O
3
CaO
MgO
Lần 1
41,236
18,467
6,735
3,602
21,152
0,636
Lần 2
41,337
18,536
6,708
3,611
21,118
0,643
Lần 3
41,156
18,623
6,718
3,605
21,196
0,652
Lần 4
41,309
18,334
6,722
3,609
21,177
0,639
Lần 5
41,225
18,434
6,736
3,614
21,205
0,644
41,252
18,478
6,723
3,608
21,169
0,642
SD
0,072
0,108
0,012
0,005
0,035
0,006
RSD,%
0,174
0,588
0,176
0,132
0,167
0,942
LOD
0,054
0,163
0,038
0,001
0,051
0,004
LOQ
0,180
0,543
0,127
0,003
0,170
0,013
D, %
2,8
7,5
15
16
5,8
25
Ta thấy giá trị trung bình của 5 mẫu mỗi mẫu lặp lại 5 lần ta thấy của phương
pháp XRF so với giá trị trung bình của các phương pháp (trọng lượng, thể tích, trắc
quang, ICP) là tương đối tốt, điều này cho thấy phương pháp XRF là hoàn toàn
đáng tin cậy, ngoài phương pháp còn xác định đồng thời được hết các nguyên tố có
Luận văn Thạc sỹ GVHD: TS. Trần Quang Tùng
Học viên: Đỗ Đức Thắng MSHV: 2015B0010 52
trong quạng apatit hàm lượng từ 0,01% đến 100%, còn đối với các phương pháp
trọng lượng, thể tích chỉ xác đinh đơn lẻ nguyên tố trong mẫu và chỉ xác định được
ở mức lớn, còn đối với phương pháp trắc quang cũng chỉ xác định được đơn nguyên
tố và ở hàm lượng vài phầm trăm. Với phương pháp ICP xác định đồng thời nhiều
nguyên tố môt lần đo nhưng chỉ xác định được các nguyên tố có hàm lượng nhỏ và
không xác định được silic do yêu cầu của quá trình phá mẫu phải loại silic.
Thông thường phải tiến hành từ 3 đến 5 thí nghiệm song song trong cùng điều
kiện đối với mỗi mẫu phân tích, ở đây ta tiến hành thử nghiệm mỗi mẫu 5 lần song
song trong cùng điều kiện sau đó lấy giá trị trung bình . Độ chính xác của các phép
đo được đánh giá thông qua độ lệch chuẩn SD. Giá trị của độ lệch chuẩn SD cho
biết mức độ phân tán của các phép đo song song, giá trị SD càng nhỏ thì độ lặp lại
càng cao, tức là độ chính xác càng cao [17]. Tất cả các mẫu từ 1 đến 5 đều thu được
giá trị độ lệch chuẩn SD trong khoảng 0,01 đến 0,10 (trong trường hợp Mẫu 2, chỉ
số SD của MgO còn đạt giá trị cực nhỏ 0,002), điều này chứng tỏ các phép đo có độ
chính xác rất cao.
Để biểu thị rõ hơn độ chính xác của phép đo, hóa học phân tích thường sử
dụng thêm đại lượng độ lệch chuẩn tương đối RSD vì nó được diễn tả dưới dạng
phần trăm (%), tức là nó cho ta biết giá trị đó lệch bao nhiêu % so với giá trị trung
bình . Đối với tất cả các mẫu từ 1 đến 5 thường thu được các giá trị độ lệch chuẩn
tương đối RSD trong khoảng 0,1% đến 1,0% (cao nhất cũng chỉ đến 1,4% như trong
trường hợp Fe
2
O
3
của mẫu 1), điều này một lần nữa khẳng định các phép đo trong
nghiên cứu này có độ chính xác cao. Các kết quả phân tích cũng cho thấy, khi hàm
lượng của chất cần phân tích càng thấp thì kết quả càng dao động nhiều (không
chụm), nghĩa là độ lệch chuẩn tương đối càng cao, phép phân tích càng kém chính
xác, điều này thể hiện rõ nhất ở các chỉ số RSD của MgO có hàm lượng thấp.
Luận văn Thạc sỹ GVHD: TS. Trần Quang Tùng
Học viên: Đỗ Đức Thắng MSHV: 2015B0010 53
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |