Số 205– 01/05/2011 Chúa Nhật II phục Sinh a lòng Thương Xót Của Thiên Chúa



tải về 0.76 Mb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích0.76 Mb.
#38803
1   2   3   4

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:


1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Ngươì xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.

Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.


2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình an, tin tưởng.

Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: "Bình an cho các con". Người còn thổi hơi vào các ông và nói: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".

Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần Linh Chúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.

Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.


3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.

Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.

Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.
4. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.

Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.

Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng".

Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.

Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.

Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú mẹ. Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát.



Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người. Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
BÌNH AN DO LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

PM. Cao Huy Hoàng
Bình an thật là bình an do lòng Thương Xót của Thiên Chúa, qua “Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống” (1 Pr 1,3)
Các môn đệ bất an, sợ hãi, vì người Do Thái đã giết chết Thầy mình cách kinh khủng, sợ hãi vì vụ án nầy còn có thể liên lụy tới các ông. Chúa Giê-su Phục Sinh đã hiện đến với các môn đệ và nói “Bình an cho các con”. Bình an hôm nay đích thực ứng nghiệm lời Chúa đã nói trước: “Thầy ban bình an cho các con, sự bình an mà thế gian không ban được” (Ga 14, 27). Thế gian không ban được vì thế gian không thể có loại bình an ấy: bình an phục sinh, bình an của người chiến thắng thần chết, chiến thắng tội lỗi, chiến thắng đời sống cũ của con người cũ trong xác phàm. Bình an thật.
Các môn đệ vui mừng nhìn thấy Thầy đã sống lại thật, vì được xem tận mắt những dấu đinh nơi tay chân, dấu đòng nơi cạnh sườn. Người mang dấu đinh, dấu đòng, đang đi lại, đang nói, không ai khác, chính là Thầy mình. Thầy mình đã sống lại. Sự phục sinh của Chúa đã phục sinh niềm tin, phục sinh đức trông cậy, phục sinh lòng yêu mến của các ông đang bị nhạt nhòa, nghi hoặc, lu mờ. Sự phục sinh của Chúa làm cho tâm hồn các ông bình an. Chỉ có Toma vắng mặt. Ông không thấy, ông không tin. Ông chưa gặp được Đấng phục Sinh, chưa bình an. Bởi vậy, tám ngày sau, Chúa lại hiện đến và nói “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin.” (Ga 20, 27)
Như đã được chạm vào những vết đinh vết đòng, chạm vào thân xác Phục sinh của Chúa, chạm vào nguồn ân sủng của Đấng Phục Sinh, Toma bình an công khai tuyên tín: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28)
Như vậy, bình an thật chỉ có nơi Chúa Giê-su Phục Sinh, và sẽ là quà tặng quí giá cho tất cả những ai kết hiệp cùng Người, cùng chết và sống lại với Người. Các môn đệ đã chôn vùi sự nghi ngờ. Toma bằng lòng chết cái suy luận thực dụng. Còn chúng ta, Chúa đang ban cho chúng ta bình an thật. Liệu chúng ta có đón nhận ơn bình an đó không? Liệu chúng ta có chấp nhận kết hiệp với Người để chết và sống lại với Người không?
Bao lâu chúng ta còn sống trong tình trạng đang chết phần linh hồn vì thiếu đói, vì bất cần hay vì không tin, thì bấy lâu chúng ta chưa đón nhận được quà tặng bình an quí giá nầy.
Bao lâu chúng ta chưa vượt qua được những cuốn hút, những mê hoặc của thần chết, của tội lỗi, thì bấy lâu chúng ta còn bất an, hoặc là tự hài lòng với một loại bình an giả tạo.
Bao lâu chúng ta chưa bằng lòng chấp nhận từ bỏ mình, vác thánh giá, đóng đinh tính xác thịt mình, thì nguồn bình an thật hãy còn ở xa chúng ta lắm lắm, nếu không nói là chúng ta vẫn đang trong tình trạng hỗn độn hoang tàn đổ nát.
Nhìn vào đời sống tâm linh của tôi, của bạn, hẳn là chính tôi, chính bạn biết rõ chúng ta đang thủ đắc loại bình an nào, thật hay giả, bình an của sự chết hay bình an của sự sống lại. Lời chúc “Bình an cho các con” là bình an phục sinh mà Chúa muốn mỗi chúng ta sở hữu bằng cuộc sống kết hiệp mật thiết với Đấng đã chết và chiến thắng sự chết, Đấng đã mang lấy tội lỗi của phàm nhân và đã tẩy xóa tội lỗi phàm nhân bằng chính máu, và nước của mình.
Tuy nhiên, Chúa Giê-su hiểu rõ hoàn cảnh thật bi đát của chúng ta giữa dòng đời trong thân phận con người mỏng manh yếu đuối, luôn nghiêng tìm loại bình an hư ảo chóng qua, mà không chấp nhận đóng đinh đời mình để được sống lại với nguồn bình an thật.
Vì thế, Máu Nước tuôn trào từ trái tim yêu thương của Chúa đã khai sinh một nguồn ân sủng của Lòng Xót Thương vô bờ, khai sinh những bí tích diệu kỳ để con người có được sức thiêng thần thánh để nói không với lời dụ ngọt của thế trần, để sở hữu một bình an của sự chiến thắng tội lỗi, chiến thắng những đòi hỏi bất chính của bản thân, của xác thịt, của ma quỷ….
Đáng tiếc thay, con người thờ ơ với nguồn tình vĩ đại, hững hờ với lòng Chúa xót thương, bất cần ơn bình an thật… rồi cuối cùng, ngã lòng, thất vọng lao mình vào chỗ mất tất cả, mất nhân phẩm con cái Thiên Chúa, mất thân xác Đền Thờ Thiên Chúa, mất linh hồn và sự sống đời đời…
Trước tình cảnh bi đát của xã hội loài người vì mất bình an, mất niềm hy vọng, “Thông Điệp về Lòng Chúa Thương Xót” đã vang lên khắp thế giới như một tin vui bình an cho người tuyệt vọng. Con người phải được phục sinh, được bình an phục sinh duy nhất nhờ Tin vào Lòng Chúa Thương Xót, chứ không phải do công trạng của mình.
Từ việc tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót, con người được ơn biến đổi cách diệu kỳ, như Toma đã cất lên lời tuyên tín: “Lạy chúa, Lạy Thiên Chúa của con”.
Con xin tôn vinh lòng thương xót Chúa thật lớn lao. Lớn hơn muôn vàn tội lỗi của con và nhân loại”
Xác tín ấy phải là của chúng ta, của những con người tội lỗi tày trời. Tội lỗi và ma quỷ không còn đủ sức khống chế chúng ta trong tuyệt vọng, nếu chúng ta biết mình có tội và tín thác vào lòng thương xót, lượng khoan hồng thứ tha của Chúa. Điều đáng sợ hơn cả, bất an hơn cả, là không biết mình có tội, tự nhận mình vô tội, hoặc tưởng mình đang siêu thánh.
Xác tín ấy song hành với việc sám hối và tin tưởng vào ơn thứ tha, vì “Trái tim Chúa Giê-su, ôi nguồn xót thương vô bờ, luôn tràn ơn thứ tha, dẫu cho đời con nhơ uế. Trái tim Chúa Giê-su, nơi con ký thác đời con, con sẽ không hề thất vọng vì ơn thứ tha vô cùng”
Ông Hai P, ở một họ lẻ, thuộc GX Ngọc Lâm hiện đang sống với người vợ thứ hai, không hôn phối. Được hai đứa con. Người vợ cũ có hôn phối, còn đang sống ở Sài gòn. Chuyện chia tay ngày ấy đầy nước mắt và chẳng đặng đừng. Hơn 30 năm sống trong tình trạng rối, đã nhiều lần ông thất vọng ê chề, không nhà thờ, nhà thánh, bí tích gì cả. Lúc ấy ông hay nói:“Muốn xưng tội rước lễ lắm, mà có được đâu. Tội nhân công khai mà. Có đi lễ cũng vô ích thôi”. Cách đây 10 năm, nhờ anh em Legio tìm thăm và động viên, ông đã thường xuyên đi lễ, đọc kinh gia đình, cộng tác nhiệt thành với anh em Legio, mặc dầu ông không được rước lễ. Ông vẫn xác tín và giới thiệu Bức ảnh và bản kinh Lòng Thương Xót Chúa với mọi người rằng: “Bí tích của tôi đây. Chỉ có lòng thương xót của Chúa mới cứu được tôi thôi”.
Ông đi dự Bế Mạc năm Thánh ở La Vang và xin được một số ảnh LTX Chúa, quí lắm. Mùa xuân năm nay, ông cùng Ảnh Lòng Chúa Thương Xót đến thăm nhiều bạn trong tình trạng rối, và tặng ảnh LTX Chúa với tâm sự: “Bọn mình chờ tới chết mới may ra được lãnh các ơn cuối cùng, mới được bình an mấy ông à! Nhưng biết có kịp để lãnh không. Thôi thì hãy tin vào LTX Chúa lớn hơn tội của bọn mình, tội của nhân loại. Bọn mình là “đám rối của Lòng Chúa Thương Xót”. Mùa Chay và PS năm nay, người ta thấy có “đám rối” ấy đi lễ, vẫn thường ngồi với nhau ở góc cuối nhà thờ. Giờ rước lễ, họ quì gối, cúi đầu và đọc nhỏ nhỏ câu gì trong miệng. Hỏi ra mới biết, họ đọc “Kinh cầu xin Lòng Thương Xót Chúa”. Nghe nói 3 giờ chiều thứ sáu, “đám rối của LTX Chúa” tập trung đọc kinh luân phiên ở nhà một người rối. Có anh em vui mừng nói:“Đám rối tui được bình an, nhờ tin vào lòng Chúa thương xót”.
Đó là câu chuyện của những người mang tiếng là tội nhân công khai. Còn biết bao nhiêu tội nhân chưa công khai, mà có thể trong đó có tôi, có bạn, có cả những người vẫn dương dương tự đắc khi mình có góp chút công, chút của, hay chút tài ba vặt vảnh vào công việc giáo hội mà xem thường người khác làm bẩn thỉu đến thờ.
Lòng Chúa Thương Xót đang thực hiện nhiều cách để mọi người Tin vào quyền năng và tình thương của Ngài, và được bình an thật.
Cưới vợ cho thằng Hai xong, ông bà Minh ở giáo xứ Đồng Tiến mừng rơn. Mừng rồi mơ lên chức ông bà nội. Ba tháng sau, nghe con dâu có bầu. Mừng hơn nữa. Ông Minh đi khoe với thiên hạ “Tui biết mà. Ai dám nói nó không biết chữa đẻ?”. Thai được 4 tháng, con dâu đi bệnh viện thăm thai. Con trai. Bình thường. Bình thường đến tháng thứ 6, rồi thứ 7, thứ 8. Vào tháng thứ 9, con dâu vào khám thai xong, ra, xỉu. Kết luận khó sinh, thai nhi có hội chứng down, não không bình thường. Hai vợ chồng ôm nhau khóc. Hoang mang trong lòng. Được tin, bà Minh nói ông Minh: “Ông chỉ giỏi cái khoe khoang. Không thấy ông đọc kinh cầu nguyện bao giờ. Kêu đi lễ chúa nhật, hôm thì đau bụng, hôm thì đau răng, hôm thì trở trời đau lưng nhức mỏi…đã lười biếng lại còn đỗ thừa, đỗ lỗi, tại, bị, vì…ông cha xứ mang tiếng nầy tiếng nọ”. “Như vậy là bà nói Chúa phạt tui đấy hả. Tui có tội thì phạt tui, mắc mớ gì phạt thằng cháu nội?” “Đúng là ông lý cùn. Ông đi xưng tội đi. Mùa chay rồi đó”. “Xưng tội với ông cha đó hả? chuyện đó của tui, bà khỏi lo”.
Cùng niềm lo lắng, chị của cô dâu đưa cho Bà Minh bức ảnh lòng thương xót, bản kinh và mời bà Minh đi đọc kinh 3 giờ chiều. Trễ hơn một tuần, mà con dâu vẫn chưa sinh. Càng lo, bà càng khẩn cầu lòng thương xót Chúa. Bà thúc giục ông: “Tui xin ông đi xưng tội đi, đọc kinh cầu nguyện cho con cho cháu, may ra mới lên được chức ông nội”. Bà cũng xin anh chị em nhóm LTX Chúa cầu nguyện cho con dâu của Bà. Thứ hai tuần thánh, trễ mười một ngày, con dâu bà Minh sinh được cháu trai. Mẹ tròn, con vuông. Cậu bé kháu khỉnh, già dặn, cứng cáp. Không có dấu hiệu nguy hiểm gì về down và sọ não, như đã tiên báo. Cả hai nhà nội ngoại mừng vui tạ ơn Lòng Thương Xót Chúa.
Chúa Giê-su đã chết đi và đã sống lại, tất cả đều do Lòng Thương xót nhân loại tội lỗi. Vậy người tội lỗi được quyền hy vọng có một cuộc sống bình an thật ở đời nầy, nếu biết mình có tội và có lòng Tín Thác. Tin vui ấy được Thánh Phê-rô xác nhận: "Nhờ việc Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống". (1Pr 1, 3).
Tạ ơn Chúa Giê-su, Lòng Thương xót của Chúa Cha.

Kính xin Thánh Nữ Faustina, và Chân Phước Gioan Phaolo II chuyển đến Thiên Chúa lời nguyện cầu của những tội nhân là chúng con đây, đang thành tâm sám hối và tín thác.


Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay mở ra cho chúng con thấy các vết đinh vết đòng của Đấng Sống Lại, đồng thời cũng mở ra cho chúng con nguồn ân sủng bình an từ vết đinh vết đòng đau thương ấy, là dấu chỉ tình yêu vô cùng của Chúa dành cho chúng con, những tội nhân công khai và chưa công khai. Xin cho chúng con biết mình có tội tày trời. Xin cho chúng con biết sám hối và tín thác vào Lòng Thương Xót Thứ Tha của Chúa. A men
PM. Cao Huy Hoàng 28-2-2011

HÃY ĐỤNG CHẠM TỚI LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Môn đệ Tô-ma đòi được tận tay chạm vào được các thương tích của thập giá: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Tại sao lại thế nhỉ? Gặp được Người sống, và đi lại, nói năng, ăn uống như người thường chẳng lẽ không đủ sao? Tại sao lại cần “cho các ông xem tay và cạnh sườn”? Điều đó có ý nghĩa đặc biệt nào đối với nhóm môn đệ nhút nhát?
Dưới cặp mắt của các môn đệ, việc Thầy Chí Thánh bị đóng đinh vào thập giá và con tim Người bị đâm thủng chắc chắn không chỉ mang ý nghĩa thể lý, cái chết đau đớn của một thể xác treo trên thập giá. Đối với các ông, và đó là nội dung giáo huấn trường kỳ của đức Giê-su, dấu đinh trên tay chân và vết thương trên sườn Người nói lên sự tự hiến yêu thương của Chiên Vượt Qua, tình yêu bao la của Thiên Chúa cứu độ. Khi cho các ông xem tay và cạnh sườn, đấng Phục Sinh hẳn muốn nói cho các môn đệ Người một điều gì vượt xa hơn khẳng định rằng Người sống lại về thể lý: tình yêu thương xót cứu độ của Thiên Chúa đã trở thành bất diệt và toàn thắng. Các môn đệ cần cảm nhận cách cụ thể để tin vào điều này cách bền vững. Các ông là các nhân chứng được chứng kiến tình yêu đó đã đạt tới đỉnh điểm, thì cũng cần phải xem và chạm vào các dấu đinh ở tay chân, và vết đòng trên ngực Người để có bằng chứng không thể chối cãi rằng lòng xót thương tha thứ đó là vô địch, là toàn thắng.
Môn đệ Tô-ma trong thâm sâu muốn điễn đạt nhu cầu đó khi phát ngôn câu nói mà nhiều khi bị coi là một lời thách thức: “Nếu tôi không….”. Đức Giê-su phần mình đã coi yêu cầu đó là chính đáng, và Người không ngần ngại ứng: “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”. Đúng là Tôma và mọi môn đệ đều cần cảm nghiệm cụ thể này, sau tất cả các biến cố xáo trộn các ông vừa trải qua. Còn đối với các tín hữu các thế hệ sau này, Đức Giê-su đã không hề tuyên bố trải nghiệm đó là không cần thiết, ngược lại là đàng khác, Tuy nhiên Người khẳng định: trải nghiệm này phải được thể hiện bằng lòng tin, thay vì phải dung tới các giác quan thể lý. “Vì đã thấy Thầy nên anh đã tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”.
Bí tích Thánh Thể mà ngài đã thiết lập chính là để các tín hữu qua các thế hệ chạm tới được các dấu đinh tay chân và vết thương cạnh sườn của Chúa Phục Sinh. Cử hành Thánh Thể, vì thế, trở nên tâm điểm của đời sống Ki-tô hữu, chính vì nơi đó, trong niềm tin, từng người một, các Ki-tô hữu cảm nghiệm cách riêng tư và sống động lòng thương xót vĩnh cửu của Thiên Chúa đang được lập lại cho mình. Trong cử hành Thánh Thể, linh mục và tín hữu cũng được mời gọi “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”. Đúng là họ cần được đụng chạn tới biểu hiện của lòng thương xót cứu độ, trong tất cả sức mạnh và sự hữu hiệu của nó. Bất luận ai là Ki-tô hữu đều phải coi đây là công việc quan trọng hàng đầu họ cần làm. Họ sẽ có cùng thái độ của Phê-rô và Gio-an, khi đứng trước người bất toại trong đền thờ: “Anh hãy nhìn chúng tôi đây… Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có tôi cho anh đây…” Mọi Ki-tô hữu (gồm cả tu sĩ, linh mục, giáo dân, cách riêng các tân tòng) đều cần ý thức: họ không nhất thiết phải là người giầu có (về vật chất tiền của, cũng như về tinh thần: kiến thức, đời sống luân lý hay nhân đức), nhưng gia sản quí giá nhất họ sở hữu, đặc ân riêng mà duy chỉ một mình họ có, đồng thời cũng là điều duy nhất họ có thể cống hiến cho nhân loại đang quằn quại trong nỗi thống khổ cùng cực, đó là được biết, được chạm tới và được cử hành sinh động lòng thương xót từ ái vô biên và bất diệt của Thiên Chúa, đã được thực hiện qua thập giá và phục sinh của đức Ki-tô Giê-su.
Tôi có xác tín điều này không?
Lạy Chúa Phục Sinh, xin cho phép con được, dùng đức tin, xỏ ngón tay vào các lỗ đinh, đặt bàn tay con vào cạnh sườn Người, để con có được cảm nghiệm sâu sắc rằng tình yêu cứu độ Chúa dành cho con là bất diệt. Xin cho việc cử hành Thánh Lễ hàng ngày mang lại cho chính con trước hết sự bình an của một người nhận biết mình đượcThiên Chúa yêu thương, và tình yêu đó sẽ bất diệt và bền vững cho đến muôn đời, bất chấp những yếu hèn, sa ngã của kiếp người ô trọc. Xin cho con được cử hành mầu nhiệm phục sinh ngay từ bây giờ, trong chính đời sống con . Amen
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa thì lòng thương xót là cách thức Chúa bày tỏ tình yêu, là dấu chỉ cho tình yêu vững bền của Ngài. Lòng thương xót nhìn kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, xót xa vì họ đang đi đến hố diệt vong. Lòng thương xót tựa như ánh mắt của tình yêu, giúp người ta nhận ra nhu cầu của tha nhân để chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ, xoa dịu hay chữa lành. Chúng ta có thể cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa qua dọc dài lịch sử cứu độ.


Khởi từ tội lỗi của Adam, Chúa không đoạn nghĩa dứt tình với Adam. Chúa vẫn thương Adam và xót xa dường nào khi thấy Adam tủi hổ lẩn trốn trong vườn địa đàng. Adam là kẻ phản bội làm sao dám vác mặt gặp Chúa. Tội lỗi làm cho người ta mặc cảm, xấu hổ và lo sợ khi phải đối diện với sự thật. Thế nhưng Adam phần nào đã bớt đi sự sợ hãi, bớt đi áp lực tâm lý khi nghe tiếng gọi: “Adam, Adam ngươi đang ở đâu?”. Am thanh của tiếng gọi không mang âm sắc của giận dữ hay quở mắng, nhưng tiếng gọi vẫn thân thương dịu ngọt, có điều pha trộn chút âm điệu xót xa. “Phải chăng ngưoi đã ăn trái cây trong vườn mà ta đã cấm?”.
Tội có thể được tha, nhưng hình phạt vẫn phải chịu. Nhưng ai là người phải chịu phạt thay cho tội Adam. Thiên Chúa không suy tính thiệt hơn. Không đắn đo suy xét. Ngay tức thời, lời hứa cứu độ đã được ban ra. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa sẽ gánh lấy tội Adam và đền thay cho tội lỗi Adam. Có thể nói, lòng thương xót của Chúa được tỏ bầy cụ thể và rõ nét trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Cả cuộc đời luôn sống vì người khác, luôn đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm để thi ân giáng phúc. Cả trong những lúc đau khổ nhất của cuộc đời, Ngài vẫn không nghĩ đến mình: Ngài xót thương các bà mẹ thành Giêrusalem “đừng than khóc Ta nhưng hãy than khóc con cháu các người; Ngài xót thương những kẻ đã làm hại mình, vì “họ không biết việc họ làm”; Đỉnh cao của lòng thương xót đó là ơn tha tội và ban thưởng hạnh phúc trường sinh. Đó là đặc ân mà anh trộm lành được diễm phúc đón nhận đầu tiên từ cây thập giá: “ngay đêm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Chính điểm này mà trong dịp giảng tĩnh tâm Giáo triều Rôma, Đức cố hồngY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã nêu ra 10 điểm khiếm khuyết của Chúa Giê-su trong đó có sự hay quên: chỉ 1 câu nói thành thật với chính mình của tên trộm lành mà Chúa đã quên cả quá khứ tội lỗi của anh. Chỉ cần thấy bóng dáng thằng con trời đánh bỏ nhà đi hoang nay thất thểu trở về là người cha đã quên hết quá khứ đi hoang của người con. Lòng thương xót của Thiên Chúa là vậy. Một vì Thiên Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung mà vua Đavít đã từng nói lên rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững. Tình yêu Chúa cao hơn tội lỗi chúng ta, đến nỗi có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta.
Tác giả Ron Lee đã viết một câu chuyện trong cuốn “Một Thiên Chúa Tha thứ trong một thế giới không tha thứ” như sau:


  • Có một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Cho tới một hôm nghe nói có một phụ nữ trong giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục không tin, nên muốn thử bà ta và nói: lần sau bà có nói chuyện với Chúa thì hỏi xem, tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày sau gặp lại, vị linh mục đã hỏi bà là Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói rằng: Ta chẳng còn nhớ gì nữa!

Bài Phúc âm hôm nay cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng minh nhiên và cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông.
Hôm nay kính nhớ lòng thương xót của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta nhận ra mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu cực thánh, chúng ta hãy biết đền đáp tình yêu Chúa bằng sự hoàn thiện con người của mình như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng thời chúng ta cũng dâng hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa.
Có lẽ đây là vấn đề mà những người kytô hữu phải lo lắng quan tâm. Vì qua báo chí và các phương tiện truyền hình truyền thanh chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn thấy một thế hệ trẻ sa đoạ, cuồng loạn và lạc mất hướng đi của đời người. Con số thống kê về sì ke, ma túy, mại dâm, phá thai, bệnh nhân nhiễm HIV hay Aid mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân, mà một ai đó đã nói một cách mỉa mai rằng: những điều tốt thì không thấy tăng, nhưng tội phạm thì năm nào cũng được nghe câu nói quen thuộc: “năm nay cao hơn năm trước”.
Có lẽ Chúa cũng đang cần những con người thanh sạch như như ông Lót trong thành Sôdôma. Ông đã bị dày vò bởi những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hằng ngày quanh mình. Ông cố thuyết phục dân thành ăn năn hầu tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng không ai nghe ông. Rồi Abaraham cũng nài xin Chúa tha thứ nhưng lại không kiếm được 10 người công chính, thế là cả thành bị tiêu diệt.
Và hôm nay, Chúa đang cần có nhiều người như thánh nữ Faustina, biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Biết phó dâng bản thân, gia đình và nhân loại cho lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta hãy sám hối về lỗi phạm của mình và hãy dâng những hy sinh và lời cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu long xót thương tha thứ và ban bình an cho mỗi người chúng ta. Amen.
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

TÔ-MA LÀ MỘT MẪU NGƯỜI

CÓ TÍNH THỰC NGHIỆM

JKN


Câu hỏi gợi ý:

  1. Người cứng tin như Tô-ma có gì hay hơn kẻ tin dễ dàng không?

  2. Người thời đại có dễ tin như những người thời đại trước không? Người thời đại sau thì sao? Tại sao lại như vậy?

  3. Có cần phải thay đổi phong cách rao giảng Tin Mừng cho những thế hệ con cháu chúng ta không? Tại sao? Một cách thực tế phải thay đổi thế nào?


Suy tư gợi ý:

1. Tô-ma là một mẫu người có tính thực nghiệm.

Khi chưa đích thực gặp lại thân xác đã sống lại của Đức Giêsu, thì ngoài Tô-ma ra, các tông đồ khác dường như không cảm thấy có vấn đề gì trong việc tin Ngài đã sống lại. Các ông đã tỏ ra tương đối dễ tin. Nhưng riêng Tô-ma, ông không tin dễ dàng như thế, vì từ xưa đến nay, ông chưa hề nghe nói có một ai tự mình sống lại từ cõi chết bao giờ. Cứ bình thường mà xét, phải nói rằng Tô-ma khôn ngoan và thận trọng hơn các tông đồ khác.


Đối với người như Tô-ma, Đức Giêsu đã không phiền trách gì về sự cứng lòng tin của ông. Ngài chỉ nói một câu rất nhẹ nhàng để bổ túc cho sự cứng tin hợp lý ấy: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" Và Đức Giêsu đã cho phép Tô-ma được xỏ tay vào lỗ đinh ở tay và lỗ đòng đâm ở cạnh sườn Ngài. Nhưng có lẽ chính nhờ như thế mà Tô-ma sẽ tin chắc vào sự sống lại của Ngài hơn ai hết. Người cứng tin mà đã tin thì sẽ tin rất vững. Còn kẻ quá dễ tin thì cũng sẽ dễ dàng mất niềm tin, hoặc cũng sẽ dễ dàng tin những điều khác dù chưa đủ nền tảng để tin.
2. Con người thời nay và nhất là những thế hệ sau sẽ càng ngày càng có tính thực nghiệm giống như Tô-ma.

Ngày nay, con người đã bước vào kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật, nên con người chịu ảnh hưởng của tinh thần khoa học thực nghiệm rất nhiều. Tinh thần khoa học thực nghiệm chính là tinh thần của Descartes (1596-1650): "Chỉ tin sau khi đã chứng minh". Và tinh thần ấy được thể hiện thành chủ trương "nghi ngờ có phương pháp và phổ quát" (doute méthodique et universel) của ông. Nghi ngờ để tìm tòi hầu đi đến kết luận chắc chắn. Tinh thần khoa học thực nghiệm ấy đòi hỏi con người trước khi đi đến một kết luận, cần phải trải qua ba giai đoạn: nhận xét, đưa ra giả thuyết, và thí nghiệm kiểm chứng như đòi hỏi của Claude Bernard (1813-1873).


Tinh thần ấy chính là tinh thần của Tô-ma, chính vì thế, các nhà khoa học Công giáo đã nhận thánh Tô-ma làm bổn mạng của các nhà khoa học. Riêng bản thân tôi, người viết bài này, cũng rất thích sự cứng tin của Tô-ma, và coi đó như một đức tính rất cần thiết để sự phán đoán và lời nói của mình có giá trị, đáng tin. Sự đáng tin không chỉ đòi hỏi đức tính chân thật, mà còn đòi hỏi sự phán đoán chính xác và chắc chắn. Một người hết sức thật thà không bao giờ muốn lừa dối ai, nhưng lại dễ tin và hay bị lường gạt, thì phán đoán và lời nói của người ấy không còn đáng tin nữa. Thiết tưởng những người rao giảng chân lý, ngoài đức tính chân thật, cần phải có sự chững chạc trong cách phán đoán để trở nên đáng tin trước mặt mọi người.
3. Đối tượng Phúc Âm hóa trong tương lai là những thế hệ có đầu óc khoa học thực nghiệm như Tô-ma.

Những nhà truyền giáo hiện nay tại Việt Nam thường thuộc lứa tuổi giao thời giữa hai thời đại: thời khoa học chưa ảnh hưởng mạnh và thời khoa học ảnh hưởng rất mạnh trên lề lối suy nghĩ của con người. Thời trước, người ta dễ tin những ai có uy tín (như các giám mục, linh mục, tu sĩ, hoặc ông bà cha mẹ, cô dì chú bác). Trẻ con dễ tin vào những điều người lớn nói, không đặt vấn đề điều đó đáng tin tới mức nào. Nhưng thời nay và nhất là những thế hệ mai sau, người ta không dễ tin như thế nữa. Họ thường đòi hỏi "nói có sách, mách có chứng". Muốn họ tin thì phải có bằng chứng. Nếu không chứng minh bằng sự kiện thì ít nhất phải chứng minh được sự khả tín của điều mình nói. Ngoài ra, lập luận phải vững chắc, trình bày rõ ràng. Vì thế, việc rao giảng Tin Mừng hay sứ điệp Kitô giáo không thể theo phương cách cũ mang nặng tính giáo điều được.


Ngày xưa, tại Việt Nam, trình độ văn hóa giữa linh mục và giáo dân có sự chênh lệch rất cao. Ngày nay, sự chênh lệch ấy giảm đi rất nhiều, thậm chí không còn nữa. Rất nhiều giáo dân có trình độ văn hóa cao hơn những linh mục bình thường. Tuy nhiên các linh mục vẫn thường hơn giáo dân trong những kiến thức về thần học, giáo lý, v.v… vì người giáo dân hiện nay không được quan tâm đào tạo về mặt này, hoặc không có điều kiện để quan tâm. Vì thế, các linh mục thường đảm trách việc loan báo và rao giảng Tin Mừng cho giáo dân và người ngoại. Nhưng vì trình độ văn hóa của người bình thường ngày càng cao hơn, nên việc rao giảng Tin Mừng không còn dễ dàng như ngày xưa. Điều ấy đòi hỏi những người rao giảng Tin Mừng cũng phải có một tinh thần khoa học thực nghiệm trong cách rao giảng, cần chú trọng đến những bằng chứng xác thực, những lý luận chặt chẽ, cho dù đức tin không phải đến từ những thứ ấy. Nhưng nếu không chú trọng đến những thứ ấy, lời rao giảng sẽ bị từ chối ngay từ đầu.
4. Hội nhập văn hóa theo chiều dọc.

Tại châu Á, Giáo Hội đã thành công rất khiêm nhường trong việc truyền giáo, không thành công rực rỡ như ở châu Âu. Một phần khá lớn là do thiếu hội nhập văn hóa, vì trước đây, có sự khác biệt về văn hóa giữa dân tộc truyền giáo với dân tộc được truyền giáo. Ngày nay, với việc toàn cầu hóa, sự khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc bị giảm thiểu rất nhiều, nên việc hội nhập văn hóa theo chiều ngang không còn cần thiết và quan trọng như xưa. Trái lại, sự khác biệt về văn hóa giữa thế hệ trước với thế hệ sau ngày càng gia tăng. Lề lối suy nghĩ của các thế hệ sau càng ngày càng thấm nhuần tinh thần khoa học thực nghiệm hơn. Vì thế, nếu không có sự thích ứng khôn ngoan của thế hệ Phúc Âm hóa (thế hệ trước) với thế hệ được Phúc Âm hóa (thế hệ sau) trong việc diễn tả sứ điệp, chắc chắn việc Phúc Âm hóa sẽ thất bại. Do đó, hiện nay việc hội nhập văn hóa theo chiều dọc cần được Giáo Hội quan tâm và thực hiện nhiều hơn là hội nhập văn hóa theo chiều ngang.


5. Rao giảng bằng việc làm đi đôi với rao giảng bằng lời nói

Tinh thần khoa học thực nghiệm của con người thời đại đòi hỏi những dấu chứng cụ thể mới tin được. Do đó, những xác quyết trong rao giảng cần được chứng tỏ bằng thực tế đời sống. Thật vậy, ai mà tin được cái Tin mà chúng ta rao giảng là Tin Mừng khi chúng ta rao giảng nó với bộ mặt buồn so, ảo não? Ai mà tin được Tin Mừng này là Tin Mừng Giải Phóng khi mà người rao giảng nó vẫn sẵn sàng khom lưng làm nô lệ cho người, cho vật, cho sự này sự khác, hoặc cho chính bản thân? Ai mà tin được Tin Mừng này là Tin Mừng Cứu Độ khi mà nó không làm cho người người rao giảng nó hoặc theo nó sống tốt hơn, có tình có nghĩa hơn, và hạnh phúc hơn những người bình thường khác?


Thiết tưởng đã tới lúc chúng ta - những ai còn tha thiết với tiền đồ của Kitô giáo - cần đặt lại vấn đề sống đạo một cách nghiêm túc hơn và hãy thành thật với chính lòng mình. Nếu ta cảm thấy Kitô giáo trong thực tế đã không đem lại một thứ hạnh phúc tự tại cho chúng ta, không tạo được một động lực đủ mạnh để thúc đẩy ta sống tốt đẹp hơn người ngoài, mà ta vẫn cứ mạnh miệng rao giảng như là một tôn giáo tốt nhất, hữu hiệu nhất, thì việc rao giảng của chúng ta đúng là một sự lừa dối có hệ thống. Nếu như thế chúng ta phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về sự lừa dối ấy. Chúng ta tưởng mình có đức tin, nhưng trong thực tế, đức tin ấy đã chết hay mất đi từ lâu mà ta tưởng là ta vẫn còn đức tin. Vì đức tin không phải là một chấp nhận xuông, hay chỉ là hành động tuyên xưng ngoài miệng, mà là một cái gì tự nhiên ảnh hưởng rất sâu xa vào đời sống, khiến ta thay đổi cách suy nghĩ và hành động nên tốt đẹp hơn, và đời sống ta hạnh phúc hơn rất nhiều. Nếu không được như thế, "đức tin" mà ta tưởng rằng ta có, không phải là đức tin đích thực.
CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, rất nhiều khi con chê trách Tô-ma là quá cứng tin, và tự hào mình dễ tin hơn nhiều. Nhưng trong thực tế, đức tin của con chẳng ảnh hưởng gì trên cuộc sống con bao nhiêu, nó chẳng làm con hạnh phúc hơn người không đức tin, chẳng làm con sống tốt đẹp và yêu thương hơn họ. Xin cho con nhận ra đức tin ấy chưa phải là đức tin đích thật. Xin Cha hãy ban cho con đức tin đích thực có khả năng thay đổi con người của con, làm con nên thật sự tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Amen.


JKN

BIỂN TÌNH.

Chúa Nhật IIPS – A – Kính Lòng Thương Xót Cuả Chúa.

Lòng Thương Xót Chúa quá bao la,
Giải phóng đời con thoát ách tà.
Tội lỗi, đam mê, thần trói buộc,
Ăn năn, sám hối, Chúa dung tha.
Trái tim mở rộng, thầm thì gọi,
Máu - Nước tuôn trào, réo rắt xa.
Tán tụng ân tình Ơn Cứu Chuộc,
Ngàn năm vang vọng khúc hoan ca.
29/04/2011

Hạt Nằng

HOAN CA LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA.

Chúa Nhật IIPS – A – Kính Lòng Thương Xót Của Chúa.


Lang thang trên đường đời,

Cô đơn giữa lòng người,

Dong duổi đường gió bụi,

Đường mịt mù tăm tối.


Đêm đêm con mệt nhoài,

Tâm tư nỗi u hoài,

Lặng nhìn trời giông bão,

Ước vọng đường tương lai.


Tình yêu của Chúa,

là ánh Sao Mai sáng soi đời con,

Phá tan đêm đông buồn, sưởi ấm con tim tội tình.

Lòng Thương Xót của Chúa,

là Suối Mát trong, nước ngọt trường sinh,

Gội sạch hồn con, đổi mới đời con, sống trong an bình.


Hân hoan trên đường đời

Ca vang ân tình Người,

Dong duổi đường nhân chứng,

Một lòng con vươn tới.


Alle – Alle – luia,

Alle – Alle – luia,

Nhờ Lòng Thương Xót của Chúa,

Con sống đời phục sinh.


29/04/2011

M. Madalena Hoa Ngâu.


tải về 0.76 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương