ dàng. Vào năm 1670, Lambert cũng được cử đến Đàng Trong để tiếp tục công việc mà Louis đã làm. Đồng thời, giáo sĩ F.Deydier cũng được cử đến Đàng Ngoài. Trong thời gian này, chủ yếu là thiết lập địa vị của các giáo sĩ Pháp thay thế vị trí của Bồ Đào Nha, và thiết lập các giáo phận ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, việc đào tạo linh mục bản địa chưa được chú trọng.
Đến đầu thế kỷ XVIII, cùng với những biến động về thương mại, hoạt động truyền giáo của MEP cũng có phần “khủng hoảng”, Giáo hoàng đã cử người đến để thay đổi tình hình đang diễn ra không mấy tốt đẹp ở đây. Ngoài tình hình khủng hoàng về người và phương tiện, thì công cuộc truyền giáo còn vấp phải sự cấm đoán từ phía chính quyền bản địa và những mâu thuẫn nội bộ giữa MEP, Dòng Tên và Dòng Phanxicô nhưng vẫn không mấy hiệu quả.
Đến cuối thế kỷ XVIII, việc “cấm đạo” càng diễn ra gay gắt ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, cùng với sự rút lui của thương nhân Pháp nên việc thâm nhập của người Pháp đối với Đại Việt giai đoạn này chỉ mang tính chất tạm thời, không hiệu quả như dưới thời của giáo sĩ Alexandre de Rhodes.
Bước sang đầu thế kỷ XIX, việc thâm nhập truyền giáo của Pháp được đánh giá trên vai trò của Pigneau de Béhaine, mặc dù việc liên hệ giữa giáo sĩ này với Nguyễn Ánh đã diễn ra ngay từ những năm cuối của thế kỷ XVIII, đến đầu thế kỷ XIX, việc can thiệp ngày càng sâu của giáo sĩ này với Nguyễn Ánh, sau này là giám mục Adran. Một điều phải thừa nhận rằng là các giáo sĩ đã một phần mang khoa học kỹ thuật phương Tây đến Việt Nam như việc xây dựng kinh thành Huế với lối kiến trúc Vauban của Pháp, xưởng đúc tiền, các chiến hào quân sự và cách đúc súng đồng, mà ngày nay ta có Cửu vị thần công ở Huế, các tàu chiến, súng và kỹ thuật quân sự của Pháp...
Hoạt động thương mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha và Pháp ở Đại Việt diễn ra từ nửa đầu thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, hai nước phương Tây này đến Pháp trong thời gian dường như kế tiếp nhau. Mỗi nước có một phương thức riêng trong hoạt động thương mại và truyền giáo, nhưng cũng đã mang văn minh phương Tây vào Việt Nam bằng cách này hay cách khác.


  1. tải về 97.5 Kb.

    Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương