NHỮng đIỂm mới của bộ luật hình sự 2015


Về người tham gia tố tụng (Chương IV)



tải về 274.98 Kb.
trang3/3
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích274.98 Kb.
#16905
1   2   3

3. Về người tham gia tố tụng (Chương IV)

3.1. Bổ sung diện người tham gia tố tụng

BLTTHS năm 2015 bổ sung 09 diện người tham gia tố tụng, gồm: (1) Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; (2) Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; (3) Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; (4) Người bị bắt; (5) Người chứng kiến; (6) Người định giá tài sản; (7) Người dịch thuật; (8) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; (9) Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội. Đồng thời, Bộ luật quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng.



3.2. Bổ sung một số quyền của người bị buộc tội (các điều 58, 59, 60, 61)

Nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, BLTTHS năm 2015 bổ sung cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo một số quyền sau đây: (1) Được nhận các quyết định tố tụng liên quan đến mình; (2) Đưa ra chứng cứ; (3) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) Có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; (5) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; (6) Bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội họ trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra theo quy định của Bộ luật này khi có yêu cầu; (7) Bị cáo có quyền trực tiếp hỏi những người tham gia tố tụng nếu được Chủ tọa phiên tòa đồng ý; (8) Một số quyền khác.

Cùng với việc bổ sung quyền, BLTTHS năm 2015 quy định rõ hơn nghĩa vụ của người bị buộc tội phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền.

3.3. Xác định đầy đủ diện của bị hại và bổ sung một số quyền của họ (Điều 62)

BLTTHS năm 2015:

- Quy định diện người bị hại không chỉ gồm cá nhân bị thiệt hại như hiện hành mà còn bao gồm tổ chức bị thiệt hại.

- Để bị hại bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, BLTTHS năm 2015 bổ sung cho bị hại và người đại diện theo pháp luật của họ các quyền: (1) Được cơ quan tố tụng thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của họ; (2) Đưa ra chứng cứ; (3) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá, người dịch thuật; (5) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người tham gia phiên tòa và một số quyền khác.

- Quy định rõ hơn nghĩa vụ và trách nhiệm của người bị hại nhằm tăng cường trách nhiệm của họ trong việc phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tố tụng trong việc phát hiện, xử lý tội phạm: (1) Nghĩa vụ chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền; (2) Trường hợp cố ý vắng mặt hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải.

3.4. Bổ sung một số quyền của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (các điều 63, 64, 65)

- Để bảo đảm cho những chủ thể này bảo vệ tốt hơn quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng, phù hợp với Luật giám định tư pháp, BLTTHS năm 2015 bổ sung một số quyền của họ như: (1) Quyền đưa ra chứng cứ; (2) Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (3) Yêu cầu giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; (4) Quyền được thông báo kết quả giải quyết vụ án; (5) Quyền đề nghị chủ tọa hỏi những người tham gia phiên tòa; (6) Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Và một số quyền khác.

BLTTHS năm 2015 quy định rõ hơn nghĩa vụ của những chủ thể này phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền nhằm tăng cường trách nhiệm của họ trong quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm việc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật.

3.5. Sửa đổi các quy định liên quan đến người làm chứng (Điều 66)

* BLTTHS năm 2015 quy định thời điểm người làm chứng tham gia tố tụng sớm hơn, kể từ khi cơ quan có thẩm quyền xác minh các nguồn tin về tội phạm. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc hoặc học tập phải tạo điều kiện để họ tham gia tố tụng.

4. Về bào chữa và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Chương V)

BLTTHS năm 2015 xây dựng một chương mới để điều chỉnh vấn đề này với những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu sau đây:



4.1. Mở rộng diện người được bảm đảm quyền bào chữa (Điều 58)

Để phù hợp với Hiến pháp năm 2013, ngoài 03 đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa như hiện hành, BLTTHS năm 2015 bổ sung “người bị bắt” được bảo đảm quyền bào chữa.



4.2. Mở rộng diện người bào chữa (Điều 72)

Để bảo đảm tốt hơn quyền của người bị buộc tội, phù hợp với Luật trợ giúp pháp lý, BLTTHS năm 2015 bổ sung diện người bào chữa là Trợ giúp viên pháp lý để bào chữa miễn phí cho các đối tượng thuộc diện chính sách.



4.3. Đổi mới quy định về cấp đăng ký bào chữa (Điều 78)

Nhằm bảo đảm người bào chữa nhanh chóng tham gia tố tụng, BLTTHS năm 2015 đã thay quy định cấp giấy chứng nhận người bào chữa bằng thủ tục đăng ký bào chữa. Theo đó, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ theo luật định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm: kiểm tra giấy tờ do người bào chữa cung cấp, nếu thấy đủ điều kiện luật định thì vào sổ đăng ký bào chữa và gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký và cơ sở giam giữ. Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng.



4.4. Bổ sung một số quyền và cơ chế bảo đảm người bào chữa thực hiện tốt các quyền luật định (Điều 73, các điều 79-82)

Để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội, BLTTHS năm 2015 bổ sung một số quyền của người bào chữa, gồm: (1) Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt; Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thay vì chỉ được hỏi khi cơ quan tiến hành tố tụng đồng ý như hiện nay; (2) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; (3) Thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; (5) Đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.

BLTTHS năm 2015 bổ sung các cơ chế để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa như: Quy định trách nhiệm của các cơ quan tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa thời gian và địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia; Quy định cụ thể thủ tục gặp người bị buộc tội đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, thủ tục giao nộp chứng cứ, thủ tục đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án.

Đồng thời với việc bổ sung quyền của người bào chữa, nhằm tăng cường trách nhiệm của người bào chữa, BLTTHS năm 2015 bổ sung nghĩa vụ của người bào chữa phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; không được tiết lộ thông tin mà mình biết được khi tham gia các hoạt động tố tụng liên quan đến vụ án hoặc liên quan đến người mà mình bào chữa cho những người không có trách nhiệm giải quyết vụ án.



4.5. Quy định cụ thể thủ tục mời, cử người bào chữa (Điều 75)

Để bảo đảm quyền của người bị buộc tội, nhất là người bị buộc tội đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, BLTTHS năm 2015 quy định: (1) Bổ sung người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa; (2) Quy định cụ thể thủ tục và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan quản lý người bị tạm giữ, tạm giam khi tiếp nhận được yêu cầu nhờ người bào từ người buộc tội phải chuyển yêu cầu này hoặc thông báo cho người bào chữa được họ nhờ biết; có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa liên hệ với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để thỏa thuận về việc nhờ bào chữa.



4.6. Mở rộng các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa (Điều 76)

Để thể chế hóa chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước và phù hợp với điều kiện cụ thể nước ta, BLTTHS năm 2015 mở rộng trường hợp bắt buộc mời người bào chữa cho bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là 20 nămtù chung thân, tử hình.

Đồng thời, BLTTHS năm 2015 quy định chặt chẽ về người có nhược điểm về thể chất theo hướng nhược điểm về thể chất đó phải làm cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không thể tự mình thực hiện được quyền bào chữa.

4.7. Về những trường hợp không được làm người bào chữa (Điều 72)

Để phù hợp với Luật Luật sư và thực tiễn giải quyết vụ án thời gian qua, BLTTHS năm 2015 bổ sung những đối tượng không được làm người bào chữa, gồm: (1) Nếu đã tham gia vụ án đó với tư cách là người dịch thuật; (2) Là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xoá án tích; đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.



4.8. Về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng (Điều 74)

Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng kể từ khi có người bị bắt.

4.9. Về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự

Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, BLTTHS năm 2015 xây dựng hai điều luật (Điều 83 và Điều 84) quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này với những bổ sung quan trọng như: (1) Quy định ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố đã có quyền có người bảo vệ quyền lợi; (2) Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (3) Yêu cầu giám định, định giá tài sản; (4) Quyền tham gia các hoạt động tố tụng để bảo vệ người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự và một số quyền khác.

5. Về chứng cứ và chứng minh (Chương VI)

5.1. Điều chỉnh khái niệm về chứng cứ (Điều 86)

Để phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013 về tăng cường tranh tụng, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, BLTTHS năm 2015 điều chỉnh khái niệm về chứng cứ theo hướng không chỉ cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mới được quyền thu thập chứng cứ; người bị buộc tội, người bào chữa và một số người tham gia tố tụng khác cũng có quyền thu thập hoặc cung cấp chứng cứ.



5.3. Bổ sung một số nguồn chứng cứ và quy định về loại trừ chứng cứ (Điều 87)

Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, tháo gỡ những vướng mắc đặt ra trong thực tiễn, phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại và yêu cầu hội nhập quốc tế, BLTTHS năm 2015 bổ sung vào hệ thống nguồn chứng cứ gồm: (1) Dữ liệu điện tử; (2) Kết luận định giá tài sản; (3) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác trong đấu tranh chống tội phạm.

Nhằm đáp ứng các yêu cầu của chứng cứ về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp, BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về loại trừ chứng cứ, theo đó: “Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”.

5.4. Quy định cụ thể về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử và việc thu thập dữ liệu điện tử (các điều 99, 107)

Nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm sử dụng công nghệ cao, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể về dữ liệu điện tử với tính cách là một loại nguồn chứng cứ như: khái niệm về dữ liệu điện tử; các nguồn chứa dữ liệu điện tử; yêu cầu về giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử; trình tự, thủ tục thu thập, phục hồi dữ liệu điện tử nhằm bảo đảm tính khách quan, tính nguyên trạng và tính có thể kiểm chứng của loại chứng cứ này.



5.5. Về phương thức người bào chữa thu thập chứng cứ (Điều 88)

Để phù hợp với yêu cầu tăng cường tranh tụng, BLTTHS năm 2015 quy định quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa và cách thức người bào chữa thu thập chứng cứ, gồm: gặp thân chủ, bị hại, người làm chứng, những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các tình tiết liên quan đến việc bào chữa.



5.6. Quy định chặt chẽ và chi tiết việc xử lý vật chứng (Điều 106)

Nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án hình sự, BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung chi tiết việc xử lý vật chứng theo từng trường hợp: vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành; vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có; vật chứng là vật không có giá trị hoặc không sử dụng được; vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản; vật chứng là động vật hoang dã và thực vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quy hiếm, động vật, thực vật ngoại lai và một số trường hợp khác.


PHẦN THỨ HAI: KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

1. Về khởi tố vụ án hình sự (Chương IX)

Nhằm tháo gỡ những vướng mắc của thực tiễn do tính thiếu cụ thể của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 quy định 20 điều luật về thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Cụ thể như sau:

1.1. Bổ sung và quy định rõ các khái niệm về tố giác tội phạm; tin báo về tội phạm; kiến nghị khởi tố nhằm khắc phục những bất cập trong quy định của Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNNPTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2015. Theo đó: Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền;  Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm; cơ quan kiến nghị khởi tố phải gửi kèm theo tài liệu, chứng cứ liên quan.

1.2. Quy định cụ thể trách nhiệm và thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 145, Điều 146).

1.3. Sửa thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tối đa là 04 tháng thay vì 02 tháng như hiện hành; việc gia hạn thời hạn giải quyết phải được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định; bổ sung thời hạn phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tối đa không quá 01 tháng (Điều 147, Điều 149).

1.4. Kết thúc việc kiểm tra, xác minh, ngoài việc ban hành quyết định khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án như hiện hành, bổ sung quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố để tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn thời gian qua có trường hợp đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp… nhưng hết thời hạn luật định mà chưa có kết quả (Điều 148).

1.5. Để phù hợp với Luật tổ chức VKSND năm 2014, tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội, BLTTHS năm 2015 bổ sung 03 điều luật (Điều 159, 160, 161) để quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố; quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát phải giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu nhưng không được khắc phục.

2. Về điều tra vụ án hình sự (từ Chương X đến Chương XVII)

2.1. BLTTHS năm 2015 sửa theo hướng quy định chặt chẽ và cụ thể những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp trung ương để một mặt tháo gỡ vướng mắc của thực tiễn, mặt khác, phù hợp với chủ trương tăng thẩm quyền cho cấp cơ sở. Theo đó, Cơ quan điều tra cấp trung ương điều tra những vụ án sau:

- Vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại;

- Vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều quốc gia nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra.

2.2. Bổ sung và quy định cụ thể một số biện pháp điều tra (như: nhận biết giọng nói, định giá tài sản) để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn (Điều 191, các điều 215 - 222).

2.3. Nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong công tác giám định hiện nay như: giám định chậm trễ; giám định không chính xác; xung đột giữa các kết luận giám định, BLTTHS năm 2015 bổ sung các quy định như: phân nhóm các vấn đề cần trưng cầu giám định; quy định thời hạn giám định phù hợp với từng nhóm; xác định giá trị của kết luận giám định đối với việc giải quyết vụ án; giải quyết xung đột giữa các kết quả giám định. Đồng thời, bổ sung mới 8 điều luật để quy định các vấn đề cụ thể liên quan đến định giá tài sản trong tố tụng hình sự (Chương XV).

2.4. Lượng hóa cụ thể một số thời hạn tố tụng, thay cho các thời hạn quy định có tính định tính trong Bộ luật hiện hành (Ví dụ: phải gửi hoặc gửi ngay…).

2.5. Bổ sung một số trường hợp tạm đình chỉ điều tra nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn thời gian qua như: khi yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả mà đã hết thời hạn điều tra (Điều 229).

2.6. Luật hóa các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong BLTTHS để cụ thể hóa yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật…”, tạo cơ sở pháp lý để thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn đấu tranh chống tội phạm hiện nay, mở rộng nguồn chứng cứ có giá trị trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội. Cụ thể như sau:

- Về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được quy định gồm: (1) Ghi âm, ghi hình bí mật; (2) Nghe điện thoại bí mật; (3) Thu thập bí mật dữ liệu điện tử (Điều 223).

- Về các trường hợp được phép áp dụng: (1) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền; (2) Các tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (Điều 224).

- Về thẩm quyền áp dụng: xuất phát từ tính chất đặc biệt quan trọng của các biện pháp này, BLTTHS năm 2015 quy định thẩm quyền áp dụng phải do Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên ra quyết định và phải được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Quy định trách nhiệm của Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát phải kiểm tra, giám sát quá trình áp dụng các biện pháp này (Điều 225).

- Về thời hạn áp dụng: nhằm bảo đảm tính chặt chẽ trong việc quy định thời hạn áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân, đồng thời, phù hợp với đặc điểm của từng biện pháp, BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn áp dụng không quá hai tháng kể từ ngày phê chuẩn; trường hợp phức tạp có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra (Điều 226).

- Quy định công nhận là chứng cứ đối với các thông tin, tài liệu thu được nếu quá trình áp dụng các biện pháp này tuân thủ nghiêm ngặt quy định của luật. Đồng thời, quy định rõ, các thông tin thu được chỉ sử dụng vào mục đích chống tội phạm, nghiêm cấm làm ảnh hưởng đến cá nhân, công dân (Điều 227).


 PHẦN THỨ BA: TRUY TỐ

Nhằm khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn do cách quy định khái quát của Bộ luật hiện hành và bảo đảm phù hợp với Luật tổ chức VKSND năm 2014, trên cơ sở kế thừa các quy định về quyết định truy tố trong Phần thứ hai của BLTTHS hiện hành, BLTTHS năm 2015 xây dựng Phần thứ ba về truy tố, gồm 02 chương: Chương XVIII: Những quy định chung; Chương XIX: Quyết định việc truy tố bị can. Với những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu sau đây:

1.1. Nhằm bảo đảm tính rành mạch về kỹ thuật lập pháp, BLTTHS năm 2015 tách các quy định có tính chất chung cho toàn bộ giai đoạn truy tố để quy định trong Chương XVIII “Những quy định chung” với các nội dung như: (1) Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố; (2) Thủ tục tiếp nhận hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra chuyển; (3) Xác định Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố; (4) Thời hạn quyết định việc truy tố; (5) Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; (6) Những trường hợp tách, nhập vụ án.

1.2. Để nhận thức và thực hiện thống nhất pháp luật, BLTTHS năm 2015 quy định Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố là Viện kiểm sát đã thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra. Đồng thời, để xác định thẩm quyền truy tố đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố và kiểm sát trong giai đoạn điều tra, Bộ luật quy định: Viện kiểm sát cấp trên quyết định việc truy tố. Chậm nhất là 02 tháng trước khi kết thúc điều tra, Viện kiểm sát cấp trên phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án để cử Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án. Ngay sau khi quyết định truy tố, Viện kiểm sát cấp trên ra quyết định phân công cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử; sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng, Viện kiểm sát cấp dưới có thẩm quyền thực hành.

1.3. Nhằm tháo gỡ những vướng mắc của thực tiễn, tránh áp lực đối với các cơ quan tố tụng, trên cơ sở tiếp tục kế thừa các quy định hiện hành về thời hạn giao, gửi các quyết định tố tụng, BLTTHS năm 2015 bổ sung trường hợp đặc biệt, vì lý do khách quan thì thời hạn giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can, người đại diện theo pháp luật của bị can có thể kéo dài nhưng không quá 10 ngày.

1.4. Về thời hạn tạm giam bị cáo trong giai đoạn truy tố, thực hiện chủ trương chung về rút ngắn thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung và thời hạn tạm giam nói riêng, BLTTHS năm 2015 chỉ cho phép áp dụng biện pháp ngăn chặn trong thời hạn quyết định việc truy tố (không quá 30 ngày đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng; không quá 45 ngày đối với tội rất nghiêm trọng; không quá 60 ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng); rút ngắn 03 ngày so với BLTTHS năm 2003.

1.5. Nhằm tăng cường kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ, BLTTHS năm 2015 quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát cấp dưới phải gửi các quyết định tố tụng đến Viện kiểm sát cấp trên; quy định Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ các quyết định này nếu thấy không có căn cứ hoặc trái pháp luật (Điều 240).

1.6. Để bảo đảm việc tách, nhập vụ án được tiến hành chặt chẽ, tránh tùy nghi làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án, BLTTHS năm 2015 bổ sung điều luật để quy định cụ thể các trường hợp tách, nhập vụ án. Theo đó, bên cạnh việc bảo đảm các yêu cầu chung thì việc tách vụ án chỉ được tiến hành trong 3 trường hợp (Bị can bỏ trốn; Bị can mắc bệnh hiểm nghèo; Bị can bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh); đồng thời, quy định 3 trường hợp có thể nhập vụ án (Bị can phạm nhiều tội; Bị can phạm tội nhiều lần; Nhiều bị can cùng tham gia một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm, tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội mà có (Điều 242).

1.7. Nhằm bảo đảm việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung được tiến hành chặt chẽ, tránh lạm dụng kéo dài thời gian tố tụng, BLTTHS năm 2015 bổ sung điều luật để quy định cụ thể các căn cứ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung; trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu của Viện kiểm sát nêu trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 245). Đồng thời, nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án được khẩn trương, BLTTHS quy định trường hợp Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, nếu xét thấy có thể bổ sung chứng cứ, tài liệu thì Viện kiểm sát trực tiếp bổ sung mà không nhất thiết phải trả cho Cơ quan điều tra (Điều 246).

1.8. Để thuận lợi cho thực tiễn áp dụng, BLTTHS năm 2015 xây dựng 03 điều luật để quy định rõ hơn căn cứ Viện kiểm sát ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án và quyết định phục hồi vụ án; xác định cụ thể trách nhiệm, thủ tục và thời hạn khi thực hiện các thẩm quyền này (các điều 247, 248, 249).


PHẦN THỨ TƯ: XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

BLTTHS năm 2015 xây dựng Phần thứ tư gồm có 03 chương (chương những quy định chung; chương xét xử sơ thẩm; chương xét xử phúc thẩm). Phần nay liên quan trực tiếp đến hoạt động của Tòa án, Tôi xin được đi cụ thể hơn:

1. Về những quy định chung (Chương XX)

1.1. Về bổ sung Chương mới quy định chung về xét xử (Chương XX)

BLTTHS năm 2015 xây dựng Chương những quy định chung, nhằm tạo điều kiện tách các quy định có tính chất chung cho cả xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm để điều chỉnh chung trong chương này, tránh trùng lặp. Cụ thể gồm các quy định: Thành phần Hội đồng xét xử; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Biên bản phiên tòa; Biên bản nghị án; Bản án; Giao, gửi bản án. Trong đó, quy định cụ thể nội dung của bản án, quyết định, các văn bản tố tụng và trách nhiệm của Tòa án trong việc giao, gửi bản án, quyết định, các văn bản tố tụng cho những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Đồng thời, mở rộng diện chủ thể được nhận các bản án, quyết định của Tòa án gồm cả bị hại, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án dân sự, trại tạm giam, trại giam nơi đang giam giữ bị cáo.



1.2. Về nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục và quy định về tạm ngừng phiên tòa (Điều 250, Điều 251)

BLTTHS năm 2015 tiếp tục khẳng định nguyên tắc xét xử liên tục, đồng thời, bổ sung quy định về tạm ngừng phiên tòa trong trường hợp (cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa; do tình trạng sức khỏe, do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa) để phù hợp với thực tiễn, bảo đảm đồng bộ với Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính. Về thời hạn tạm ngừng phiên tòa được quy định không quá 05 ngày.



1.3. Về các biện pháp Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ (Điều 252)

BLTTHS năm 2015 quy định Tòa án tiến hành việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ thông qua 05 hoạt động:  (1) Tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; (2) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; (3) Xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa; (4) Xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án; (5) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản ngoài những trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, định giá tài sản quy định tại Điều 206 và Điều 221 của Bộ luật này; trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản.



1.4. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử (Điều 266, Điều 267)

Trên cơ sở quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014, Bộ luật bổ sung 2 điều luật quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và khi kiểm sát xét xử.



2. Về xét xử sơ thẩm (Chương XXI)

2.1. Thẩm quyền xét xử của Tòa án (Điều 268)

Để phù hợp với thực tiễn và trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản hướng dẫn hiện hành, BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu đối với các vụ án: (1) Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài; (2) Những vụ án tuy thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; những vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.



2.2. Về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự và việc xét xử bị cáo phạm nhiều tội thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự (Điều 272, Điều 273)

Thực hiện nghị quyết của Quốc hội triển khai thi hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự gồm: (1) Vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân đội; (2) Vụ án có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm của những người nêu trên hoặc gây thiệt hại đến tài sản được Quân đội cấp cho những người này để thực hiện nhiệm vụ quân sự hoặc gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội hoặc phạm tội trong doanh trại quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội quản lý, bảo vệ.

BLTTHS năm 2015 phân định rõ thẩm quyền xét xử của Tòa án trong trường hợp bị cáo vừa phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, vừa phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Theo đó, trường hợp có thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự; Tòa án nhân dân xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân; trường hợp không thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án.

2.3. Về chuyển vụ án (Điều 274)

Nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng thời gian qua, BLTTHS năm 2015 sửa đổi quy định về trình tự, thủ tục chuyển vụ án khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì Tòa án trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố để Viện kiểm sát này hủy bỏ quyết định truy tố và chuyển vụ án đến Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố.

Trường hợp thấy vụ án vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đã trả hồ sơ thì Viện kiểm sát chuyển lại hồ sơ vụ án đến Tòa án kèm theo văn bản nêu rõ lý do. Nếu Tòa án xét thấy vụ án vẫn không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì tiến hành giải quyết tranh chấp theo Điều 275.

2.4. Về trả hồ sơ để điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ; và Tòa án xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ (Điều 280)

Nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, bảo đảm tính cụ thể của BLTTHS, BLTTHS năm 2015 cụ thể hóa các căn cứ Tòa án trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung trên cơ sở pháp điển hóa quy định của Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 27/8/2010 đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp.



2.5. Về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử

Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử công bằng, BLTTHS năm 2015 quy định: Ngoài cơ quan tố tụng có quyền thu thập chứng cứ như hiện nay, bổ sung người bị buộc tội và người bào chữa có quyền thu thập, cung cấp chứng cứ (các điều 58, 59, 60, 61, 73); Quy định người bị buộc tội, người bào chữa có quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Bổ sung quy định về trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng trước khi mở phiên tòa như: yêu cầu cung cấp, bổ sung chứng cứ; yêu cầu triệu tập người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa (Điều 279); Bổ sung quy định khi phát hiện quá trình khởi tố, điều tra, truy tố không bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thì Tòa án không mở phiên tòa, trả hồ sơ để Viện kiểm sát khắc phục vi phạm (Điều 280); Quy định chặt chẽ sự có mặt của bị cáo, người bào chữa tại phiên tòa (Điều 290, 291); Đổi mới trình tự và trách nhiệm xét hỏi theo hướng việc xét hỏi trước tiên phải thuộc về chủ tòa phiên tòa, sau đó chủ tọa quyết định ai hỏi trước, ai hỏi sau mà không tuân theo trình tự xét hỏi như Bộ luật hiện hành (Điều 307); bị cáo có quyền trực tiếp đặt câu hỏi với các bị cáo khác nếu được Chủ tọa đồng ý thay vì chỉ có quyền đề nghị Chủ tọa hỏi như hiện nay (Điều 309); Khẳng định rõ nguyên tắc bản án, quyết định của Tòa án chỉ được căn cứ trên cơ sở kết quả thẩm vấn, tranh tụng và những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa (Điều 26).



2.6. Về giới hạn xét xử (Điều 298)

Để bảo đảm sự độc lập của Tòa án trong xét xử, bảo đảm phán quyết của Tòa án phải trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định: Trường hợp thấy cần xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.



2.7. Về bảo đảm quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định

Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về bảo đảm quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án thay vì từ ngày phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa như hiện nay (Điều 277). Bổ sung một số thời hạn nhằm bảo đảm mọi hoạt động tố tụng phải bị ràng buộc về thời hạn như thời hạn nghị án là 07 ngày, kể từ ngày kết thúc tranh luận tại phiên tòa (Điều 326). Cụ thể hóa một số thời hạn có tính định tính trong Bộ luật hiện hành bằng các thời hạn cụ thể (là 24 giờ hoặc 03 ngày kể từ khi ra quyết định), tùy thuộc vào loại quyết định và đối tượng được nhận quyết định như: Tòa án gửi quyết định phân công thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định.



3. Về xét xử phúc thẩm (Chương XXII)

3.1. Về người có quyền kháng cáo và thủ tục kháng cáo, nhận và xử lý đơn kháng cáo (các điều 27, 331, 332)

Để bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, BLTTHS năm 2015 bổ sung người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người dưới 18 tuổi có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ (Điều 331). Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm, thủ tục của Ban giám thị trại tạm giam nơi đang giam giữ bị cáo và Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm trong việc nhận, xử lý đơn kháng cáo của bị cáo, bị hại, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác (Điều 332).



3.2. Về kháng cáo quá hạn (Điều 335)

Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp người tham gia tố tụng, phù hợp với các quy định của luật tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, BLTTHS năm 2015 sửa đổi quy định về xử lý đơn kháng cáo quá hạn, cụ thể: trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên họp để xem xét kháng cáo quá hạn với Hội đồng gồm ba Thẩm phán và phải có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp.



3.3. Về Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm (Điều 344)

Trên cơ sở quy định về thẩm quyền của 04 cấp Tòa án trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, BLTTHS năm 2015 quy định Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của Toà án nhân dân cấp huyện; Toà án nhân dân cấp cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ; Toà án quân sự quân khu và tương đương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của Toà án quân sự khu vực; Toà án quân sự trung ương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của Toà án quân sự quân khu và tương đương.



3.4. Về thụ lý, chuẩn bị xét xử phúc thẩm (các điều 340, 341, 346, 348, 349, 350, 351)

Để phúc đáp yêu cầu của thực tiễn, BLTTHS năm 2015 bổ sung các điều luật quy định về thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm; chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để nghiên cứu; Quy định rõ các quyết định của Tòa án được ban hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm như quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm cũng như căn cứ, trình tự, thủ tục, thời hạn ra các quyết định này; Bổ sung quy định về sự có mặt của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm.



3.5. Về thủ tục phiên tòa, phiên họp phúc thẩm (Điều 354, Điều 362)

BLTTHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung thủ tục phiên tòa phúc thẩm và phiên họp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo hướng cụ thể, đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử và thống nhất với cách xử lý trong Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính.



3.6. Về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm (các điều 356 - 359)

BLTTHS năm 2015 bổ sung một số thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm nhằm khắc phục vướng mắc hiện nay do Tòa án cấp phúc thẩm không có đầy đủ thẩm quyền trong việc hủy, sửa bản án sơ thẩm nên phải kiến nghị Tòa án cấp trên kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, làm kéo dài vụ án không cần thiết.


PHẦN THỨ SÁU: XÉT LẠI BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH

ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT

1. Về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm (Chương XXV, XXVI)

1.1. Về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm (Điều 371, Điều 372)

Thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, BLTTHS năm 2015 quy định chặt chẽ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, theo đó, chỉ kháng nghị giám đốc thẩm khi thuộc một trong ba trường hợp sau đây: (1) Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; (2) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố hoặc xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; (3) Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Thực tế thời gian qua, việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm với căn cứ “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử” thường gắn thêm hậu quả “mà vi phạm này dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án”. Nếu có vi phạm thủ tục tố tụng nhưng bản án vẫn bảo đảm có căn cứ và đúng pháp luật thì việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm cũng không cần thiết. Ngoài ra, trong thực tiễn khi có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật khác (ngoài Bộ luật hình sự) dẫn đến việc ra bản án sai cũng là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục này.

BLTTHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm làm rõ trách nhiệm của Tòa án, Viện kiểm sát trong công tác giám đốc, kiểm sát việc xét xử, theo đó khi Tòa án thực hiện công tác giám đốc việc xét xử, Viện kiểm sát kiểm sát việc xét xử hoặc qua các nguồn thông tin khác mà phát hiện thấy những vi phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì thông báo ngay bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.



1.2. Về thẩm quyền giám đốc thẩm và thành phần Hội đồng giám đốc thẩm (Điều 373, Điều 382)

Để thống nhất với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, BLTTHS năm 2015 quy định Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao, Toà án quân sự trung ương bị kháng nghị; Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực; Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. Quy định thành phần Hội đồng giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao (Hội đồng gồm 03 Thẩm phán và Hội đồng toàn thể); thành phần Hội đồng giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Hội đồng gồm 05 Thẩm phán và Hội đồng toàn thể). Đồng thời, quy định cụ thể phạm vi, thẩm quyền xét xử của các Hội đồng này.



1.3. Về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm (Điều 388)

Ngoài ba thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm trong Bộ luật hiện hành, BLTTHS năm 2015 bổ sung: (1) Thẩm quyền hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa cho đồng bộ với thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm dân sự, hành chính; (2) Thẩm quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để phù hợp với thực tiễn giám đốc thẩm thời gian qua, có những trường hợp chứng cứ đã rõ ràng, có thể khắc phục ngay mà không nhất thiết hủy án để điều tra lại, làm kéo dài thời hạn tố tụng.



2. Về thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Chương XXVII)

BLTTHS năm 2015 bổ sung thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bởi vì trên thực tế, qua hoạt động giám sát của Quốc hội đã phát hiện có trường hợp quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vẫn có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, cần phải được xem xét lại. Trong Chương này của Bộ luật quy định rõ về những người có thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; thành phần tham dự phiên họp để xem xét kiến nghị, đề nghị; thủ tục, thời hạn mở phiên họp và thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; thông báo kết quả phiên họp xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Bổ sung thủ tục này cũng bảo đảm đồng bộ với Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính.
PHẦN THỨ BẢY: THỦ TỤC ĐẶC BIỆT

Ngoài 04 thủ tục đặc biệt trong Bộ luật hiện hành (thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên; thủ tục áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; thủ tục rút gọn; khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự), BLTTHS năm 2015 bổ sung 03 thủ tục đặc biệt: (1) Thủ tục bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và những người tham gia tố tụng khác để kịp thời bảo vệ họ khi có nguy cơ bị đe dọa tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản; (2) Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân để đồng bộ với Bộ luật hình sự (sửa đổi); (3) Thủ tục xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự.


Đội Pháp chế PV11 Công an tỉnh



Каталог: images -> documents
documents -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
documents -> CỤC ĐĂng kiểm việt nam
documents -> QuyếT ĐỊnh của thủ TƯỚng chính phủ SỐ 276/2006/QĐ-ttg ngàY 4 tháng 12 NĂM 2006 VỀ giá BÁN ĐIỆn thủ TƯỚng chính phủ
documents -> Nghị ĐỊnh số 47/2010/NĐ-cp ngàY 06 tháng 05 NĂM 2010 CỦa chính phủ quy đỊnh xử phạt hành chính về HÀNH VI VI phạm pháp luật lao đỘNG
documents -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc BÁo cáo hoạT ĐỘng y tế CƠ SỞ
documents -> Số hồ sơ: /vslđ HỒ SƠ VỆ sinh lao đỘNG
documents -> Mẫu (Form) nc13 Ban hành kèm theo Thông tư số 31/2015/tt-bca
documents -> THÔng tư CỦa bộ CÔng thưƠng số 10/2008/tt-bct ngàY 25 tháng 7 NĂM 2008
documents -> BỘ lao đỘng-thưƠng binh và XÃ HỘI
documents -> NghÞ ®Þnh cña ChÝnh phñ Sè 67/2001/N§-cp ngµy 01 th¸ng 10 n¨m 2001 Ban hµnh c¸c danh môc chÊt ma tuý vµ tiÒn chÊt

tải về 274.98 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương