Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên Quyển 1 印光 法 師文 鈔 參 編 卷 一



tải về 2.21 Mb.
trang28/29
Chuyển đổi dữ liệu10.03.2018
Kích2.21 Mb.
#36455
1   ...   21   22   23   24   25   26   27   28   29

8) Thác Sự Hiển Pháp Sanh Giải Môn (nhờ vào sự để hiển lộ pháp khiến cho người học lãnh hội): Lý thâm diệu có thể nhờ vào sự gần gũi tầm thường để hiển lộ; nhưng sự vật được mượn để hiển lý và lý được hiển ấy không hai, không khác. Chẳng hạn nhìn lá rơi, hoa tàn mà ngộ lẽ sanh diệt hoặc Thập Nhị Nhân Duyên; hoặc chúng sanh cõi Cực Lạc nhìn vào cây Bồ Đề sẽ liền chứng ba thứ Vô Sanh Nhẫn.

9) Thập Thế Cách Pháp Dị Thành Môn (mười đời khác biệt nhưng đều cùng thành tựu): quá khứ, vị lai, hiện tại, trong ba đời ấy mỗi đời đều chia thành ba đời nữa, ba lần ba thành chín, chín đời ấy cũng chỉ trong một niệm nên gọi là Thập Thế (mười đời). Mười đời ấy tuy gián cách về thời gian, nhưng đều dung nhập lẫn nhau không xen hở.

10) Chủ Bạn Viên Minh Cụ Đức môn (chủ lẫn bạn đều cùng đầy đủ phẩm đức tròn sáng): Các hiện tượng duyên khởi tương quan, lấy một pháp làm chủ thì hết thảy các pháp còn lại là bạn, lần lượt làm chủ, làm bạn không xen hở.


90 Tức ông Hoàng Hàm Chi, pháp danh là Trí Hải.

91 Pháp sư Đế Nhàn chê những kẻ chú giải kinh điển trong thời ấy do thiếu thực học thường tỏ vẻ thông thái bằng cách viết cầu kỳ bí hiểm khiến người đọc sa vào mê lộ, với dụng ý khen ngợi bản tiên chú của ông Đinh Phước Bảo gãy gọn, đơn giản, dễ hiểu, thiết thực. Nhưng ông Đinh Phước Bảo lại dẫn lời ông Kỷ Đại Khuê chê bai Tổ Thanh Lương khiến cho lời khen của pháp sư Đế Nhàn bị phản tác dụng.

92 Theo Tam Kiếp Tam Thiên Phật Danh Kinh, trong thế giới Sa Bà, trong kiếp Đại Trang Nghiêm (quá khứ), kiếp Hiền (hiện tại) và kiếp Tinh Tú, mỗi kiếp có một ngàn đức Phật ra đời. Hiện nay là kiếp Hiền.

93 Thập Lực (Daśa Balāni), gọi đủ là Thập Chủng Trí Lực, còn gọi là Thập Thần Lực, tức là mười món trong mười tám pháp bất cộng của Phật (gọi là Bất Cộng vì chỉ chư Phật mới có, ngay cả hàng Đẳng Giác Bồ Tát cũng không có những lực này) gồm:

1) Xứ phi xứ trí lực: Xứ có nghĩa là đạo lý, tức là Như Lai đối với nhân duyên, quả báo đều biết rõ tường tận, chẳng hạn như thiện sẽ được hưởng thiện báo ra sao. Đấy là “tri thị xứ” (biết chỗ đúng). Nếu làm ác mà lại hưởng lạc báo thì không thể nào như vậy được, đấy gọi là “tri phi xứ” (biết chỗ đúng). Mọi điều như vậy đều cùng biết rõ.

2) Dị nghiệp thục trí lực (tri nghiệp báo trí lực): Như Lai biết tường tận nghiệp duyên, quả báo, chỗ sẽ sanh về của hết thảy các chúng sanh trong quá khứ, hiện tại, vị lai.

3) Tịnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực: Như Lai tự tại vô ngại nơi các Thiền Định, thứ tự sâu cạn của các món Thiền Định không gì chẳng biết rõ.

4) Căn thượng hạ trí lực (hay Tri chúng sanh thượng hạ căn trí lực): Đức Như Lai biết rõ rành rẽ căn tánh chúng sanh là lợi căn hay hạ căn, đắc quả lớn hay nhỏ.

5) Chủng chủng thắng giải trí lực: Đức Như Lai biết chúng sanh đủ mọi ưa muốn, thiện ác khác nhau, thấy biết trọn khắp đúng như thực.

6) Chủng chủng giới trí lực: Đức Như Lai đúng như thực biết trọn khắp đủ mọi phạm vi giới hạn của các chúng sanh giới.

7) Biến thú hành trí lực: Trong lục đạo hữu lậu, đức Như Lai biết tường tận những kẻ đi trong hữu lậu lục đạo sẽ về đâu, biết người đi trong Niết Bàn vô lậu sẽ về đâu.

8) Túc trụ tùy niệm trí lực: Đức Như Lai biết túc mạng của hết thảy chúng sanh trong vô lượng vô biên kiếp.

9) Sanh tử trí lực: Do thiên nhãn đức Như Lai biết rõ đúng sự thực lúc chết, lúc sống của chúng sanh cũng như các nghiệp chướng, quả báo trong những kiếp số ấy.



10) Lậu tận trí lực: Đức Như Lai vĩnh viễn trừ sạch các lậu, tập khí, đúng như thực biến trọn khắp các lậu, các tập khí của chúng sanh.

94 Đây là tên những con số theo lối đếm thời cổ, do không có chữ tương đương nên chúng tôi chỉ phiên âm tên gọi, chúng được liệt kê theo nguyên tắc số sau lớn gấp mười lần số trước.

95 Vô lượng của hữu lượng: Nghĩa là con số vô lượng ấy vẫn có thể tính đếm được, vì Vô Lượng là một trong 140 con số được kể trong phẩm A Tăng Kỳ, tuy rất lớn vẫn có thể tính được. Vô lượng của vô lượng nghĩa là một con số cực lớn, không hạn lượng, không cách nào tính đếm hình dung được.

96 Vị Chương Gia Lạt Ma được nói ở đây là vị Chương Gia Hô Đồ Khắc Đồ đời thứ ba, có tên là Nhã Tất Cát Đa (1716-1786).

97 Phiên là từ ngữ chỉ chung các sắc dân sống ở phía Tây Trung Hoa, nhưng ở đây được dùng để chỉ chữ Tây Tạng.

98 Do chữ Phạn đa âm trong khi tiếng Hán đơn âm nên đôi khi phải dùng nhiều chữ Hán để mô phỏng âm đọc một chữ Phạn. Chẳng hạn trong bài chú Nhất Thiết Như Lai Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn, để diễn tả cách đọc chữ Sdriya (âm Phạn chỉ có hai âm), bản tiếng Hán đã phải dùng đến bốn chữ “tất đát rị dã” và ghi chú nhỏ bên cạnh, “hợp tam”, tức là khi đọc phải dồn cả ba chữ đầu thành một chữ, đừng đọc tách rời ra). Do không có âm tương ứng, ngay cả cách đọc thần chú của người Tây Tạng cũng không diễn tả trung thành Phạn âm; ví dụ như họ đọc Vajra thành Ben-za. Người Mông Cổ hầu như không phát âm được âm H nên họ đọc Aum Mani Padme Hum thành Um Ma Ni Pe Me Khun. Tuy thế, tín tâm là quan trọng nhất, dẫu chú đọc không đúng âm, nhưng hành nhân thọ trì với niềm tin mãnh liệt, giữ giới thanh tịnh sẽ được cảm ứng. Chúng tôi đã từng nghe một đạo hữu kể là vị ấy rất siêng trì chú Đại Bi, cũng đạt được một số cảm ứng. Sau này, khi đọc sách Mật Tông bằng tiếng Anh, liền chuyển sang trì tụng theo đúng âm tiếng Phạn theo kiểu Latin hóa thì do tâm phân biệt sợ âm đọc sai sót, đã không còn nhiếp tâm được nữa. Khi trở lại trì chú Đại Bi theo cách phiên âm thông dụng theo tiếng Hán thì do tâm đã khởi lên phân biệt, cũng không hề được cảm ứng gì!

99 Tức bài “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã…” trong kinh Kim Cang.

100 Để dễ theo dõi lời phê bình của Tổ Ấn Quang, chúng tôi xin trích dẫn nguyên văn đoạn kinh ấy như sau: “Hữu nhân hoạn dâm bất chỉ, dục tự đoạn âm. Phật vị chi viết: ‘Nhược đoạn kỳ âm, bất như đoạn tâm. Tâm như công tào, công tào nhược chỉ, tùng giả đô tức. Tà tâm bất chỉ, đoạn âm hà ích?” (Có người mắc thói dâm dục không ngăn dứt được, muốn tự cắt bộ phận sinh dục. Đức Phật bảo với người ấy: “Nếu cắt bộ phận sinh dục thì chẳng bằng đoạn dứt cái tâm. Tâm như người thống lãnh, nếu ngăn được người thống lãnh thì những kẻ đi theo đều ngưng nghỉ. Tà tâm chẳng ngưng dứt, cắt bộ phận sinh dục có ích gì?”)

101 Nhân Hiếu Văn Hoàng Hậu chính là vợ chánh của Minh Thành Tổ (Châu Lệ), họ Từ, quê ở Hào Châu, là con gái của khai quốc công thần Từ Đạt. Bà được vua Minh Thái Tổ hỏi cưới cho hoàng tử Yên Vương Châu Lệ năm 15 tuổi. Bà nổi tiếng là người nhân đức, ôn hòa, hiếu hạnh, rất được lòng Mã Thái Hậu. Khi Yên Vương làm phản đoạt ngôi của anh là Kiến Văn Đế (Châu Doãn Văn), xưng đế, lấy niên hiệu là Vĩnh Lạc, bà được phong làm Hoàng Hậu. Bà mất năm Vĩnh Lạc thứ năm (1407), thọ được 46 tuổi. Vua hết sức thương tâm, không bao giờ lập Hoàng Hậu nữa, phong tặng bà thụy hiệu Nhân Hiếu Từ Ý Thành Minh Trang Hiến Phối Thiên Tề Thánh Văn Hoàng Hậu.

102 Vị dịch Phạn văn sẽ cầm nguyên bản tiếng Phạn đọc lên cho những người cùng dịch dò theo những bản Phạn vốn có để đảm bảo không bị sai sót thiếu tiếng Phạn nào trong nguyên bản, vị Dịch Ngữ sẽ dịch những câu ấy sang tiếng Hán cho vị Bút Thọ chép lại. Vị Hồi Xuyết sẽ kiểm bản dịch nháp ấy để sửa đổi thứ tự cho đúng với cú pháp tiếng Hán. Vị Chứng Nghĩa sẽ kiểm nhận bản dịch trung thành với nguyên bản, không diễn tả sai lạc ý kinh luật luận, đồng thời thêm vào những chỗ người dịch ngữ đã bỏ sót hay sửa đổi những câu văn dịch tối nghĩa. Vị Nhuận Văn gọt giũa lời văn sao cho bóng bẩy, trang nhã, nhưng không mất ý nghĩa hoặc thay đổi ý nghĩa của lời dịch ban đầu. Do đó, vị Nhuận Văn vừa phải có tài văn chương vừa thông hiểu kinh điển.

103 Bộ ở đây có nghĩa là thể loại, thể tài. “Thập Nhị Bộ Kinh” tức mười hai thể loại thường được dùng trong kinh Phật.

104 Bản kinh được nhắc đến ở đây vốn có tên là Vị Tằng Hữu Nhân Duyên Kinh.

105 Bộ Hợp Chú được nói ở đây chính bộ Phạm Võng Kinh Hợp Chú (bảy quyển) do Tổ Ngẫu Ích viết. Tác phẩm này có tên đầy đủ là Phạm Võng Kinh Tâm Địa Phẩm Hợp Chú. Sách được ngài Đạo Phưởng giảo chánh và cho in vào năm Sùng Trinh thứ 10 (1637). Bản chú giải này rất đặc sắc, được coi như bản chú giải kinh Phạm Võng độc đáo nhất do Tổ chú trọng đến Vô Tác Giới Thể. Ngài đưa ra bảy ý nghĩa của giới thể (Tánh, Nhân, Duyên, Thể, Tướng, Kỳ, Quả), lập ra mười môn để giải thích giới tướng: Tùy văn thích nghĩa (dựa theo kinh văn giải thích ý nghĩa), tánh giá trọng khinh (phân định giới tướng ấy là tánh giới hay giá giới, nặng hay nhẹ), thất chúng giản liệu (phân định giới ấy tùy theo bảy chúng, tức là người phạm giới sẽ bị kết tội nặng hơn nếu là chúng xuất gia), đại tiểu đồng dị (sự khác biệt giữa giới tướng Đại Thừa và Tiểu Thừa), thiện thức khai giá (khéo biết mở, đóng, tức biết luận theo lý, theo sự để biện định có phạm giới hay là không), dị thục quả báo (quả báo sẽ kết thành sớm hay muộn), quán tâm lý giải, sám hối hành pháp, tu chứng sai biệt và tánh ác pháp môn. Khi giảng kinh Phạm Võng tại Bồ Đề Lan Nhã (Sài Gòn) vào năm 1968, pháp sư Diễn Bồi đã dựa chủ yếu vào lối diễn giải của Tổ Ngẫu Ích để giảng giải. Bài giảng kinh Phạm Võng của hòa thượng Diễn Bồi đã được hòa thượng Trí Minh dịch sang tiếng Việt với nhan đề Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký.

106 Ở đây, khi rút gọn lời trích từ bản Phạm Võng Kinh Hợp Chú, ông Đinh Phước Bảo đã viết sai chữ Mâu (矛: cái mâu, cái giáo) thành chữ Dữ (予: cho).

107 Mục Chương A (1782-1856), tự là Tử Phác, hiệu Hạc Phưởng, thuộc cánh quân Cờ Viền Lam của quân đội Mãn Châu. Đỗ Tiến Sĩ năm Gia Khánh thứ 10 (1805), giữ nhiều chức vụ quan trọng, được cử vào Quân Cơ Xứ dưới thời Đạo Quang. Do khéo nịnh nọt nhà vua, nên được phong chức Tào Vận Tổng Đốc, coi về thủy binh và giao thông đường thủy nhiều tỉnh Bắc Trung Hoa. Khi cuộc chiến tranh Nha Phiến nổ ra, để lấy lòng vua, họ Mục đã quy tội và cách chức các vị trung thần như Lâm Tắc Từ, Đặng Đình Trinh. Khi Hàm Phong lên ngôi, vua xét án cũ, tái sử dụng Lâm Tắc Từ, đồng thời kết tội Mục Chương A “bảo vệ địa vị, tham đắm vinh hoa, hại người hiền, phá đất nước” đuổi về làm dân, vĩnh viễn không được tham gia triều chánh. Về sau, họ Mục bị bệnh chết.

108 Những bản kinh mang tên Bát Nhã trước thời ngài Huyền Trang chỉ là các hội hoặc một phần của các hội trong kinh Đại Bát Nhã, chẳng hạn hội thứ 10 Bát Nhã Lý Thú Phần, đã được ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch với tên gọi là Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật Kinh, ngài Kim Cang Trí dịch là Kim Cang Đảnh Du Già Lý Thú Bát Nhã Kinh, ngài Bất Không dịch là Đại Nhạo Kim Cang Bất Không Tam Ma Da Kinh….

109 Trong lá thư gởi cho cư sĩ X… của Ấn Quang Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên, quyển một, Tổ Ấn Quang đã dẫn lời nhận định của ông Kỷ Văn Đạt (Kỷ Quân): “Cầu cơ đa phần là linh quỷ giả vờ. Tôi cùng anh là Thản Nhiên hầu cơ bút, tôi làm được thơ nhưng viết chữ xấu. Khi tôi hầu cơ bút thì thi từ mẫn tiệp, chữ viết nguệch ngoạc. Thản Nhiên hầu cơ bút thì thi từ tầm thường, chữ viết ngay ngắn, cứng cỏi. Quỷ giả mạo cổ nhân, hỏi đến những điều bí hiểm, sâu kín trong những tác phẩm của cổ nhân, bèn bảo niên đại quá lâu, không còn nhớ được. Do vậy, biết không phải là thật!“

110 Tông là những điều được đề cao trong một bộ kinh, tức giáo pháp chủ yếu của một bộ kinh.

111 Đăng Địa: bậc Bồ Tát đã chứng từ Sơ Địa trở lên, Đăng Trụ: Bậc Bồ Tát đã chứng từ Sơ Trụ trở lên.

112 Đây là thành ngữ “thác tha sơn chi ngọc’ (mượn hòn đá nơi núi khác để làm ngọc) nhằm tỏ ý khiêm tốn, những ý kiến đóng góp của mình vừa thô kệch vừa thiếu giá trị.

113 Ý nói đem hỏa thiêu hết, vì theo Dịch Học, hai thiên can Bính Đinh thuộc hành Hỏa, nên thần lửa cũng thường gọi là Bính Đinh Đồng Tử.

114 Thần Châu là danh xưng để gọi Trung Hoa đã có từ thời cổ. Tương truyền, vào thời cổ đại, có hai vị vua là Hoàng Đế và Viêm Đế, lãnh thổ của Hoàng Đế được gọi là Thần Châu, lãnh thổ của Viêm Đế gọi là Xích Huyện. Về sau, Hoàng Đế đánh bại Viêm Đế, sát nhập lãnh thổ của Viêm Đế vào Thần Châu. Do vậy, người Hoa vẫn tự gọi mình là Viêm Hoàng Tử Tôn (con cháu Viêm Hoàng) và gọi đất nước Trung Hoa là Thần Châu.

115 Đề Hồ (Manda) là một món ăn ngon được tinh luyện từ sữa, là vị tinh thuần nhất trong năm thứ vị ngon được chế biến từ sữa (tức sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ). Do món này ngon nhất nên trong kinh thường dùng để ví với Niết Bàn, Phật Tánh v.v…. Theo suy luận thông thường, có lẽ Đề Hồ tương ứng với phó-mát (cheese) hiện thời. Ở Trung Hoa còn có một món ăn cũng được gọi là Đề Hồ chế biến bằng cách đun nóng sữa tươi riu riu cho đến khi chất kem và chất béo trong sữa đọng thành váng trên mặt. Hớt lấy váng đó cùng chất dầu trong sữa đựng trong chén để nguội gọi là Đề Hồ. Xưa kia, món này được coi là một món ăn quý, chỉ có giai cấp quyền quý mới được ăn.

116 Tỳ Sương là oxide Thạch Tín (Arsenic) rất độc, còn gọi là Nhân Ngôn, ăn vào người bị trúng độc hộc máu, giẫy dụa, co quắp rất đau đớn trước khi chết. Do chất này không có mùi vị, nên người bị hãm hại khó thể nhận biết được.

117 Cuốn này có tên đầy đủ là Đại Tạng Tập Yếu Mục Lục được Kim Lăng Khắc Kinh Xứ ấn hành vào năm 1866, nội dung giới thiệu danh mục những tác phẩm trọng yếu trong Tam Tạng kinh Hán truyền. Đồng thời, đối với mỗi tác phẩm giới thiệu những nội dung tư tưởng chánh yếu của bộ kinh sách ấy.

118 Huệ Mạng Kinh là một cuốn kinh của Đạo Giáo chuyên xuyên tạc những câu kinh Phật để chứng tỏ pháp luyện đan, tu tiên do Liễu Hoa Dương soạn ra vào cuối đời Minh. Họ Liễu thuở nhỏ đã từng vào chùa tu, nên thường tự xưng là Liễu Hoa Dương Thiền Sư. Về sau, gặp được đạo sĩ Ngũ Xung Hư bèn “hoát nhiên khai ngộ”, từ đó tận lực hoằng dương cái gọi là Tiên Phật Hiệp Tông, tức là xuyên tạc, cắt xén kinh văn Phật giáo để chứng minh phép tu tiên.

119 Tưởng Hầu chính là Tưởng Tử Văn, làm Huyện Úy xứ Mạt Lăng (nay là Nam Kinh) thời Đông Hán, đánh giặc bị tử thương, nhiều lượt hiển linh nên Tôn Quyền nhà Đông Ngô lập miếu thờ, phong tặng tước hiệu Trung Đô Hầu, sắc phong làm sơn thần của Chung Sơn, đổi tên Chung Sơn thành Tưởng Sơn.

120 Phu nhân ở đây là Ma Gia phu nhân, mẹ đức Phật. Vườn Tỳ Lam tức là vườn Lam Tỳ Ni (Lumbini). Vô Ưu (Aśoka được phiên là A Thúc Ca, hoặc Kimśuka – Chân Thúc Ca, Khẩn Chúc Ca, Kiên Chúc Ca), còn được dịch là Xích Sắc, Nhục Sắc Hoa, được coi là một loài cây thánh ở Ấn Độ, có tên khoa học là Butea Frondosa, thường chỉ mọc ở bán đảo Ấn Độ cho đến Tích Lan. Cây cao đến hai ba mét, lá và hoa đều to. Lá thường được dùng để chế thuốc nhuộm, hạt cây ép ra dầu có tính sát trùng, hoa màu đỏ, trông từa tựa như hình bàn tay người.

121 Theo từ điển Từ Hải, Quỷ Phương là tên một dân tộc thời cổ, thuộc thị tộc Quý Phương. Vào thời nhà Ân, nhóm dân này sống ở Thiểm Tây và phía Bắc tỉnh Sơn Tây, là cường địch của nhà Ân Thương lẫn nhà Châu. Cao Tông chính là vua Vũ Đinh nhà Ân đã đánh nhau với tộc người này dai dẳng suốt ba năm. Do dân Quỷ Phương sống ở phía Tây Trung Hoa nên chữ Quỷ Phương thường để chỉ chung các dân tộc sống ở phía Tây Trung Hoa.

122 Rải rác trong Văn Sao, nhất là trong những lá thư gởi cho Đinh Phước Bảo, Tổ thường chê ông Lương Khải Siêu học Phật chưa đến nơi đến chốn, chỉ viện dẫn ý kiến của một hai tác giả Nhật Bản, chứ không đích thân nghiên cứu kinh điển tường tận, nên thường nêu ra nhận xét hết sức võ đoán, hồ đồ về Phật pháp.

123 Gọi là Kim Cang Hộ Pháp (Vajrapani) vì các vị hộ pháp này thường cầm chày kim cang (kim cang xử) hiện tướng mạo phẫn nộ, nhằm thể hiện ý đối trị phiền não, biến phiền não thành giác ngộ, đập tan chướng ngại. Còn chữ Kim Cang (Vajra) trong tựa đề kinh Kim Cang là mượn chất kim cang cứng chắc, phá hoại được mọi thứ, không gì phá hoại được để thí dụ Phật Tánh thường hằng bất biến có diệu dụng không thể nghĩ bàn.

124 Lương Cung Thần (1814-?) là một văn học gia nổi tiếng dưới đời Thanh quê ở Phước Châu, tỉnh Phước Kiến, là con trai thứ ba của đại văn học gia Lương Chương Cự. Trước tác nổi tiếng nhất là Bắc Đông Đường Bút Ký, được đánh giá chẳng hề thua kém tác phẩm Doanh Quan Tùng Thoại Toàn Biên của cha. Ông Đàm Khê cũng là một văn nhân nổi tiếng vào đời Càn Long - Gia Khánh, thường xướng họa mật thiết với Kỷ Hiểu Lam, Vương Lan Tuyền v.v…

125 Hồ Bảo Tuyền (1694-1763) là một danh sĩ đời Thanh, vốn có tên lúc bé là Kim Lan, tự là Thái Thư, người Thanh Phố, phủ Tùng Giang, tỉnh Giang Tô, đỗ Tiến Sĩ dưới thời Ung Chánh, từng đảm nhiệm chức vụ Tuần Phủ nhiều tỉnh, cuối cùng được thăng lên Binh Bộ Thượng Thư kiêm Thái Tử Thiếu Phó, Thái Tử Thái Bảo dưới thời Càn Long. Trước tác còn để lại bộ Thi Văn Tập gồm 20 quyển. Ông được coi là người chánh trực, khiêm cung, cẩn trọng, nên rất được các bạn đồng liêu và hoàng đế kính trọng.

126 Theo Pháp Bảo Đàn Kinh, khi phải trốn tránh do bị môn nhân của ngài Thần Tú truy bức nhằm đoạt lại y bát, Tổ Huệ Năng đã phải sống nhờ đám thợ săn. Đến mỗi bữa ăn, Ngài chỉ gắp ăn những lá rau bên cạnh thịt.

127 Câu nói này dựa theo câu tục ngữ: “Thanh xuất ư lam, nhi thắng ư lam” (Màu xanh dương phát xuất từ màu chàm, mà trỗi hơn màu chàm).

128 Tự Vị (Tự Vựng) là bộ tự điển do Mai Ưng Tộ soạn vào đời Minh, gồm 14 quyển, có đến 33.179 từ ngữ, được hoàn tất vào năm Vạn Lịch 43 (1615). Bộ sách này được dùng làm tài liệu tham khảo chính để soạn Khang Hy Tự Điển về sau này.

Tự Điển được nói đến ở đây gồm hai bộ tự điển: Khang Hy Tự Điển và Trung Hoa Đại Tự Điển. Khang Hy Tự Điển được hoàn thành vào năm Khang Hy 55 (1716) do Văn Hoa Điện Đại Học Sĩ Trương Ngọc Thư và Văn Uyên Các Đại Học Sĩ Trần Đình Kính chủ biên. Bộ tự điển này là công sức suốt sáu năm trời của hai mươi tám vị danh sĩ như Sử Quỳ, Vạn Kinh, Lưu Nghiễm, Vương Vân Cẩm v.v… cùng biên soạn. Khang Hy Tự Điển có đến 47.035 chữ, chia theo 214 bộ thủ, phiên thiết cách đọc khá hợp lý, đồng thời dẫn chứng chi tiết cách dùng các từ ngữ trong thư tịch cổ nên cho đến nay vẫn được coi là tài liệu tham khảo hữu ích nhất về chữ Hán thời cổ. Bộ Trung Hoa Đại Tự Điển được soạn vào năm 1915, với mục đích sửa chữa những sai lầm trong Khang Hy Tự Điển, đồng thời bổ sung những danh từ mới, nhất là các thuật ngữ khoa học, đồng thời chú trọng sửa đổi cho cách phiên âm và giải thích từ ngữ đơn giản, chính xác hơn.



129 Vì chữ Trà gần với âm tiếng Phạn hơn.

130 Trong kinh Pháp Hoa vận dụng rất nhiều lối viết giả tá. Mạt được nói ở đây là chữ Mạt trong Mạt Hương (末香), đáng lý ra phải viết là Mạt Hương (抹香), nhưng kinh luôn viết là Mạt Hương (末香). Tuy thế, ai đọc đến cũng hiểu, không cần phải cầu kỳ sửa lại những chữ trong những bản đã được lưu hành từ bao đời đến giờ cho nên Tổ mới chê ông Đinh Phước Bảo quá cố chấp.

131 Đây là một câu kinh trong phẩm Tự kinh Pháp Hoa (theo bản của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh): “Nhĩ thời, Thích Đề Hoàn Nhân dữ kỳ quyến thuộc nhị vạn thiên tử câu. Phục hữu danh Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bảo Quang thiên tử, tứ đại thiên vương, dữ kỳ quyến thuộc vạn thiên tử câu” (Khi ấy, Thích Đề Hoàn Nhân và quyến thuộc hai vạn thiên tử cùng đến. Lại có những vị như Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bảo Quang thiên tử, bốn đại thiên vương và quyến thuộc một vạn thiên tử cùng đến). Sách Cú Giải cho rằng chữ Danh ở đây là sai, phải là chữ Minh mới đúng! Đa số các bản Pháp Hoa lưu hành hiện thời ở Việt Nam đều chép là chữ Minh.

132 Hai chữ này trích từ câu nói của đức Phật trong phẩm Phương Tiện sau khi những người nghe đức Phật chấp nhận lời thỉnh của ngài Xá Lợi Phật giảng kinh Pháp Hoa liền đứng lên lễ Phật rồi lui về. “Ngã kim thử chúng, vô phục chi diệp, thuần hữu trinh thật. Xá Lợi Phất! Như thị tăng thượng mạn nhân, thoái diệc giai hỹ!” (Trong chúng ta không còn cành lá, chỉ còn thân cây và quả. Xá Lợi Phất! Những kẻ tăng thượng mạn ấy lui về cũng là tốt). Do không để ý đến sự đối xứng giữ “chi diệp” và “trinh thật” nên nhiều bản đã tùy tiện sửa “trinh thật” thành “chân thật”.

133 Hai chữ Phạt này ý nghĩa rất khác nhau, bầy tôi phản nghịch, vua là người bề trên đem quân đánh dẹp thì gọi là Phạt (罰), tức trừng phạt. Còn vì mọi người, vì đại thể mà Vũ Vương phải đem quân diệt Trụ hầu đem lại sự yên vui cho dân chúng (nên nhớ Vũ Vương là chư hầu của Trụ Vương) thì việc đánh dẹp do đại nghĩa ấy sẽ được gọi là Phạt (伐).

134 Chữ Đa này thường được dùng để phiên âm thần chú, thường để phiên các âm Ta trong Phạn văn. Khi phiên sang tiếng Việt chữ này thường được đọc trại thành Đá.

135 Trong phẩm Hóa Thành Dụ, khi chư Thiên mười phương đem cung điện của chính mình dâng lên, đã nói kệ cầu thỉnh đức Phật tiếp nhận, có vị nói là “duy nguyện thùy nạp thọ”, có vị nói là “duy nguyện thùy nạp xử”. “Xin Phật rủ lòng nhận lấy” hay “xin Phật rủ lòng nhận để ở” thì cũng chẳng khác gì nhau lắm.

136 Đây là một câu nói của Lương Huệ Vương được chép trong sách Mạnh Tử. Khi sang nước Lương gặp nhà vua, được hỏi về kế sách, Mạnh Tử đã bảo: “Nay nhà vua cai trị bằng cách thực thi lòng nhân khiến cho kẻ sĩ trong thiên hạ đều muốn đứng trong sân chầu của nhà vua, kẻ nông phu đều muốn cày ruộng cho vua, con buôn đều muốn tích trữ hàng hóa nơi chợ của vua, người đi xa đều muốn đi trên đường của vua… Làm được như thế thì còn ai ngăn trở nhà vua được nữa?” Lương Huệ Vương bèn thưa: “Con tối tăm chưa thể làm được như vậy, xin phu tử giúp con, dạy cho con được sáng chí. Con tuy không lanh lợi, nhưng xin thầy cứ dạy thử”.

137 Vĩnh Khang (280-289) là niên hiệu của Tư Mã Viêm (Tấn Vũ Đế) sau khi diệt được Đông Ngô. Còn Thái Khang (300-301) là niên hiệu của Tấn Huệ Đế (Tư Mã Trung) chỉ sử dụng chưa đầy hai năm. Đây là vấn đề tranh luận bộ kinh Chánh Pháp Hoa được dịch trong năm nào. Chánh Pháp Hoa là bản dịch kinh Pháp Hoa cổ nhất do ngài Trúc Pháp Hộ làm Dịch Chủ. Đa phần thiên về thuyết cho rằng kinh này được dịch năm Thái Khang thứ bảy (286) đời Tấn Vũ Đế.

138 Tam Tạng Ký Tập gọi đủ là Xuất Tam Tạng Ký Tập do ngài Tăng Hựu (445-518) soạn vào đời Lương, còn gọi là Xuất Tam Tạng Ký Mục Lục, Lương Xuất Tam Tạng Tập Ký, hoặc Tăng Hựu Lục. Nội dung ghi chép duyên do, danh mục các kinh và những bản dịch kinh điển khác nhau từ thời Hậu Hán đến đời Lương.

Đại Đường Nội Điển Lục do ngài Đạo Tuyên (596-667) soạn vào đời Đường ghi chép hai trăm hai mươi dịch giả, tên gọi của hai ngàn bốn trăm tám mươi bảy bộ kinh.



139 Sách Tam Biên ghi là Bạch Hàng (白航) nhưng trong các tài liệu viết về ông này cũng như trong Tục Biên đều ghi là Bạch Phảng (白舫), nên chúng tôi cũng phiên âm là Bạch Phảng.

140 Tương đương chức vụ trưởng ty Kiểm Lâm hiện thời.

141 Phủ Đài là tên gọi khác của chức quan Tuần Phủ (đôi khi đọc là Tuần Vũ), tức quan đứng đầu một tỉnh dưới thời Minh - Thanh, thuộc ngạch Tùng Nhị Phẩm. Gọi là Tuần Phủ nhằm ngụ ý “tuần hành thiên hạ, phủ quân án dân” (đi tra xét trong thiên hạ, cai quản quân dân). Chức này được đặt ra từ năm Hồng Vũ 24 (1430)

142 Thành Đạo Ký Chú có tên đầy đủ là Thích Ca Như Lai Thành Đạo Ký Chú, do Huệ Ngộ đại sư viết để chú giải tác phẩm Thích Ca Như Lai Thành Đạo Ký của Vương Bột đời Đường. Sách này hiện được xếp vào Vạn Tục Tạng, tập 75. Vương Bột làm quan Bác Sĩ thời Đường Cao Tông, cùng với cha và anh đều nổi danh văn tài thời ấy, được xưng tụng là Vương Thị Tam Châu Thụ (ba cây ngọc nhà họ Vương). Vương Bột còn có bài phú Đằng Vương Các Ký rất nổi tiếng.

143 Một Lạng (lượng) gồm 10 Tiền, một Tiền là mười Phân. Tùy theo địa phương mà chênh lệch từ 36g đến 40g. Hiện thời, tại Trung Hoa Đại Lục quy định một Lạng là 50g, trong khi Đài Loan và Hương Cảng quy định một lạng là 37,429g. Một Cân là mười sáu Lạng (theo Wikipedia)

144 Chỉ Nguyệt Lục (tên đầy đủ là Thủy Nguyệt Trai Chỉ Nguyệt Lục) là bộ sách gồm ba mươi hai quyển do Cù Nhữ Tắc biên soạn vào đời Minh, chép sự tích của quá khứ thất Phật và hành trạng, pháp ngữ của chư Tổ sư Ấn Độ và các Tổ sư Đông Độ cho đến ngài Đại Huệ Tông Cảo v.v… Tổng cộng là 650 vị cổ đức. Đến đời Thanh, có ông Nhiếp Tiên, hiệu Lạc Độc, soạn tiếp cuốn bộ Tục Chỉ Nguyệt Lục gồm 20 quyển chép hành trạng của cổ đức từ năm Long Hưng thứ 2 (1164) đến năm Khang Hy mười tám (1679).

145 Thần Tăng Truyện (chín quyển) là tác phẩm do Minh Thành Tổ soạn, thâu thập những truyện ký, sự tích thần dị của các bậc danh tăng từ xưa cho đến thời Minh như các vị Trúc Ma Đằng, Trúc Pháp Lan, Đạo An v.v… Tổng cộng 208 vị.

146 Tống Cao Tăng Truyện (30 quyển) được biên soạn bởi Tán Ninh (919-1002) đời Tống. Bộ sách này được coi như phần tiếp theo của bộ Tục Cao Tăng Truyện, được khởi soạn vào năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 7 (982), chép hành trạng của các vị đại đức cao tăng từ niên hiệu Trinh Quán đời Đường Đại Tông (627-649) đến Đoan Củng nguyên niên (988) đời Tống Thái Tông. Do sách được soạn thành ở chùa Thiên Thọ nên còn gọi là Thiên Thọ Sử. Phần chánh truyện chép 531 vị, phần phụ truyện chép thêm 125 vị nữa; chia thành mười khoa như dịch kinh (32 vị), nghĩa giải (giảng giải kinh điển, 72 vị), tập thiền (103 vị)… Riêng phần Tập Thiền được coi là một tài liệu đặc sắc rất hữu ích về lịch sử truyền thừa của Tông Vân Môn cũng như hành trạng của các thiền sư trọng yếu.

147 Theo truyền thống Thiền Tông, ở Ấn Độ có hai mươi tám vị Tổ, Trung Hoa có sáu vị Tổ. Ngài Bồ Đề Đạt Ma là Tổ thứ hai mươi tám ở Ấn Độ, đồng thời là Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa. Vì vậy, trong đoạn trên Tổ mới nói ‘trong hai mươi bảy vị Tổ Tây Thiên không có ngài Thế Thân’. Hơn nữa, ngoài Tổ Bồ Đề Đạt Ma được ghi chép nhiều sự tích ra, danh hiệu hai mươi bảy vị Tổ kia chỉ được nhắc đến trong lịch sử truyền thừa chứ không ghi chép rõ hành trạng, nên mới nói ‘chứ không phải suốt cả một đời của hai mươi bảy vị Tổ chỉ có một đoạn sự tích này’.

148 Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của Tứ Thư Bạch Thoại Giải Thích.

149 Ngài Huyền Trang sau khi tham học với các bậc Tông tượng tại Thiên Trúc đã trở thành một bậc Đại Luận Sư lẫy lừng tại Ấn Độ. Năm 41 tuổi, khi Sư muốn trở về Trung Hoa, vua Giới Nhật bèn Tổ chức đại pháp hội tại thành Khúc Nữ, triệu tập quốc vương mười tám nước cùng tăng sĩ Đại, Tiểu thừa Bà La Môn, hơn bảy ngàn người về tham dự pháp hội tranh biện Đại Thừa. Sư nhận lời thỉnh làm Luận Chủ. Để tuyên dương Đại Thừa, Sư viết ra bài luận Chân Duy Thức Lượng treo ở ngoài cửa thành suốt mười tám ngày. Vua hạ lệnh ‘nếu ai đổi được một chữ trong bài luận ấy sẽ được thưởng ngàn vàng’, nhưng suốt cả mười tám ngày không ai bắt bẻ được một chữ nào.

150 Chữ Duyên khi được dùng như danh từ thì chỉ những nguyên nhân gián tiếp dẫn đến kết quả. Nhưng ở đây Duyên được dùng như một động từ thì có ý nghĩa nhận biết, dính líu, vướng mắc. Chẳng hạn, ‘tâm duyên nơi cảnh’, tức là tâm hướng đến một cảnh nào đó, nhận biết cảnh ấy qua lăng kính kiến giải, thiên kiến của chính mình. Để cho rõ, đôi khi các bộ luận thường viết “năng duyên tâm” và “sở duyên cảnh”. Năng Duyên Tâm chính là cái tâm phân biệt, nhận thức cảnh, còn Sở Duyên Cảnh chính là đối tượng được nhận thức bởi cái tâm ấy. Chẳng hạn như, khi ta nhìn bông hoa nhận biết đó là bông hoa thì cái tâm nhận biết ấy là Năng Duyên Tâm, bông hoa là Sở Duyên Cảnh. Cùng là một đối tượng, nhưng cảnh sở duyên trong sự nhận biết của mỗi người sẽ khác. Chẳng hạn như cùng một bông hoa, nhưng mỗi người sẽ thấy đẹp - xấu khác biệt. Nguyên câu này phải hiểu là “duyên trung [cảnh] nhược mi gian, nhược ngạch thượng, nhược tỵ đoan” (những cảnh được tâm duyên đến [trong khi tịnh tọa] như giữa chặng mày, như trên trán, như chót mũi)… Như vậy, ba nơi vừa kể chỉ là liệt kê đại lược những cảnh được duyên. Bọn đạo sĩ hiểu lầm bèn cho “duyên trung” cũng là một trong những vị trí trên thân thể như giữa chặng mày, giữa trán, chót mũi, nên mới bịa ra khái niệm Hoàng Trung!

151 Đây cũng là một thuật ngữ của Đạo Gia, họ cho rằng linh hồn của mỗi người là một tiểu linh quang, tức từ Đại Linh Quang của Thượng Đế chia nhỏ ra, nên linh hồn còn được gọi là ‘tinh hồn’ tức phần tinh túy nhất được tiếp nhận từ Thượng Đế - tinh túy của vũ trụ. Theo họ, những vị tu tiên đắc đạo sẽ vận dụng được khả năng biến hóa thần kỳ của tinh hồn.

152 Môn Cữu Cô Nương: Đây là một tập tục của phụ nữ thôn quê miền Hoa Nam thường dùng để bói vận may trong ngày lễ Nguyên Tiêu (rằm tháng Giêng), còn gọi là “thỉnh Đoàn Cơ thần” (thỉnh thần sọt). Họ bẻ rúm miệng sọt (cần-xé), phủ vải hoa lên, đem đặt ở ngưỡng cửa, rồi “niệm chú”. Tùy theo hình dáng của miệng sọt bung ra khi giở miếng vải lên mà bói xem năm ấy mùa màng, cưới gả, làm ăn tốt xấu như thế nào. “Vị thần” được cầu khấn trong khi bói toán ấy được dân gian gọi là Môn Cữu Cô Nương (cô nương ngạch cửa). Ở đây, Tổ chơi chữ, dùng Môn Cữu Cô Nương (là một vị thần quê mùa thấp kém trong tín ngưỡng dân gian, do dân chúng bịa ra) để sánh với vị thần tiên nổi tiếng nhất của Đạo Giáo là Lã Động Tân.

153 Bão Phác Tử là hiệu của Cát Hồng (283-363), tự là Trĩ Xuyên, quê ở huyện Cú Dung, Đan Dương (nay thuộc tỉnh Giang Tô) là một nhà giả kim thuật thời Đông Tấn, thường được Đạo Giáo xưng tụng là Cát Tiên Ông. Ngoài những tư tưởng hoang đường về thuật luyện đan, Cát Hồng đóng góp khá đáng kể cho y thuật Trung Hoa cổ đại qua những ghi chép về triệu chứng bệnh tật. Trước tác nổi tiếng nhất là bộ Bão Phác Tử và Thời Hầu Cứu Tốt Phương. Ông ta là người đề xướng đường lối Ngoại Đan tức dùng khoáng vật (như thủy ngân, vàng v.v…) nấu với thuốc để chế kim đan, uống kim đan sẽ thành tiên bay lên trời. Do những kim đan ấy có chứa nhiều chất độc hại nên rất nhiều người đã hộc máu chết tươi ngay khi vừa uống xong kim đan theo toa của Cát Hồng. Cho đến cuối đời Thanh vẫn có những người mê muội luyện đan theo sách Bão Phác Tử!

154 Phật Tổ Thống Kỷ do ngài Chí Bàn soạn vào thời Nam Tống, chủ yếu thuyết minh về hệ thống truyền thừa của giáo học Thiên Thai. Sách này lấy các bộ Tông Nguyên Lục và Thích Môn Chánh Thống làm cơ sở. Sách được phỏng theo cách chép của Sử Ký nên chia thành các phần Bản Kỷ, Thế Gia, Liệt Truyện, Biểu, Chí. Bản Kỷ bao gồm truyện đức Phật Thích Ca, và truyện của các vị Tổ mà Tông Thiên Thai tôn thờ là 24 vị Tổ ở Ấn Độ, 9 vị ở Trung Quốc và tám vị Tổ từ thời ngài Hưng Đại trở xuống. Phần Thế Gia gồm truyện của 198 vị Tổ thuộc Tông Thiên Thai, Nam Nhạc. Phần Liệt Truyện gồm truyện ký của 378 vị Tổ từ Từ Vân cho đến Nam Bình. Phần Biểu gồm những biểu đồ hệ thống truyền thừa ở Ấn Độ và Trung Quốc. Phần Chí gồm danh mục các trước tác của Tông Thiên Thai, Tịnh Độ, Thiền Tông, Hoa Nghiêm v.v… Tuy sách này lấy Tông Thiên Thai làm chính, nhưng nội dung sử liệu phong phú, biên chép kỹ lưỡng nên thường được coi là một sử liệu quan trọng để nghiên cứu Phật giáo Trung Quốc.

155 Lão Quân chính là Lão Tử. Lão Tử tên thật là Lý Nhĩ, tự là Bá Dương, theo truyền thuyết ông sống trong khoảng 600 đến 470 trước Công Nguyên. Các đạo sĩ do tôn xưng ông là Thủy Tổ của Đạo gia đã đặt ra rất nhiều chuyện huyền thoại quanh ông và tôn xưng ông là Thái Thượng Lão Quân, Hỗn Nguyên Lão Quân, Thái Thanh Đại Đế, Đạo Đức Thiên Tôn v.v…

156 Cát Huyền (164-244) là em của ông nội Cát Hồng, cũng là một đạo sĩ nổi tiếng, được người đời sau xưng tụng là Thái Cực Cát Tiên Ông. Cùng với Trương Đạo Lăng, Hứa Tôn và Tát Thủ Kiên được gọi là ‘tứ đại Thiên Sư’ của Đạo Giáo.

157 Hà Bá: Thần sông, Hải Nhược: Thần biển.

158 Ba ông vua này từng chủ trương diệt Phật, truy đuổi Tăng chúng, chiếm đoạt tài sản nhà chùa. Sử thường gọi là Tam Vũ Diệt Phật.

159 Theo Từ Hải, Chỉ Bản là một lối in xưa, người ta sắp bản in với các chữ in rời bằng kẽm (tức là mỗi chữ đều được đúc riêng biệt bằng kẽm, rồi sắp vào khuôn gỗ) đưa vào máy in nén mạnh trên giấy cho lõm xuống. Khi cần in sẽ chụp những trang đó, không cần phải sắp chữ lại.

160 Ở đây chỉ những tên lính đào ngũ sau khi quân Quốc Dân Đảng thất trận.

161 Hiến Ty: Một chức quan đã có từ đời Tống, chuyên giữ nhiệm vụ chấp hành, giám sát, củng cố việc thực hiện các hiến điển (những điều lệ quy định về trị an, hành chánh, dân sự v.v…) Đến thời Minh - Thanh, chữ này thường được dùng để chỉ chung các cấp cai trị trong huyện, trong phủ, trong tỉnh.

162 Lệnh nghiêm: Tiếng gọi tỏ vẻ kính trọng cha người khác.

163 Bành Định Cầu (1645-1719), tự Cần Chỉ, hiệu Phỏng Liêm, đỗ Trạng Nguyên năm Khang Hy (1591-1676), được bổ làm Hàn Lâm Tu Soạn, kiêm Tư Nghiệp trường Quốc Tử Giám. Ông là con người đức độ, chánh trực, rất được vua quý trọng. Người đương thời tặng ông mỹ hiệu “Nam Vận tiên sinh”.

164 Xin đừng hiểu lầm ý Tổ là Nho Giáo cũng dạy về pháp xuất thế, Chân Như, Phật Tánh v.v… như Phật giáo. Ở đây chỉ có nghĩa là Phật giáo cũng nhấn mạnh luân thường, lễ nghĩa, trọn hết những bổn phận và điều thiện thế gian giống như Nho giáo.

165 Tiếng gọi công sở, dinh thự hoặc chùa miếu, điện thờ của người khác một cách trang trọng.

166 Ý nói gởi tặng một hai cuốn cho những người quen biết hoặc những người hỏi đạo để kết duyên nên gọi là “kết duyên vụn vặt”.

167 Nguyên văn “tải tư cập nhược”, đây vốn là một câu trích từ kinh Thi, bài Tang Tang, phần Đại Nhã: “Kỳ hà năng thục, tải tư cập nhược”. Theo Trung Quốc Khổng Tử Võng, câu này có nghĩa là: “Làm sao có thể tốt đẹp cho được! Chẳng qua là kéo nhau xuống nước hết mà thôi”.

168 Đao Lợi Thiên (Trāyastrimśa) còn dịch âm là Đát Lỵ Da hay Đát Lỵ Xà, hoặc dịch nghĩa là Tam Thập Tam Thiên, là cõi trời nơi Đế Thích ở, nằm ngay trên đỉnh núi Tu Di. Bốn phía đỉnh núi ấy, mỗi phía có tám tòa thành trời. Tòa thành của Đế Thích nằm chính giữa mang tên Thiện Kiến Thành. Như vậy Tổng cộng có ba mươi ba tòa thành trời nên mới gọi là Tam Thập Tam Thiên. Theo Chánh Pháp Niệm Xứ Kinh, tên của ba mươi ba tòa thành ấy là 1) Thiện Trụ Pháp Đường Thiên 2) Trụ Phong Thiên 3) Trụ Sơn Đảnh Thiên 4) Thiện Kiến Thành Thiên 5) Bát Tư Địa Thiên 6) Trụ Câu Tra Thiên 7) Tạp Điện Thiên 8) Trụ Hoan Hỷ Viên Thiên 9) Quang Minh Thiên 10) Ba Lợi Da Đa Thọ Viên Thiên 11) Hiểm Ngạn Thiên 12) Trụ Tạp Hiểm Ngạn Thiên 13) Trụ Ma Ni Tạng Thiên 14) Triền Hành Địa Thiên 15) Kim Điện Thiên 16) Man Ảnh Xứ Thiên 17) Trụ Nhu Nhuyễn Địa Thiên 18) Tạp Trang Nghiêm Thiên 19) Như Ý Địa Thiên 20) Vi Tế Hạnh Thiên 21) Ca Âm Hỷ Lạc Thiên 22) Đức Oai Luân Thiên 23) Nguyệt Hành Thiên 24) Diễm Ma Sa La Thiên 25) Tốc Hành Thiên 26) Ảnh Chiếu Thiên 27) Trí Huệ Hành Thiên 28) Chúng Phận Thiên 29) Trụ Luân Thiên 30) Thượng Hành Thiên 31) Oai Đức Nhan Thiên 32) Oai Đức Diễm Luân Thiên và 33) Thanh Tịnh Thiên.

Đế Thích (Śakra Devānām-Indra), gọi đầy đủ là Thích Ca Đề Hoàn Nhân Đà La, còn có tên là Kiều Thi Ca, Sa Bà Bà, Thích Ca Đề Bà, Thiên Nhãn v.v… Đời trước vốn là một vị Bà La Môn do xướng suất ba mươi hai người cùng tu bổ tháp Phật đã hư nát, nên cùng với ba mươi hai người ấy hưởng quả báo được sanh lên trời Đao Lợi làm thiên chúa. Vị trời này có mười vị đại thiên tử hộ vệ. Mỗi tháng, trong mười ngày trai sẽ đích thân xuống cõi nhân gian hay sai Tứ Thiên Vương, Thái Tử, thị giả… xuống tuần tra xem xét thiện ác. Thông thường vị trời này được tạc tượng cỡi voi trắng, tay phải cầm kim cang xử ba nhánh, tay trái đặt trên đùi, và cũng được xếp vào số các vị tôn thánh thuộc Ngoại Kim Cang Viện của Thai Tạng Giới trong Đông Mật.



169 Luận Mạnh Phân Loại là gọi tắt của Luận Ngữ Phân Loại và Mạnh Tử Phân Loại.

Lệnh nghiệp sư là tiếng gọi tỏ vẻ kính trọng thầy của người khác.



170 Đảnh Cách là lối in chữ đầu dòng cao hơn một chữ so với những dòng bên cạnh. Đảnh Cách thường dùng để in dòng đầu của Chánh Văn hay đề mục của một tiết, một đoạn.

171 Chủ ở đây là phần chánh văn, Bạn là phần chú giải.

172 Theo cách in phổ biến thời ấy, giữa mỗi quyển của cùng một bộ sách, phải bỏ trống ít nhất một trang. Ở đây, Tổ đề nghị, chỉ chừa một hàng trống giữa hai quyển.

173 Đề Đầu hay Đài Đầu là in cao hơn những dòng khác một chữ, gần giống như Đảnh Cách. Điểm khác biệt giữa Đảnh Cách và Đài Đầu là Đảnh Cách chỉ in cao một dòng đầu, còn Đề Đầu là in cao lên một chữ cả đoạn.

174 Nguyên văn Thư Thiêm. Trong lối in sách theo lối cổ, trước mỗi quyển thường gắn một mảnh giấy nhỏ, ghi rõ từng quyển này gồm mấy chương, mỗi chương gồm mấy tiết, mỗi tiết gồm mấy đoạn, giống như tiểu mục lục của từng quyển để người đọc dễ thấy được kết cấu của một quyển, dễ tìm khi muốn tra cứu. Chữ Thư Thiêm hiện thời chỉ dùng để dịch nghĩa chữ bookmark, tức sợi dây được gắn vào gáy sách để đánh dấu phần đã đọc.

175 Đây là lối in chữ do Guttenberg phát minh bằng cách dùng những chữ đã đúc sẵn, sắp vào khuôn in rồi phun mực, ép xuống giấy để in. Gọi là “chữ chì” (duyên tự) chứ thật ra mỗi một chữ được đúc bằng hỗn hợp thiếc, chì và antimon. So với lối in khắc ván, cách này nhanh và hiệu quả hơn, nhưng nay đã thất truyền vì phải tốn nhiều chữ đúc sẵn, phải in thử để thầy cò (corrector) sửa những chữ bị thợ sắp sai. Chữ chì lại còn có chứa chất độc, gây nguy hại cho sức khỏe của thợ in.

176 Nguyên văn “nhất bách nhập bảng ngưu bì chỉ”. “Nhất bách nhập bảng” là cách người Trung Hoa diễn dịch khái niệm “loại giấy này có thể chịu đựng độ kéo tối đa là 120g trên một mét vuông”. Ngưu Bì Chỉ (Kraft Paper) là một loại giấy thô dày cứng chế bằng bột tạp từ các loại gỗ của cây lá kim (như thông, tùng) đã được tẩy màu bằng acid sulfuric, thường có màu vàng nhờ nhờ hoặc vàng hơi nâu như lông bò. Thoạt đầu, giấy này chế bằng da bê hay da nghé nên gọi là Ngưu Bì Chỉ, chuyên dùng làm bìa sách. Tới khi chế bằng bột gỗ, do giấy có màu giống lông bò nên người Trung Hoa vẫn quen gọi là Ngưu Bì Chỉ.

177 Pháp tệ: Khoản tiền cúng dường để làm chuyện lợi ích về mặt hoằng pháp như in kinh, tượng, cứu giúp dân chúng bị nạn…

178 Trương Kiển (1853-1926), tự Quý Trực, hiệu Tường Am, người trấn Thường Lạc, huyện Hải Môn, từng đỗ Trạng Nguyên cuối đời Thanh vào năm 1894, được bổ làm Hàn Lâm Đương Tu Soạn. Ông tích cực chủ trương đường lối kinh tế thực tiễn để giúp dân làm giàu và cứu vớt người nghèo, nâng cao dân trí, lập ra nhiều xí nghiệp, được coi là một trong những nhà tư bản tiên phong của Trung Hoa. Ông lập ra trường đại học Sư Phạm dân lập Nam Thông là ngôi trường đào tạo giáo viên theo đường lối dân tộc, thực tiễn, cũng như góp phần thành lập trường Cao Đẳng Sư Phạm Nam Kinh.

179 Lệnh nhạc mẫu: Tiếng gọi tỏ vẻ tôn trọng mẹ vợ của người khác.

180 Pháp danh của con trai ông Mục Tông Tịnh là Phước Duệ, chữ Phước trùng với tên của một vị Tổ tiên của ông Mục, nên gọi là “phạm Tổ húy”.

181 Tổ Ấn Quang xuất gia với một vị thầy thuộc Tông Lâm Tế. Trong các pháp phái nhà Thiền, tùy theo chi phái mà có những bài kệ quy định chữ đầu của pháp danh. Chẳng hạn dòng Lâm Tế đến đời thứ 21, ngài Vạn Phong Thời Ủy chùa Thiên Đồng, đã đặt ra bài kệ truyền phái quy y như sau: “Tổ đạo giới định tông. Phương quảng chứng viên thông, Hạnh siêu minh thiệt tế. Liễu đạt ngộ chân không. Như nhật quang thường chiếu. Phổ châu lợi ích đồng. Tín hương sanh phước huệ. Tương kế chấn từ phong”. Tổ Nguyên Thiều Siêu Bạch, Tổ Minh Hải Pháp Bảo, Tổ Liễu Quán Thiệt Diệu đều thuộc dòng kệ này; rồi các ngài lại biệt xuất những dòng kệ khác. Sau này, tại Trung Hoa cũng có nhiều phân phái Lâm Tế đặt ra những bài kệ truyền dòng khác. Không rõ ngài Đạo Thuần trưởng lão, tức vị thầy thế độ của Tổ Ấn Quang (pháp danh của Tổ bắt đầu bằng chữ Thánh, tức Thánh Lượng, Ấn Quang là pháp hiệu) thuộc chi phái Lâm Tế nào.

182 Tử Tư là tên tự của Khổng Cấp (483-402 trước Công nguyên), còn có mỹ hiệu là Thánh Thuật, cháu nội của Khổng Tử, là con trai của Khổng Lý. Tử Tư theo học với Tăng Tử (Tăng Sâm), từng ra làm quan dưới triều Lỗ Mục Công. Tương truyền, sách Trung Dung do chính Tử Tư biên soạn.

183 Ý nói : Ông Mục Tông Tịnh đứng ra xin quy y cho những người khác ở nơi xa. Trong số ấy có những người ở gần, có người ở nơi xa. Bản liệt kê pháp danh của những người bị Tổ viết lầm tên là danh sách của những người ở gần chỗ ông Mục Tông Tịnh.

184 Chữ Thuyên (銓) trong tên ông Chương Dĩ Thuyên có hai nghĩa: Cân nhắc và chọn lựa kẻ hiền để bổ làm quan.

185 Tôn Thúc Ngao là một danh tướng nước Sở thời Xuân Thu, người huyện Kỳ Tư (nay là huyện Hoài Tân, tỉnh Hà Nam), khéo dùng thủy binh, làm đến chức Lệnh Doãn. Ông cả đời liêm khiết, khi mất nghèo đến nỗi không có hòm để chôn, người làng phải quyên tiền để giúp vợ con ông khâm liệm. Thuở nhỏ, khi lên mười tuổi, ông ra ngoài chơi, đột nhiên thấy một con rắn hai đầu. Trước đó, ông từng nghe nói “ai trông thấy con rắn hai đầu sau ba ngày sẽ chết”. Tôn Thúc Ngao nghĩ mình sẽ chết, động lòng từ bi, sợ người khác trông thấy con rắn ấy cũng phải chết như mình, bèn đập chết rắn, đem chôn kín.

186 Giám Chương có nghĩa là soi xét, thấy biết rõ ràng, rạng rỡ.

187 Pháp Tùy Tức được luận Bảo Vương Tam Muội (do ngài Phi Tích soạn vào đời Đường) nói tới ở đây, vốn xuất phát từ kinh Bi Hoa, do ngài Mật Tô (tiền thân của A Súc Bệ Phật khi còn tu nhân) chế ra. Theo đó, thay vì lấy xâu chuỗi để niệm Phật, hành nhân dùng hơi thở thay cho xâu chuỗi. Hễ thở ra bèn niệm Phật một câu, hít vô bèn niệm Phật một câu.

188 Chín suối (Cửu tuyền): Theo quan niệm thời cổ, Cửu là con số lớn nhất trong những con số căn bản, nên chữ Cửu thường được dùng để hình dung sự nhiều, lớn, cùng cực. Chẳng hạn trong bộ Tố Vấn có câu: “Thiên địa chi chí số, thỉ vu nhất, chung vu cửu yên” (Con số tột cùng của trời đất, khởi đầu bằng một, kết thúc bằng chín). Do đào sâu xuống đất thường thấy mạch nước ngầm nên người xưa tin tưởng dưới mặt đất là những dòng suối chảy ngầm, nên họ gọi chốn sâu thẳm dưới đất là “cửu tuyền”. Hơn nữa, chất đất vùng Hoa Bắc thường có màu vàng xậm nên nước ngầm cũng có màu vàng. Vì thế, chốn âm phủ còn được gọi là “hoàng tuyền”. Cũng có cách giải thích khác là trong Dịch Học, Thổ có màu vàng, thuộc Âm, nên chốn âm phủ gọi là “hoàng tuyền”.

189 Xin đọc bài “Lời tựa [giãi bày ý nghĩa việc] Cúng Tế Tổ Tiên Bằng Cỗ Chay” trong Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, cuốn Hạ.

190 Đây là lá thư được đánh số 152 trong Ấn Quang Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên (quyển 2). Xin trích một đoạn Tổ dạy về việc xây dựng như sau: Trộm nghĩ hiện nay thế đạo nhân tâm chìm đắm đến cực điểm, lại thêm quốc khố trống rỗng, thuế má nặng nề hơn trước biết bao lần, vật giá đắt đỏ, dân không lẽ sống, thiên tai, nhân họa liên miên xảy ra. Gặp thời buổi này, muốn hoằng dương pháp đạo thì đối với khắp những người đến hỏi, chỉ nên dạy họ hãy học lấy những nghĩa trọng yếu của Phật. Với cha nói đến từ, với con nói đến hiếu, anh nhường, em kính, chồng xướng, vợ theo, ai nấy tận hết bổn phận để lập nền tảng. Từ đấy, lại thêm trọng lòng kính, giữ lòng thành, đánh đổ ham muốn xằng bậy để khôi phục lễ nghĩa, hiểu nhân rõ quả, mong khỏi luân hồi, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Dù thiên tư cao cũng vẫn cứ hành theo đó. Lúc có dư sức, chẳng ngại nghiên cứu hết thảy kinh luận, dạy cho họ ở trong gia đình, tùy phận tu trì, chẳng cần phải tạo dựng điện đường cho nhiều, cắt đặt nhân viên cho đông, hai bên qua lại bận bịu chức vụ, tốn kém thời gian. Đây thật là cách tương kế tựu kế thích hợp nhất để hoằng pháp hiện thời”.

191 Ấn Quang Văn Sao Tam Biên ghi ngài Thật Hiền là vị Tổ thứ chín của Liên Tông, trong khi theo các ghi chép về Tịnh Tông hiện thời, Tổ Thật Hiền là vị thứ mười một, Tổ thứ chín chính là ngài Ngẫu Ích. Có lẽ khi ấy hai vị Ngẫu Ích và Hành Sách chưa được đại chúng công cử là Tổ sư của Tịnh Tông chăng?

192 Đây là một câu nói trong Âm Chất Văn khi Văn Xương Đế Quân tự thuật tiền thân. Trong bộ An Sĩ Toàn Thư, cuốn đầu là Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn Quảng Nghĩa Tiết Lục.

193 Bát Đức Tu Tri, còn gọi là Đức Dục Cố Sự do tiên sinh Thái Văn Long (tự Chấn Thân) biên soạn vào năm đầu Dân Quốc, bao gồm những câu chuyện đề cao tám đức “hiếu, đễ, lễ, nghĩa, trung, tín, liêm, sỉ”.

194 Nặc Na Hô Đồ Khắc Đồ (1865-1936) là người huyện Xương Đô, Tây Khang, vốn là người Hán, con trưởng nhà họ Từ ở Xương Đô. Họ Từ là một gia đình nhiều đời theo Hồi giáo. Ông ta được công nhận là Hoạt Phật đời thứ mười bốn của chùa Nặc Na (Nuona) ở Kim Đường thuộc Hồng Giáo Tây Tạng (Cổ Mật - Nyingmapa) lúc mới ba tuổi; được tăng sĩ chùa ấy rước lên ngôi Pháp Vương chùa Nặc Na năm bảy tuổi. Tương truyền, ông ta đã bế quan hơn hai mươi năm để tu Mật Pháp. Do vùng Khang Tạng, Hắc Giáo (đạo Bon - một tôn giáo bản địa cổ truyền của Tây Tạng, người Hoa thường gọi là Bổng giáo) hoạt động rất mạnh, Nặc Na liền suất lãnh quân binh đánh nhau với họ nhiều lần nhưng không thắng. Theo môn đồ, để báo thù, ông ta đã lập đàn Đại Phẫn Nộ Kim Cang Pháp trong vòng sáu năm để sát hại năm vị pháp sư của Hắc Giáo và hơn một ngàn “thổ phỉ” Hắc giáo (Sic! Không rõ đây là loại Mật giáo nào! Nếu là Mật Tông Phật giáo thì vẫn phải tuân theo tông chỉ từ bi của Phật giáo. Khi hành nhân Mật Tông khởi lên tâm tàn độc, dù đã đạt thành tựu thì những thành tựu ấy đều mất hết! Cũng không thể nào nói “vì tâm từ bi mà sát hại người khác” được!) Tổng Đốc Tứ Xuyên thời ấy là Triệu Nhĩ Tốn trọng dụng Nặc Na, giao toàn thể vùng Xương Đô cho Nặc Na cai trị. Sau Cách Mạng Tân Hợi (1911), Trung Hoa Dân Quốc thành lập, Tây Tạng tuyên bố độc lập, chánh quyền Lhasa muốn tách Xương Đô khỏi ảnh hưởng Trung Hoa. Chính Nặc Na đã cùng với các tướng Bành Nhật Thăng, Trương Nghị Tướng v.v... liên minh đánh bại quân đội của Đại Lai Lạt Ma thứ 13. Do Bành Nhật Thăng đột ngột trở giáo đầu hàng quân Đại Lai Lạt Ma, Nặc Na bại trận, phải trốn khỏi Xương Đô, tập hợp tàn quân, liên kết với đại lạt-ma Giang Kha Tùng Minh tiếp tục đánh nhau với quân Tây Tạng, nhưng lại thua trận, bị giải về Lhasa, bị giam cầm dưới địa huyệt nhiều ngày. Về sau, Nặc Na thừa cơ trốn thoát qua Nepal (Các tín đồ bịa chuyện ông ta dùng thần thông tàng hình ra khỏi nhà lao). Trong quá trình lang thang khất thực, do dâng thuốc chữa lành bệnh cho con gái tiểu vương trong vùng nên được vị vua ấy giúp đỡ đưa sang Ấn Độ. Ở Ấn Độ một thời gian, ông ta ngồi thuyền sang Trung Hoa tới Hương Cảng rồi lên Bắc Kinh vào năm 1924. Nặc Na nhiều lượt đến cầu cạnh Mông Tạng Viện và Chấp Chánh Phủ của Trung Hoa Dân Quốc, xin họ cấp viện binh để giành lại Tây Khang, nhưng do không thông tiếng Hán, quần áo rách nát nên Nặc Na luôn bị đối xử lãnh đạm, xua đuổi. Về sau, gặp được Lý Huyền của Chấp Chánh Phủ giúp đỡ, đưa về sống ở Ung Hòa Cung, tiến cử lên Đại Chấp Chánh Đoàn Kỳ Thụy. Cũng trong năm ấy, do tranh chấp quyền bính với Đại Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma phải tỵ nạn sang Trung Hoa. Liên kết với Ban Thiền, Nặc Na vận động, dựa vào thế lực quân đội Quốc Dân Đảng, trở về Trùng Khánh (Tứ Xuyên) để mưu chiếm lại Tây Khang. Năm 1928, Nặc Na được chánh quyền Nam Kinh cử làm Ủy Viên của Mông Tạng Ủy Viên Hội tại Bắc Kinh. Rồi được cử làm Tây Khang Tuyên Úy Sứ vào năm 1935 và mất vào năm sau tại Trùng Khánh trước khi hoàn thành giấc mộng tái chiếm Tây Khang. Hiện thời, những môn đồ của ông ta tạo thành một tông phái riêng với danh xưng Tây Tạng Hồng Giáo Viên Giác Tông. Thủ lãnh hiện thời của giáo phái này là thượng sư Trí Mẫn và Huệ Hoa, hoạt động rất mạnh tại Đài Loan và Bắc Mỹ nhờ tuyên truyền nhị vị Thượng Sư có thể chú nguyện khiến cho tín đồ được vãng sanh Cực Lạc, lưu xá-lợi đủ màu. Phái này sùng bái Thượng Sư đến mức đặt hình họ ngang hàng với các vị Phật, Bồ Tát trên bàn thờ!

195 Hà Đạo Toàn (1319-1399) là đạo sĩ người huyện Tứ Minh, tỉnh Chiết Giang, sống vào cuối đời Nguyên đầu đời Minh, đạo hiệu là Vô Cấu Tử, còn có hiệu là Tùng Khê Đạo Nhân, vân du đến núi Chung Nam, ẩn cư trên Khuê Phong, viết rất nhiều bản chú giải cho kinh Đạo Giáo, được môn nhân sưu tập thành bộ Tùy Cơ Ứng Hóa Lục. Do bản Tâm Kinh Chú Giải của ông ta đã lập lờ giữa Phật học và thuật tu luyện Đạo Giáo nên rất nhiều người không xét kỹ cứ tác phẩm ấy như một bản chú giải Tâm Kinh quan trọng.

196 Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Bàng Long Uẩn sang Tây Giang tham yết Mã Tổ nói: “Người chẳng cùng với vạn pháp làm bạn là ai?” Mã Tổ Đạo Nhất bảo: “Đợi ông uống một hơi cạn hết nước Tây Giang, ta sẽ nói cho ông nghe”.

197 Theo Ngũ Đăng Hội Nguyên, ngài Đại Huệ được nói ở đây chính là ngài Đại Huệ Tông Cảo (1089-1163). Thời bấy giờ, ngài Viên Ngộ Khắc Cần là bậc Tông tượng trong nhà Thiền thấy Tông Cảo là pháp khí muốn tiếp độ, bèn nói: “Tăng hỏi ngài Vân Môn: ‘Chỗ xuất thân của chư Phật là như thế nào?’ Đáp: Nước chảy trên Đông Sơn”. Ngài Tông Cảo không đáp được; tham thiền trọn một năm vẫn chưa thấu triệt. Đến một bữa, ngài Viên Ngộ Khắc Cần được một vị quan nhân thỉnh đến dự cỗ chay. Ngài lại giảng: “Tăng hỏi ngài Vân Môn: ‘Chỗ xuất thân của chư Phật là như thế nào?’ Đáp: Nước chảy trên Đông Sơn. Như vậy là Thiên Ninh không nói cặn kẽ. Nếu có ai hỏi: ‘Chỗ xuất thân của chư Phật là như thế nào?’ Chỉ trả lời: ‘Gió Nồm từ Nam thổi, điện gác thành mát mẻ!” Ngay khi ấy ngài Đại Huệ Tông Cảo liền triệt ngộ.

198 Thần Tú (605-706) là Thiền Tăng đời Đường, người Úy Thị, Biện Châu (nay thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam). Thông thạo kinh sử từ bé, học rộng, nghe nhiều, nhưng chán sớm trần thế, tầm sư học đạo. Sư đến chùa Đông Sơn ở Song Phong, Ngạc Châu, tham yết Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, cam chịu nhọc nhằn, làm việc tạp dịch để cầu đạo. Tổ Hoằng Nhẫn cũng rất coi trọng, cử làm thầy Giáo Thọ cho đại chúng. Do vậy được đại chúng coi là người bậc nhất trong thường trụ, thường gọi là Tú Thượng Tọa. Năm Thượng Nguyên thứ hai (675) đời Đường Cao Tông, Tổ Hoằng Nhẫn thị tịch vào tháng Mười, Sư sang Giang Lăng truyền pháp tại Đương Dương Sơn, rất được tăng chúng miền Bắc trọng vọng. Võ Tắc Thiên nghe tiếng, triệu vào trụ trì chùa của hoàng cung, xuống chiếu xây chùa Độ Môn ở Đương Dương để làm đạo tràng cho sư hoằng pháp. Sư cũng tâu lên Võ Tắc Thiên xuống chiếu triệu Lục Tổ Huệ Năng vào chầu, nhưng ngài Huệ Năng cố từ, viện cớ chỉ có duyên với Lãnh Nam. Khi Sư mất, được triều đình phong tặng thụy hiệu Đại Thông Thiền Sư, trở thành vị thiền sư đầu tiên được triều đình sắc phong. Đạo pháp của Sư rất thịnh ở Trường An, Lạc Dương, Sư chủ trương thuyết Tiệm Ngộ, nên thường có câu “Nam Đốn Bắc Tiệm”. Môn nhân của Sư là Đạo Duệ đã truyền Thiền Học sang Nhật Bản sớm nhất. Thế nhưng dòng Thiền của Sư chỉ truyền được vài đời rồi suy.

199 Lệnh Từ: Tiếng gọi mẹ người khác nhằm tỏ ý kính trọng.

200 Ở Trung Hoa thời xưa chia một ngày đêm làm mười hai phần, mỗi phần đó gọi là một Thời Thần (hoặc gọi tắt là Thời). Mỗi Thời Thần bằng hai tiếng đồng hồ hiện thời và được gọi tên theo Địa Chi (Tý, Sửu, Dần…)

201 Trương Hoành Cừ (1020-1077), tên thật là Tải, tự Tử Hậu, sống vào thời Bắc Tống, được người đời gọi là Hoành Cừ tiên sinh, chủ trương quân sự hóa dân chúng, là một nhà tư tưởng thuộc phái Lý Học vùng Quan Trung. Cũng giống như các nhà Lý Học khác, Trương Tải chủ trương bản thể của vũ trụ là Khí, do Khí tụ tán mà có sanh diệt, tạo thành các sự vật hiện tượng. Tuy không nổi tiếng bằng Châu Hy và anh em Trình Hạo, Trình Di, Trương Tải cũng kịch liệt bài bác Phật giáo lẫn Đạo giáo là hư vô. Ông ta chỉ tin tưởng vào vật chất hiện hữu trước mắt nên được mệnh danh là triết gia thuộc trường phái duy vật. Câu nói đặc trưng cho quan điểm của ông ta là: “Tạo hóa tạo ra mọi vật không gì chẳng giống nhau. Nhưng vạn vật tuy nhiều, thật sự không có vật nào ra ngoài Âm -Dương. Do vậy biết rằng trời đất biến hóa chỉ do hai đầu mối ấy mà thôi!”

202 Lý Nhị Khúc (1627-1705), tên thật là Ngung, tự Trung Phù, Nhị Khúc là hiệu, người huyện Châu Chí tỉnh Thiểm Tây. Xuất thân bần hàn, do chăm học nên thành đạt, cùng với Hoàng Tông Hy, Tôn Kỳ Phùng được coi là ba đại danh Nho vào thời Minh - Thanh, được vua Khang Hy ban tặng mỹ hiệu Quan Trung Đại Nho. Ông đề cao tư tưởng trọng lễ, cho rằng chỉ có Nho giáo mới đem lại trật tự cho xã hội loạn lạc vào cuối đời Minh. Do quá trọng lễ, ông trở nên chú trọng lễ nghi đến mức phô trương phù phiếm, đề ra những nghi thức tang lễ, cưới hỏi, giỗ chạp rườm rà, trịnh trọng quá mức. Đến giữa thời Thanh, những nghi lễ do Nhị Khúc đề xướng được áp dụng khắp xã hội. Đã thế vào mỗi dịp năm mới, các vị thông thạo về lễ trong toàn huyện đều nhóm về huyện lỵ để diễn tập, bàn định lễ nghi, quy định nhạc khúc thống nhất nhằm tiêu chuẩn hóa lễ nhạc. Từ quan điểm tốt đẹp đề cao luân thường đạo lý ban đầu, rốt cuộc biến thành lễ nghi cứng ngắc nhằm mục đích phô trương, hoàn toàn chẳng có lợi ích gì!

203 Xin đọc Lời tựa trình bày duyên khởi của Đôn Luân Liên Xã” (được đánh số 73) trong Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, cuốn Hạ.

204 Bốn vị này đều hoằng pháp tại kinh đô Trường An đời Đường. Trường An nay là thành phố Tây An thuộc tỉnh Thiểm Tây.

205 Đây chính là bài “Luận về tên gọi của Tam Dư Đức Đường” (bài số 17 thuộc phần Tạp Trước) trong Ấn Quang Văn Sao Tục Biên quyển Hạ.

206 Do chữ Nam Mô (南無) là phiên âm từ xưa của chữ Namo tiếng Phạn (do trước thời Tống, chữ Vô vẫn đọc với vận mẫu M). Vì vậy, các bản kinh sách thường dùng chữ Nạp-mạc (納莫: Namó, thường đọc trại thành Nạp Mồ) hoặc để chú âm cách đọc cho đúng chữ Nam Mô. Ông Ninh Đức Tấn chấp chặt vào mặt chữ nên đọc là Nam Vô (Nánwú).

207 Chữ Tể Quan được hiểu theo ba nghĩa:

1) Tể Quan là quan Trủng Tể thuộc đời Châu, còn gọi là Thái Tể, hoặc còn gọi đầy đủ là Thiên Quan Trủng Tể, được lập ra dưới thời Tây Châu, vị trí thấp hơn Tam Công, nhưng đứng đầu Lục Khanh. Sách Thượng Thư giảng: “Trủng Tể nắm quyền cai trị đất nước, thống lãnh bá quan, trông khắp bốn biển”. Khi vua còn thơ ấu, Trủng Tể nắm quyền nhiếp chánh.

2) Là từ ngữ chỉ chung các quan chức.

3) Dưới thời Thanh, chữ Tể Quan hầu như thường dùng để chỉ quan huyện. Lương Chương Cự (một danh sĩ cuối đời Thanh) thường dùng chữ Tể Quan theo nghĩa này trong các tác phẩm của ông, như trong tập Quy Điền Tỏa Ký: “Ngày tôi ở Tô Châu, tới bái kiến huyện lệnh đất Ngô, ông ta nói: ‘Ta đỗ Tiến Sĩ ba chục năm trước, cho đến khi đậy nắp hòm vẫn mang thân Tể Quan” (ý nói chỉ làm tới chức quan huyện mà thôi).



Theo mạch văn, chữ Tể Quan ở đây được hiểu theo nghĩa thứ hai.

208 Tức bài Thư Lưu Vũ Trù Hành Hiếu Truyện Hậu (viết sau cuốn Hành Hiếu Truyện của Lưu Vũ Trù), ghi những cảm nghĩ của Lưu Bá Ôn (Lưu Cơ) về tác phẩm Hành Hiếu Truyện.

209 Linh Phong Tông Luận còn có tên là Ngẫu Ích Đại Sư Tông Luận, Ngẫu Ích Tông Luận, hoặc Linh Phong Ngẫu Ích Đại Sư Tông Luận, gồm 10 quyển, do Thành Thời đời Minh biên tập, tập hợp đủ mọi thể loại như nguyện văn, pháp ngữ, vấn đáp, sớ, truyện v.v… Qua những tác phẩm ấy có thể thấy được quan điểm, nhận định về các Tông của đại sư Ngẫu Ích nên mới gọi là Tông Luận.

210 Hộ là tên một huyện đã từ thời cổ ở Thiểm Tây, thuộc vùng phụ cận thành phố Tây An (cố đô Trường An), dựa lưng vào núi Tần Lĩnh, phía nam sông Vị, thuộc phía Đông của Tây An. Đất Hộ vốn có tên cổ là Hỗ Thị Quốc được thành lập vào thời nhà Hạ, đến đời Tần đất Hỗ bị đổi tên thành Hộ.

211 Bạch khuê là một loại ngọc trắng ngần, thường được cắt thành miếng mỏng để làm đồ trang sức.

212 Tâm Sở (Caitta hay Caitasika) còn dịch là Tâm Số, Tâm Sở Hữu Pháp, Tâm Sở Pháp, Tâm Số Pháp, tức là những điều phụ thuộc vào Tâm Vương (Tâm Vương là thuật ngữ trong Duy Thức chỉ bản thể của sáu thức hoặc tám thức, tức là chủ thể của những tác dụng tinh thần). Nói cách khác, Tâm Sở là những tác dụng, những thuộc tính của Tâm Vương. Hay nói thông tục hơn là những tác dụng tinh thần phức tạp. Theo Đại Thừa Duy Thức Luận, Tham, Sân, Si là ba Tâm Sở được xếp vào tiểu loại Phiền Não trong sáu loại Tâm Sở (Biến Hành, Biệt Cảnh, Thiện, Phiền Não, Tùy Phiền Não, Bất Định).

213 Vô Tưởng Thiên (Asamjñisattvāh), còn dịch là Vô Tưởng Hữu Tình Thiên, Vô Tưởng Chúng Sanh Thiên, Thiểu Quảng Thiên, Phước Đức Thiên, là một tầng trời thuộc Sắc Giới, là cảnh giới cảm được của người tu chứng Vô Tưởng Định. Chư thiên cõi trời này do đã diệt sạch niệm tưởng, chỉ còn sắc thân và Hành Uẩn, nên gọi là Vô Tưởng Thiên. Đây là cảnh giới tối cao của ngoại đạo Bà La Môn. Chư thiên cõi này thọ mạng năm trăm đại kiếp, do không còn tưởng niệm nên thường đắm chìm trong niềm vui Vô Tưởng Định, không có ý cầu xuất thế, không cảm nhận nỗi khổ vô thường

214 Bắc Câu Lô Châu (Uttara-kuru) còn dịch là Uất Đan Việt, Bắc Đan Việt v.v… dịch nghĩa là Thắng Xứ, Thắng Sanh, Cao Thượng là một trong bốn đại châu quanh núi Tu Di. Theo Đại Lâu Thán Kinh, châu này thuộc biển nước mặn phía Bắc núi Tu Di, hình dáng như cái hộp đậy nắp, bốn phía vuông vắn, được bao quanh bằng bảy ngọn núi vàng và núi Đại Thiết Vi, đất bằng vàng ròng, bằng phẳng, sạch sẽ, không hề có gai góc, đủ mọi thứ đẹp đẽ, ngày đêm thường sáng sủa. Người ở châu này hình dạng giống nhau, cao bằng nhau, luôn sống yên vui, không bị lệ thuộc, hoạn nạn, tranh chấp. Con người sống không cần nhà cửa, không có hôn nhân, gia đình, sanh con ra không cần nuôi. Mang thai bảy ngày liền sanh, mang con ra bỏ bên vệ đường. Ai đi qua cũng giơ tay đút vào mồm đứa trẻ, sữa từ đầu ngón tay liền tiết ra; đến ngày thứ bảy, đứa trẻ đã cao lớn bằng người trưởng thành. Tuổi thọ ở châu này là một ngàn năm, sau khi mất được sanh lên trời Đao Lợi. Hơn nữa, trong bốn đại châu, riêng châu này không có địa ngục! Do quá sung sướng, vô tư lự, không phải lo ăn lo mặc, người châu này không cảm nhận được sự vô thường, không có ý thoát ly tam giới.

215 Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập là một bộ từ điển Phạn - Hán, do sư Pháp Vân biên soạn vào đời Tống, bắt đầu từ năm Thiệu Hưng 13 (1143) đời Tống Cao Tông, qua hai mươi năm thu thập tài liệu và chỉnh lý mới hoàn thành. Nội dung gồm hơn 2.040 từ ngữ tiếng Phạn trọng yếu trong kinh Phật, chia làm sáu mươi bốn thiên. Mỗi thiên đều có lời Tổng luận, trình bày đại ý, kế đến nêu âm dịch tiếng Phạn, nêu rõ những cách dịch âm khác nhau, xuất xứ và giải thích ý nghĩa từng từ ngữ.

216 Giáo Thừa Pháp Số do Viên Tịnh biên tập vào đời Minh. Do thấy các sách Đại Thừa Pháp Số, Hiền Thủ Pháp Số còn thiếu sót nhiều nên Sư đã dựa trên quan điểm của Tông Thiên Thai thâu thập tất cả những pháp số (những thuật ngữ trong Phật giáo như Tam Quy, Nhất Thừa, Ngũ Giáo, Lục Độ v.v…) trong các kinh điển Phật giáo và trước tác của bách gia chư tử biên soạn thành sách này. Sách bắt đầu bằng từ ngữ “nhất tâm” và kết thúc bằng “bát vạn tứ thiên pháp môn”. Trong ấy, cũng giải thích những danh số của các ngoại điển (những kinh sách không thuộc Phật giáo).

217 Đại Minh Tam Tạng Pháp Số do sư Nhất Như biên soạn, thường được gọi tắt là Đại Minh Pháp Số, hoặc Tam Tạng Pháp Số, nội dung gồm những pháp số xuất phát từ Tam Tạng kinh điển, cũng khởi đầu bằng từ ngữ “nhất tâm” và kết thúc bằng “bát vạn tứ thiên pháp môn”, Tổng cộng 1.555 từ ngữ, ghi rõ xuất xứ từ kinh luận trước thuật nào, đồng thời cũng dẫn giải những cách giải thích khác nhau của các Tông (nếu có).

218 Thích Thị Kê Cổ Lược (còn gọi là Thích Thị Kê Cổ Lục, hoặc gọi tắt là Kê Cổ Lục), do ngài Bảo Châu Giác Ngạn soạn vào năm Chí Chánh 14 (1354) đời Nguyên, là một bộ biên niên sử Phật giáo, lược thuật lịch sử truyền thừa Phật giáo từ khi mới truyền vào Trung Hoa cho đến đời Tống. Sách bao gồm biểu đồ các triều đại Trung Hoa, biểu đồ Thích Ca Văn Phật Tông Phái Tổ Sư Truyền Thừa của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, sự tích của Phật Thích Ca, hai mươi tám vị Tổ Tây Thiên, cũng như hành trạng của các vị cao tăng, cổ đức như Đạo An, Cưu Ma La Thập, Phó Đại Sĩ, Đạt Ma v.v… cũng như lược sử các Tông Từ Ân, Hiền Thủ v.v… Đến năm Sùng Trinh 11 (1638), ngài Huyễn Luân soạn Thích Giám Kê Cổ Lược Tục Tập (3 quyển) để chép tiếp những sự tích Phật giáo từ Chí Nguyên nguyên niên (1264) đến năm Thiên Khải thứ bảy (1627) đời Minh.

219 Tăng đính: Tăng thêm những từ ngữ cần thiết, viết thêm lời giải thích nếu cần, đính chánh những chỗ sai, lược bỏ bớt những chỗ rườm rà không cần thiết.

220 Đông Tam Tỉnh là ba tỉnh được chia ra từ vùng đất Mãn Châu sau khi người Thanh cai trị Trung Hoa gồm Liêu Ninh, Cát Lâm và Hắc Long Giang. Khi ấy, quân phiệt Nhật quan niệm “dục bá Trung Hoa, tiên chiếm Đông Tam Tỉnh; dục bá Đông Á, tiên chiếm Trung Hoa” (muốn làm bá chủ Trung Hoa, trước hết chiếm Đông Tam Tỉnh. Muốn làm bá chủ Đông Á, trước hết phải chiếm Trung Hoa).

221 Nguyên văn “bôi thủy xa tân”, ngụ ý phương tiện, sức lực ít ỏi, chẳng thể giúp đỡ hay giải quyết vấn đề được! Thành ngữ này xuất phát từ một câu nói trong thiên Cáo Tử của sách Mạnh Tử: “Kim chi vi nhân do dĩ nhất bôi thủy dĩ cứu nhất xa tân chi hỏa dã” (Người bây giờ vẫn cứ dùng một chén nước để dập tắt đống lửa do cả một xe củi bị cháy).

222 Chữ “tiếm dụng” ở đây chỉ kẻ tại gia mà đắp y Ngũ Điều hay Thất Điều của hàng xuất gia, chứ không đắp Mạn Y của hàng tại gia. Do vượt phận, sử dụng phi lễ pháp phục của tứ chúng xuất gia (tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, sa-di, sa-di-ni) nên gọi là “tiếm dụng”.

223 Chữ “Tăng bào” ở đây chỉ áo Hải Thanh (áo tràng bốn vạt, rộng tay), nhằm phân biệt với loài áo dài hai vạt, tay hẹp (trường sam) mà nam giới Trung Hoa thường mặc thời đó. Trường sam thường may bằng vải trơn, không thêu thùa, không viền cổ, gấu áo hay cửa tay áo. Thông thường khi mặc trường sam, nam giới thường khoác thêm một cái áo ngắn sát nách (Mã Quải) bằng vải quý, thêu viền đẹp đẽ ra ngoài trường sam.

224 Ma Lợi Chi Thiên (Marīci-Deva), còn được phiên âm là Ma Lý Chi Thiên, Mạt Lợi Chi Thiên, dịch nghĩa là Oai Quang Thiên, Dương Diễm Thiên. Theo Mật giáo, vị trời này có sức thần thông đại tự tại, thường ẩn thân ngầm gia hộ cho con người tiêu trừ chướng nạn, tăng trưởng lợi ích. Theo Mạt Lợi Chi Đề Bà Hoa Man Kinh và Đại Ma Lý Chi Bồ Tát Kinh, vị trời này vốn là một vị Bồ Tát, nhằm cứu độ chúng sanh nên hiện thân thiên nữ, ba mặt, sáu tay, cưỡi lợn.

225 Gọi đầy đủ là Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn (tức bài chú Om Mani Padme Hum), xuất phát từ kinh Phật Thuyết Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương (bốn cuốn) do ngài Thiên Tức Tai dịch vào đời Tống.

226 Đại Sám Hối chính là nghi thức Hồng Danh Bảo Sám do ngài Kim Cang Pháp Sư Bất Động chùa Hộ Quốc Nhân Vương người nước Tây Hạ soạn vào đời Tống. Do sư hoằng truyền Kim Cang Thừa, thường tụng kinh Hộ Quốc Nhân Vương rất linh nghiệm nên vua Tây Hạ sắc tứ ngôi chùa ngài Trụ Trì là Hộ Quốc Nhân Vương Tự. Sư cũng chính là người đã soạn nghi thức Mông Sơn Thí Thực. Bài sám hối này gồm 108 lễ tương ứng với 108 món phiền não. Danh hiệu của tám mươi tám vị Phật trong bài sám hối này gồm năm mươi ba vị Phật trích từ kinh Quán Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ Tát và danh hiệu của ba mươi lăm vị Phật trích từ pháp hội Quyết Định Tỳ Ni trong kinh Bảo Tích (theo Nhị Khóa Hiệp Giải).

227 Ngạnh Mễ (hay còn gọi là Canh Mễ) là một loại gạo nếp có tên khoa học là Oryza Sativa, thuộc giống lúa không cần nhiều nắng, chín khá muộn khi trời đã trở lạnh. Hạt gạo tròn ngắn, rất dẻo, ăn rất ngon và đậm. Giống lúa này được trồng chủ yếu ở miền Tây Nam và Bắc Trung Quốc. Do thời gian sinh trưởng của giống lúa này khá dài nên mỗi năm chỉ gieo được một mùa. Ở Đài Loan cũng có giống lúa này, nhưng không ngon bằng.

228 Tiểu Mễ (Foxtail Millet) là một loại kê, thường được gọi bằng từ ngữ Tắc hoặc Lật vào thời cổ. Giống này vốn được trồng nhiều ở phương Bắc Trung Quốc, nhất là quanh lưu vực sông Hoàng, là lương thực chủ yếu của dân chúng vào thời Xuân Thu Chiến Quốc. Giống kê này chịu hạn, sản lượng cao, có nhiều loại trắng, hồng, vàng, đỏ, cam, tím…

229 Một thưng (thăng) đời Thanh bằng một lít hiện thời.

230 Tiêm là dụng cụ để nướng thuốc phiện trước khi hút. Thuở ấy thuốc phiện bán trong hộp, trông gần giống như hộp đựng cao. Người hút dùng một dụng cụ dài nhọn bằng bạc, thường gọi là que tiêm (yên thiêm), để vít lấy một ít thuốc từ trong hộp đựng thuốc phiện (yên hạp), rồi vừa xoay vừa nướng viên thuốc trên ngọn đèn dầu đậu phộng (yên đăng). Khi nướng đủ mức sẽ nhồi vào dọc tẩu (yên thương) để hút.

231 Nguyên văn Hàm (thường dịch là Hòm), một Hàm gồm mười quyển. Khi xưa, in kinh thường chia theo đơn vị quyển, mỗi quyển chừng 40-50 trang, mỗi trang từ 15 đến 20 dòng, mỗi dòng từ 10 đến 12 chữ.

232 Đây là một hủ tục ở thôn quê Trung Hoa thuở xưa. Trong năm đói kém, nếu sanh ra con gái, đứa bé ấy sẽ bị bỏ mặc cho chết đói hay trấn nước cho chết, chỉ giữ con trai lại với mục đích nối dòng. Cách này cũng áp dụng nếu người mẹ sanh quá nhiều con gái nhưng chưa sanh được con trai.

233 Kinh Bi Hoa (Karunā-Pundarīka-Sūtra), 10 quyển, chia thành sáu phẩm, do ngài Đàm Vô Sấm (Dharmaraksa) dịch vào thời Bắc Lương. Kinh này nói về nhân địa trong thời quá khứ của Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, A Súc Phật v.v… cũng như một loạt những vị Bồ Tát như Quán Âm, Thế Chí, Phổ Hiền, Văn Thù. Điểm đặc biệt của kinh này là ca ngợi lòng đại bi vô tận của đức Như Lai đã thị hiện thành Phật trong uế độ. Theo kinh này, vua Vô Tránh Niệm do đại thần Bảo Hải khuyến cáo, bèn đối trước Bảo Tạng Như Lai phát nguyện kiến lập Tịnh Độ, được Bảo Tạng Như Lai thọ ký sẽ thành Phật hiệu là Vô Lượng Thọ (Amitāyus). Một ngàn vương tử của vua đều noi gương phát nguyện thành Phật, lần lượt được Phật Bảo Tạng thọ ký. Trưởng tử là vương tử Bất Thuấn sau này thành Quán Âm Bồ Tát, vương tử thứ hai là Ni Ma thành Đắc Đại Thế, vương tử Vương Chúng trở thành Văn Thù Sư Lợi v.v… Tám mươi người con và ba ức đệ tử của Bảo Hải cũng thệ nguyện thành Phật, lần lượt trở thành những vị Phật trong uế độ. Bảo Hải phát ra năm trăm nguyện, thề sẽ thành Phật trong cõi đời ác trược, được Bảo Tạng Như Lai thọ ký sẽ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật. Kinh này còn có một bản dịch khác là Đại Thừa Bi Phân Đà Lợi Kinh, gồm tám quyển, mười ba phẩm, được dịch vào đời Tần, nhưng đã mất tên người dịch.

234 Vị Tổ của ông Tiền Sĩ Thanh được nói ở đây chính là Tiền Vũ Túc Vương tức Ngô Việt Thái Tổ, tên thật là Tiền Liêu (852-932), tự Cụ Mỹ (có sách ghi là Cự Mỹ), người huyện Lâm An, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, người sáng lập ra nước Ngô Việt vào thời Ngũ Đại. Vào cuối đời Đường, do theo tướng quân Đổng Xương dẹp yên loạn Hoàng Sào, Tiền Liêu lãnh chức Trấn Hải Tiết Độ Sứ. Sau đó, Tiền Liêu đánh bại Đổng Xương, chiếm cứ mười ba châu huyện thuộc vùng Lưỡng Chiết (nay là toàn bộ tỉnh Chiết Giang, phần Đông Nam của tỉnh Giang Tô và phần Đông Bắc tỉnh Phước Kiến. Những vùng đất này thuộc lãnh thổ nước Ngô và Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, nên khu vực này được gọi chung là Ngô Việt), được phong làm Ngô Việt Vương. Tiền Liêu chú trọng phát triển nông nghiệp vùng Ngô Việt, cho đắp đê trên sông Tiền Đường từ năm 907 đến 932 để ngừa nạn lụt cũng như thiết kế mạng lưới thủy lợi nhằm điều hòa mực sông. Chuyện bắn sóng để buộc thủy triều rút ra xa được tiến hành trong khoảng thời gian này. Nước Ngô Việt tồn tại từ năm 907 đến 978. 

235 Trong thời ấy, nhằm lúc nhà Đường suy vong, do chiến tranh liên miên, chánh quyền không quan tâm đến vấn đề nông tang. Sau khi dẹp yên Đổng Xương, Tiền Liêu mới lên nắm quyền xứ Ngô Việt. Tây Hồ cỏ dại, lau lách phủ kín, trông rất hoang vu, quạnh quẽ. Có một tay thuật sĩ khuyên Tiền Liêu nên lấp bằng Tây Hồ, dựng vương phủ trên ấy, sẽ được hưởng vượng khí ngàn năm. Tiền Liêu không chấp nhận đề nghị ấy, nói: “Trăm họ nhờ nước hồ này để tưới ruộng, không có nước sẽ không có dân. Huống chi sau năm trăm năm sẽ có dòng họ khác dấy lên, làm sao có chuyện cả ngàn năm mà không có chân chúa trong thiên hạ được?” Vua cho lệnh lập một đội quân chuyên trông coi việc khai quang, nạo vét hồ cho sạch sẽ, đồng thời đào thêm ba cái ao chung quanh để trữ nước phòng khi trời hạn hán.

236 Ban Thiền Lạt Ma (Pan-chen-lama) là một vị lạt-ma cao cấp của Phật giáo Tây Tạng Hoàng Mạo phái (Gelugpa), chỉ kém Đại Lai Lạt Ma. Ban Thiền (Panchen) có nghĩa là bậc trí huệ, hoặc đại bác học. Chữ Panchen vốn do chữ Phạn Pandita (học giả) kết hợp với chữ Chenpo (vĩ đại) trong tiếng Tây Tạng. Đến đời Khang Hy, vị này được sắc phong thêm mỹ hiệu Ngạch Nhĩ Đức Ni (Erdeni: Quang Hiển). Khi Đại Lai Lạt Ma đời thứ năm (Ngawang Lobsang Gyatso, 1617-1682) lên ngôi quốc vương Tây Tạng, đã phong tặng cho thầy mình là Lobsang Chökyi Gyalsten (1570-1662), tu viện trưởng tu viện Tashilhunpo, tước hiệu Panchen. Do Đại Lai Lạt Ma tự xưng là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát; đương nhiên, thầy của ông ta cũng được đề cao là hóa thân của A Di Đà Phật! Khi Lobsang Chökyi chết, chính Đại Lai Lạt Ma thứ năm đã chủ trì công cuộc tìm hóa thân của Lobsang và dòng truyền thừa Panchen bắt đầu từ đó. Đến đời Ban Thiền Lạt Ma thứ chín (Thubten Choekyi Nyima, 1833-1937), do bất hòa, tranh chấp quyền bính với Đại Lai Lạt Ma thứ 13, Ban Thiền phải chạy trốn sang Nội Mông Cổ, rồi sang Bắc Kinh và sống ở Trung Hoa mãi cho đến khi mất. Như vậy, ông Tiền Sĩ Thanh đã quy y với vị Ban Thiền Lạt Ma thứ chín này.

237 Đài Đầu là cách viết tỏ vẻ tôn kính trong những công văn thời cổ, chừa một khoảng trống trước khi viết tên hay chức vụ của người được xưng hô. Chẳng hạn, nếu viết “Độc Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Hữu Cảm” (Cảm nghĩ khi đọc Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao) thì giữa chữ Độc và chữ Ấn Quang phải chừa tối thiểu hai khoảng trống. Cách viết này còn gọi là Na Đài. Một cách thể hiện tôn trọng hơn nữa gọi là Bình Đài, tức là khi viết theo lối Na Đài xong, bỏ một dòng trống trước khi viết tiếp dòng thứ hai.

238 Tức tục lệ ăn thịt người của những bộ lạc cổ sơ ở châu Phi.

239 Xuyên Sơn (gọi đủ là Xuyên Sơn Giáp) thường được biết dưới tên Trút (Pangolin) hay Tê Tê, là một loại thú ăn kiến, thân dài, đuôi dài, mũi nhọn dài, toàn thân phủ đầy những tấm vảy cứng trông như bộ giáp, thường thấy ở Á Châu. Theo Wikipedia, cái tên Pangolin xuất phát từ chữ Pengguling (vật cuộn tròn) trong tiếng Mã Lai. Trút thường hoạt động kiếm ăn vào ban đêm, ngày cuộn tròn lại ngủ. Khi gặp nguy hiểm, chúng cũng cuộn tròn mình lại, dựng những tấm vảy cứng sắc lên để tự vệ. Trút có bốn chân ngắn nhưng rất sắc và mạnh, có thể đào tung những ụ mối, tổ kiến kiên cố để kiếm mồi, nên người Hoa mới gọi nó là Xuyên Sơn (xuyên qua núi). Trút thường có lưỡi dài giúp chúng có thể quét lưỡi vào những ngõ ngách trong tổ kiến, ổ mối để ăn những con mối non, kiến non. Người Hoa thường tin thịt Trút rất bổ dưỡng và nhiều dược tính. Họ tin vảy Trút có tác dụng chữa sưng phồng, luân lưu huyết khí và giúp phụ nữ mới sanh có nhiều sữa nên Trút bị săn bắt tàn nhẫn, gần như bị tuyệt chủng ở Trung Hoa.

240 Trương Trọng Cảnh tên thật là Cơ, tự là Trọng Cảnh, là một y sư nổi tiếng thời Đông Hán, không rõ sanh và mất vào năm nào. Căn cứ theo những dữ kiện được ghi chép về cuộc đời ông, người ta chỉ có thể phỏng đoán ông sanh vào năm 150 và mất vào khoảng năm 219. Ông đỗ Hiếu Liêm, làm Thái Thú quận Trường Sa. Do vậy, thường được gọi là Trương Trường Sa. Trong thời gian ấy, chánh quyền Đông Hán suy yếu, giặc giã nổi lên, tật dịch lưu hành, gia đình Trương Trọng Cảnh cũng bị bệnh dịch chết gần hết. Do vậy, ông phát phẫn quyết chí nghiên cứu y dược. Bộ Thương Hàn Tạp Bệnh Luận của ông được coi là một bộ sách y học đầu tiên được biên soạn đầy đủ theo phương pháp khoa học và được sắp xếp một cách hệ thống, hợp lý nhất của Trung Hoa (gồm bệnh án, triệu chứng, nguyên nhân, cách điều trị và lý luận điều trị). Bộ sách này được rất nhiều y sư đời sau ra sức chú giải. Tác phẩm Kim Quỹ Yếu Lược của ông cũng được đánh giá rất cao nhưng không nổi tiếng bằng.

241 Quan danh: Tên đặt khi làm lễ Nhược Quan (20 tuổi).

242 Huệ Kinh (1548-1618) là một vị cao tăng thuộc Tông Tào Động, sống vào đời Minh, người ở Phủ Châu, Sùng Nhân (nay là huyện Sùng Nhân, tỉnh Giang Tây), tự là Vô Minh, Đã có chí xuất gia từ nhỏ, đến Lẫm Sơn xin tu pháp với ngài Uẩn Không Thường Trung ba năm, sau khi có chỗ tỉnh ngộ, bèn ẩn tu tại Nga Phong ba năm. Một bữa, khi cố sức dời tảng đá, đá trơ trơ không lay động, đang trong lúc tận lực xô đẩy, Sư hoát nhiên khai ngộ, trình sở ngộ lên ngài Thường Trung, được ấn khả. Đến năm 27 tuổi Sư mới thọ Cụ Túc Giới, từ đấy suốt hai mươi bốn năm không rời Nga Phong. Về sau, Sư đến yết kiến Tổ Liên Trì, cũng như đến lễ tháp Tổ Bồ Đề Đạt Ma ở Thiếu Lâm, lên kinh sư lễ ngài Đạt Quan, qua Ngũ Đài tham yết ngài Thụy Phong, rồi trở về chùa Bảo Phương ở quê nhà để khai giảng tòa, hoằng dương tông Tào Động. Môn nhân nối pháp có Bác Sơn Nguyên Lai, Hối Đài Nguyên Kính, Kiến Như Nguyên Mật, Vĩnh Giác Nguyên Hiền v.v… Khi Sư mất, chính ngài Hám Sơn Đức Thanh đã soạn bài minh để khắc trên mộ.

243 Đối với bọn Đạo Sĩ theo phái Nội Đan, Xá Nữ là thuật ngữ chỉ Tâm Hỏa, Anh Nhi là Thận Thủy; còn đối với bọn theo trường phái Ngoại Đan (luyện kim đan để uống cho mau thành Tiên) thì Xá Nữ là Châu Sa, còn Anh Nhi là Thủy Ngân. Họ nói một cách huyền bí “Anh Nhi Xá Nữ giao cấu” chứ thật ra chỉ là phản ứng hóa học giữa châu sa và thủy ngân (theo Ngoại Đan); hoặc vận khí để Tâm Hỏa được điều tiết bởi Thận Thủy, không để hỏa vượng bốc lên khi họ luyện khí công. Quẻ Khảm thuộc Thủy, quẻ Ly thuộc Hỏa (theo Dịch Học) nên bọn chúng cũng vận dụng những danh từ này để nói cho có vẻ thật huyền bí, cao siêu!

244 Hộ Quân Sứ là chức vụ chỉ huy quân sự cao cấp nhất của một khu vực do chánh quyền quân phiệt Bắc Dương đặt ra dưới thời Đoàn Kỳ Thụy chiếm lãnh Bắc Kinh, cai quản miền Bắc Trung Hoa. Hà Phong Lâm là Hộ Quân Sứ Thượng Hải thời ấy.

245 Tức là luyện ngoại đan lẫn nội đan. Ngoại đan là nấu những dược liệu với kim loại quý để làm kim đan ngõ hầu uống vào mau được thành tiên. Do phải đun nấu nên gọi là “thiêu”, còn vận khí, tĩnh tọa để vận hành những vòng khí Châu Thiên trong cơ thể cũng gọi là “luyện đan”, nhưng là “luyện nội đan”.

246 Tiếng gọi tỏ vẻ tôn trọng bà nội của người khác.

247 Tiếng gọi tỏ vẻ tôn trọng ông nội của người khác.

248 Nguyên văn ghi là “khuyến kiệm” (勸儉) nhưng theo mạch văn, Tổ đang nói về những đức tánh thường có của một nữ nhân hiền thục, chắc chắn chữ Khuyến (勸: khuyên nhủ) ở đây là chữ Cần (勤: siêng năng) bị in sai.

249 Đây là bộ Kim Cang Kinh Chú Giải (thường được gọi là Kim Cang Kinh Ngũ Thập Tam Gia Chú), bốn quyển do ngài Hồng Liên soạn theo lệnh của Minh Thái Tổ. Bộ sách này thâu thập tất cả những chú giải trọng yếu trích từ trước tác của năm mươi ba vị thiện tri thức trong các đời.

250 Đây là chùa Cực Lạc ở Harbin do pháp sư Đàm Hư và các cư sĩ vùng Liêu Đông xây dựng.

251 Tịch Tà Tập là một tác phẩm của Tổ Ngẫu Ích viết khi còn là tại gia cư sĩ, với bút hiệu là Chung Chấn Chi, nhằm phản bác những luận điểm công kích Phật giáo của các giáo sĩ Lợi Mã Đậu (Matteo Ricci), Ngải Nho Lược (Giulio Aleni) v.v… Các giáo sĩ này khi truyền đạo Thiên Chúa vào Trung Hoa, đã viết rất nhiều bài đả kích Tam Giáo của Trung Hoa, đặc biệt nhắm vào Phật giáo. Những phê phán của các giáo sĩ ấy thể hiện cái nhìn đầy thiên kiến, kiêu ngạo của người da trắng đối với những sắc dân da màu vốn bị họ coi là man rợ, chưa khai hóa! Họ chỉ dựa theo hình thức, thành kiến, bề ngoài để phê phán chứ không chịu tìm đọc kinh sách của các tôn giáo bị họ đả kích. Để phản bác, Tổ Ngẫu Ích đã vận dụng rất nhiều tư tưởng triết học của Tam Giáo để giải thích khái niệm Trời theo cách hiểu của người Á Đông và chỉ ra những chỗ lập luận khiên cưỡng của giáo sĩ Tây Phương về những luận điểm độc thần, Thiên Chúa sáng tạo muôn vật v.v… Hiện thời tác phẩm này được đưa vào Ngẫu Ích Đại Sư Toàn Tập.

252 Kiến Văn Lục là một tác phẩm ngắn cũng của Tổ Ngẫu Ích ghi chép những chuyện thiện ác nhân quả báo ứng do chính Tổ từng thấy. Chẳng hạn chuyện một Sinh Viên làm phán quan cõi âm, vào âm phủ xét án, thấy hồ sơ tội trạng ghi vợ giết gà của hàng xóm, nặng mấy cân. Lúc tỉnh dậy, tra vặn vợ, quả nhiên vợ lỡ tay ném chết gà hàng xóm, sợ bị chồng mắng, hàng xóm chửi, nên chôn giấu sau vườn. Đào gà lên đem cân, quả nhiên bằng đúng cân lượng đã ghi trong hồ sơ tội trạng cõi âm. Tác phẩm này cũng được đưa vào Ngẫu Ích Đại Sư Toàn Tập.

253 Tẩu bàn châu” còn gọi là “hải thủy trân châu” là một loại ngọc trai. Trong các loại trân châu được lưu hành tại Trung Quốc, ngọc trai từ Hợp Phố (thuộc đất Giao Chỉ xưa) quý nhất vì hình dáng tròn trặn, màu sắc tươi đẹp, óng ánh nhất, hầu như không viên nào có khuyết điểm. Do viên ngọc trai Hợp Phố rất tròn, bỏ vào khay hay đĩa, dùng ngón tay đẩy nhẹ nó sẽ lăn tròn trong đĩa nên thường được gọi là “tẩu bàn châu” (châu chạy trong khay).

254 Ý nói: Đừng thuận theo những suy nghĩ phán đoán do thiên kiến của chính mình, không thèm nghe theo những lời dạy trong kinh hoặc những lời giáo huấn của chư cổ đức.

255 Bát Thức (Astau Vijñānāni) là tám Thức gồm Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức, Mạt Na Thức và A Lại Da Thức. Tùy theo cách nhận định về vai trò của tám Thức mà có ba cách gọi như sau:

1) Do bảy Thức từ Nhãn Thức đến Mạt Na Thức do A Lại Da Thức sanh ra, biến chuyển thành, nên bảy Thức đầu được gọi là Chuyển Thức hoặc Thất Chuyển Thức, còn A Lại Da Thức gọi là Căn Bản Thức hoặc Chủng Tử Thức.

2) Theo thứ tự chuyển biến, A Lại Da Thức gọi là Năng Biến, Mạt Na Thức gọi là Đệ Nhị Năng Biến, sáu Thức còn lại gọi chung là Đệ Tam Năng Biến.

3) Địa Luận gọi A Lại Da Thức là Chân Thức, Mạt Na Thức là Vọng Thức (không thấy định danh cho sáu Thức còn lại).

Riêng về thức thứ tám, lại còn có ba tên gọi (theo Bát Thức Quy Củ Tụng) là A Lại Da Thức, Dị Thục Thức và Nhất Thiết Chủng Thức.

Cẩm Hán dựa theo khuynh hướng Duy Vật và Phân Tâm Học Tây Phương để giải thích các Thức, nên cho rằng các Thức đều chỉ là những trạng thái tâm lý, coi Chân Như Phật Tánh như là “hậu thiên vật” tức là một dạng vật chất được hình thành sau khi một cá nhân được sanh ra và do tri giác của người đó phản ứng trước những tác động của hoàn cảnh bên ngoài mà có tám Thức, nên mới nói là “do động lực mà thay đổi”.



256 Lục Bộ Thiền là một thuyết cho rằng để lãnh hội được tinh tủy của Thiền Tông phải lần lượt đọc và thấu hiểu được sáu bộ sách được coi là quan trọng nhất trong nhà Thiền (Hoàng Bá Truyền Tâm Pháp Yếu, Tông Kính Lục, Đại Huệ Ngữ Lục, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Thiên Thánh Quảng Đăng Lục, Thiên Thánh Tục Đăng Lục).

257 Theo các bộ truyện tường thuật hành trạng của các thiền sư, các vị ấy đại triệt đại ngộ chỉ cần nhờ tham thấu một công án. Khi đã thấu triệt một công án thì hết thảy công án đều thông. Do đó nếu bảo là “tham thấu xong một bộ sách lại phải tiếp tục tham thấu cho đến trọn sáu bộ ngữ lục” thì sự tham thấu ấy chỉ là thấu hiểu, suy lường nghĩa lý theo mặt văn tự, chứ không thể là đại triệt đại ngộ được.

258 Do khi xưa khổ vải quá hẹp nên để may Mạn Y (y trơn) phải ghép năm miếng lại. Nhưng năm miếng ấy phải dài bằng nhau, không được cắt thành dài ngắn khác biệt. Hiện thời hầu như không thấy Mạn Y gồm năm miếng nữa mà Mạn Y luôn được may bằng cả khổ vải. Mạn Y thường được đắp bởi Sa Di và người tại gia thọ Bồ Tát Giới (cũng có trường hợp người thọ Ngũ Giới đắp y nhưng khá hiếm). Tại Trung Hoa, Mạn Y của Sa Di và cư sĩ giống hệt nhau; riêng tại Việt Nam, Mạn Y của Sa Di và Sa Di Ni được may có một sọc nổi lên chính giữa tấm y. Y năm điều (An Đà Hội: Antarvāsa) của tăng sĩ cũng gồm năm miếng ghép lại, nhưng mỗi miếng ấy lại được cắt thành hai miếng nhỏ, một dài một ngắn (tức là gồm mười miếng tất cả. Gọi là “y năm điều” là do đếm theo chiều dọc của Y). Miếng đầu tiên và miếng cuối cùng của Y năm điều phải có hai miếng ngắn ở trên. Do cách may như vậy nên Tổ Ấn Quang mới viết “y năm điều một dài một ngắn”. Y bảy điều (Uất Đa La Tăng: Uttarāsamga) do gồm bảy miếng lớn ghép theo chiều dọc nên gọi tên như vậy. Mỗi miếng lại cắt thành hai miếng dài hai miếng ngắn ghép lại. Y này dùng để thọ trai, lễ bái, giảng kinh, tụng kinh nên thường gọi là Nhập Chúng Y. Các miếng này được may đâu lại, dằn chỉ cho nổi lên thành vằn nên Tổ gọi là “hoành văn” (sọc ngang). Y của chư tăng Trung Hoa cắt thành từng miếng, nhưng may khít nhau, mỗi miếng không may chừa mép như y của chư Tăng Việt Nam.

259 Tiếng gọi tỏ vẻ kính trọng vợ người khác.

260 Tông Lặc (1318-1391) là một vị Tăng thuộc Tông Lâm Tế sống vào đầu đời Minh. Sư là người Đài Châu (nay là huyện Lâm Hải, tỉnh Chiết Giang), tự Quý Đàm, hiệu Toàn Thất. Năm lên tám tuổi, Sư tới chùa Tịnh Từ ở Hàng Châu để học pháp với ngài Tiếu Ẩn Đại Hân, mười bốn tuổi xuống tóc, hai mươi tuổi thọ Cụ Túc. Sư cũng tham học với ngài Kính Sơn Nguyên Tẩu. Đầu đời Minh, vua xuống chiếu cử Sư làm trụ trì chùa Thiên Giới, sai Sư cùng với sư Như Kỷ soạn các bộ Lăng Già Kinh Chú Giải, Bát Nhã Tâm Kinh Chú Giải và Kim Cang Bát Nhã Kinh Chú Giải; đồng thời kiểm điểm Đại Tạng Kinh, soạn ra nhạc phổ tán Phật. Năm Hồng Vũ thứ 10 (1377), Sư sang Tây Vực, thỉnh được kinh Trang Nghiêm Bảo Vương và Văn Thù Kinh v.v… Năm Hồng Vũ 15 (1382), Sư trở về Trung Hoa, được phong chức Hữu Thiện Thế cai quản Tăng Lục Ty. Về sau, do triều thần tìm đủ mọi cách gièm báng, Sư bèn thoái ẩn về am Viên Thông. Về sau, Sư mất tại chùa Thạch Phật thuộc Giang Phố. Ngoài những trước tác kể trên, Sư còn soạn các bộ Toàn Thất Ngoại Tập, Toàn Thất Cảo v.v…

261 Thạch Thiên Cơ (1659-1736), tên thật là Thạch Thành Kim, tự Thiên Cơ, hiệu Tỉnh Trai, người Dương Châu, ham học từ nhỏ, rất thông thạo, suốt đời lấy việc dạy học trước tác làm vui. Ông trước tác rất nhiều, những trước tác được tập hợp thành bộ Truyền Gia Bảo Toàn Tập.

262 Tiếng gọi cha người khác nhằm tỏ ý kính trọng.

263 Vì nếu kết ấn đúng pháp thì phải vừa kết ấn vừa quán tưởng chủng tự của vị bổn tôn của ấn chú ấy, đồng thời tâm phải thể nhập phẩm đức của vị tôn thánh ấy, sao cho tam mật tương ứng. Chẳng hạn như khi tụng chú Cam Lộ Thủy Chân Ngôn trong nghi thức Mông Sơn, người tụng kết ấn, đồng thời phải tưởng trong tâm có một vầng trăng, chính giữa vầng trăng có Phạn tự Bham (thường phiên âm thành Vãm hoặc Noan trong chữ Hán), sáng chói ngời, từ giữa chữ ấy tuôn ra nước Bát Nhã Cam Lộ Tánh Thủy tràn ngập khắp pháp giới, nhuần thấm hết thảy chúng sanh trong nghiệp đạo, khiến họ đều lìa phiền não, được thanh tịnh.

264 Nguyên văn “thời mao” có nghĩa là những trào lưu thời thượng, thích lập dị, chạy theo thời trang, coi đó là trẻ trung, tiến bộ, không cổ hủ, bảo thủ.

265 Đây là bộ Lăng Nghiêm Khai Mông của sư Thông Trí Tầm Nguyên.

266 “Giao trụ cổ sắt” (dán trụ, gảy đàn Sắt) là một thành ngữ cổ thường được dùng để chỉ những kẻ chấp chặt một cách mù quáng, không biết quyền biến. Theo Hán Ngữ Thành Ngữ Tự Điển, Sắt là một loại đàn cổ, giống như đàn Cầm (cả hai loại đàn này đều trông từa tựa như đàn tranh nhưng nhỏ hơn và thanh nhã hơn), nhưng tiếng vang và cao hơn. Trụ là những con sáo (tức những miếng gỗ nhỏ hình tam giác đặt trên mặt đàn có thể di động để biến đổi độ căng của dây đàn). Theo sách ấy, có một người nước Tề sang đất Triệu học đàn Sắt. Do người nước Triệu chỉnh dây đàn rất khéo, người nước Tề bèn dùng keo dán chặt con sáo xuống mặt đàn cho khỏi lạc điệu rồi trở về nước. Suốt ba năm anh ta tập đàn nhưng không đàn thành khúc nào, đâm ra oán trách người nước Triệu giấu nghề. Có người từ đất Triệu đến thăm, anh ta bèn hỏi ra mới biết mình quá xuẩn ngốc: Những con sáo không thể di chuyển thì làm sao biến đổi xoang điệu cho được!

267 Khi Nhị Tổ Thần Quang Huệ Khả của Thiền Tông cầu Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma dạy cho cách an tâm, Tổ Đạt Ma đã dạy: “Ông đem cái tâm của ông lại đây, ta sẽ an cho”. Tổ Huệ Khả thưa: “Con không tìm được cái tâm”, Tổ Đạt Ma liền dạy: “Ta đã an tâm cho ông rồi đó”.
1   ...   21   22   23   24   25   26   27   28   29




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương