Biểu đồ 3:
Nguồn: UNDP. Báo cáo quốc gia về phát triển con người 2011, tr181
Tưởng chừng khi so sánh các chỉ tiêu HDI giữa ĐBSCL với các vùng lại trong cả nước (xem lại bảng số liệu 3) thì chỉ có vấn đề giáo dục là bất cập. Nhưng khi nhìn lại, so sánh chỉ số GDP với mức sống của người dân ta thấy rõ sự chênh lệch, theo đó, mặc dù là vùng có GDP tương đối cao nhưng ĐBSCL lại là nơi có mức sống rất thấp.[4]
Vùng
|
Mức sống
|
Không có điện dùng làm nguồn thắp sáng chính
|
Nguồn nước không an toàn hoặc bị ô nhiễm
|
Điều kiện vệ sinh không đảm bảo
|
Nhà vệ sinh không đạt tiêu chuẩn
|
Nhà tạm
|
Thiếu tài sản
|
Cả nước
|
2.80
|
10.61
|
67.89
|
35.67
|
12.71
|
3.40
|
Trung du miền núi phía Bắc
|
11.70
|
24.23
|
87.31
|
54.99
|
15.20
|
7.42
|
ĐB sông Hồng
|
0.31
|
1.16
|
46.22
|
14.56
|
1.37
|
1.65
|
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung
|
1.13
|
8.11
|
74.97
|
31.55
|
6.05
|
3.77
|
Tây Nguyên
|
3.22
|
17.72
|
80.47
|
54.16
|
13.45
|
3.33
|
Đông Nam Bộ
|
1.25
|
2.18
|
41.41
|
12.09
|
8.38
|
1.28
|
ĐB sông Cửu Long
|
2.77
|
19.42
|
87.49
|
63.50
|
34.63
|
3.94
|
Bảng 4: Tỷ lệ dân số thiếu hụt mức sống ở các mặt (%)
Nguồn: UNDP. Báo cáo quốc gia về phát triển con người 2011, tr.228
So sánh các chỉ tiêu mức sống của 6 vùng cho thấy, về chỉ tiêu không có điện dùng làm nguồn thắp sáng chính thì khu vực ĐBSCL chỉ hơn vùng Tây Nguyên và Trung du miền núi phía Bắc. Về nguồn nước không an toàn hoặc bị ô nhiễm và thiếu tài sản thì ĐBSCL chỉ hơn Trung du miền núi phía Bắc. Về 3 tiêu chí: điều kiện vệ sinh không đảm bảo, nhà vệ sinh không đạt tiêu chuẩn và nhà tạm thì khu vực ĐBSCL xếp sau cùng.
Nếu tính theo tỷ lệ dân số thì với con số 39.8% đã đưa khu vực ĐBSCL trở thành khu vực có tỷ lệ người thiếu hụt mức sống lớn nhất trong 6 vùng của Việt Nam:
Biểu đồ 4: Tỷ lệ người bị thiếu hụt mức sống (%)
Nguồn: UNDP. Báo cáo quốc gia về phát triển con người 2011, tr. 215
Không những vậy, tuy không nghèo đói về tiền tệ (về nghèo đói tiền tệ khu vực Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, Tây Nguyên là 3 vùng có chỉ số thấp nhất) nhưng ĐBSCL còn là vùng có tỷ lệ Nghèo đói đa chiều và sát mức nghèo đói chiều lớn nhất.
Biểu đồ 5: Nghèo đói đa chiều và nghèo đói tiền tệ 2008 (%)
Nguồn: UNDP. Báo cáo quốc gia về phát triển con người 2011, tr.21
Có thể nhìn thấy GDP cao nhưng không đồng nghĩa với mức sống cao, GDP cao có thể là thành quả do nhóm người, một nghành, một lĩnh vực mang lại. Nếu tính thu nhập bình quân của người lao động làm công ăn lương/tháng thì thực chất ở ĐBSCL thấp hơn nhiều, nếu như không muốn nói là thấp nhất trong 6 vùng kinh tế - xã hội.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |