Lâm Ngữ Đường



tải về 1.38 Mb.
trang16/21
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.38 Mb.
#4040
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21

Chú thích:


252 [1] Tức “Rocky Mountains”. (Goldfish).
253 [2] Trong cuốn Candide
254 [3] Một trong Trúc lâm thất hiền đời Tấn, sanh năm 210, mất năm 263; rất ưa rượu và đàn, lưu lại 82 bài thơ Vịnh hoài, đều có giọng lãng mạn chán thế sự.
255 [4] Hai nhà tính dục học Mĩ hiện đại (sexologue). [Sách in là Havelock Hellis và Van de Velde, tôi đã sửa lại theo bản tiếng Anh. Còn từ “tình dục học” (sách in như vậy) trong chú thích này, tôi đã sửa thành “tính dục học” vì trong chương II, tiết I, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch chữ sextính dục. (Goldfish)].
256 [5] Cả hai đều là văn nhân người Anh. (Goldfish).
257 [6] Đoạn này với đoạn “B.- Vân” ở dưới là những cảnh ngắm trăng, ngâm thơ, đánh cờ…, người phương Tây có thể cho là chứa ít nhiều tình điệu là lạ; chúng ta trái lại, cho là thường, cho nên tôi lược bỏ tới non nửa.
258 [7] Nghĩa là một nửa chỗ còn lại.
259 [8] Bản tiếng Pháp dịch là Lac de l’Ouest (Tây hồ), bản tiếng Hán chép là Lưỡng hồ (hai cái hồ). [Nguyên tác tiếng Anh là WestLake. (Goldfish).
260 [9] Sách in là dừa, tôi tạm sửa lại là dưa. Nguyên tác là melon. (Goldfish).
261 [10] Đê do Tô Đông Pha sai đắp, nên có tên từ đó.
262 [11] Tức đêm mùng bảy tháng bảy âm lịch.
263 [12] Tức: Cháu Trời, trỏ sao Chức nữ.
264 [13] Câu này có lẽ do hai câu dưới đây của Lâm Bô đúc lại:
---- “Sơ ảnh hoành tà thuỷ thanh thiển
---- Ám hương phù động nguyệt hoàng hôn”
Nghĩa là: Bóng (mai) lưa thưa xiên ngang bên dòng nước trong và nông. Hương thơm thoang thoảng động nhẹ dưới ánh trăng lúc hoàng hôn.
Lâm Bô tự Quân Phục, là một thi sĩ đời Tống, đồng thời với Âu Dương Tu. Bài “Sơn viên tiếu mai thi” trong đó trích hai câu thơ trên được Âu Dương Tu rất khen.
Chúng tôi còn biết hai câu thơ nữa vịnh mai, cũng rất hay, tiếc rằng không nhớ tên tác giả:
---- “Nhất chi xung phá song tiền nguyệt,
---- Bất đáo La Phù mộng diệc hương”.
Nghĩa là: Một cành (mai) xung phá mặt trăng ở trước cửa sổ. Chẳng tới núi La Phù mà mộng cũng thơm.
La Phù là một danh sơn ở Quảng Đông, tương truyền Cát Hồng, một văn sĩ và triết gia đời Đông Tấn thành tiên ở núi đo.
Ta thấy vịnh mai, luôn luôn thi sĩ Trung Hoa khen cái thế đâm ngang của cành cùng cái âm hưởng của hoa; lại tả thêm cảnh trăng hoặc người nữa. [Ngọc Danh trong một bài luận về mai bảo rằng 2 câu “Nhất chi… mộng diệc hương” là của Tô Đông Pha, và dịch thơ như sau: “Song trăng một nhánh mai gầy/ La phù chưa tới hương bay mộng về”. (Goldfish)].
265 [14] Sách in là “nghiền”, có lẽ là do chữ “ghiền” hoặc chữ “nghiện” in lầm mà ra. Tôi tạm sửa lại thành “nghiện”. Nguyên tác tiếng Anh là “hobbies”. (Goldfish).
266 [15] Bản tiếng Pháp dịch là: Sont mal formeés. Nguyên văn tiếng Hán: Bất kết thực… Được hoàn toàn thực là khó thay! Sen kiêm cả chẳng?
267 [16] Sách in là đá, tôi tạm sửa lại thành đất: Có cảnh sơn thuỷ trên đất (Nguyên văn tiếng Anh là: There are
Landscapes on earth). (Goldfish).
268 [17] Tức các triết gia thời cổ ngoài Khổng, Lão.
269 [18] Tức các sách của các nhà gần đây.
270 [19] Gốc là tiếng Phạn, trỏ Ấn Độ. Người Trung Hoa dùng tiếng đó để trỏ chung Trung Hoa và các nước Phương Đông.
271 [20] Từ là một thể thơ phổ vào đờn ca, thịnh ở đời Tống; khúc là hí khúc, tức là tuồng, thịnh ở đời Nguyên, Minh.


Lâm Ngữ Đường

Một Quan Điểm Về Sống Đẹp

Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê

CHƯƠNG XI

THÚ DU LÃM




1. ĐI CHƠI VÀ NGẮM CẢNH
 
Du lịch là một cái thú và bây giờ đã thành một kĩ nghệ. Nhờ có những phương tiện dễ dàng, nhờ có những cơ quan du lịch của chính phủ, chúng ta ngày nay du lịch nhiều hơn ông cha chúng ta. Nhưng nghệ thuật du lãm hình như đã mất. Trước khi tìm hiểu nghệ thuật đó, chúng ta hãy xét các cách du lịch mà không phải là du lãm.
 
Có cách du lịch để cho tinh thần được phong phú. Tôi ngờ rằng tinh thần không dễ gì mở mang được. Cứ coi kết quả các câu lạc bộ và các cuộc diễn thuyết thì biết. Do quan niệm sai lầm đó nên mới có những tổ chức dẫn đạo khách du lịch. Không thể tưởng tượng được một hạng người nào hay nói mà vô ích hơn cái bọn dẫn đạo du khách nữa. Ở Trung Hoa cũng có bọn đó nhưng họ không phải là bọn nhà nghề mà là những người bán trái cây, những phu xe hoặc con cái nông dân, sự hiểu biết không được chính xác, nhưng có cá tính riêng, dễ thương hơn bọn nhà nghề phương Tây.
 
Rồi lại có cách du lịch để có tài liệu dùng trong các lúc nói chuyện. Đi càng nhiều thì càng biết được nhiều di tích lịch sử, kí ức càng phong phú, về nhà càng có dịp kể lại cho bạn bè nghe mà câu chuyện càng thêm vui. Nhưng càng muốn biết cho nhiều thì càng lại phải đi coi cho được nhiều nơi trong một ngày. Người ta cầm trong tay một chương trình du lịch, coi một nơi nào rồi người ta lấy viết chì bôi bỏ tên nơi đó đi. Hạng người đó, cả trong lúc nghỉ ngơi cũng muốn có hiệu năng.
 
Lối du lịch ngu xuẩn đó tất nhiên phát sinh ra một hạng du khách đi coi các nơi theo một chương trình nhất định, và theo một thời khắc biểu nhất định: sẽ ghé Vienne mấy giờ hay Budapest mấy giờ. Họ kính cẩn theo đúng thời khắc biểu, không dám sai một chút. Thành thử ở nhà họ đã như bị buộc vào tấm lịch và chiếc đồng hồ mà đi du lịch, họ cũng không thoát li được hai cái đó.
 
Tôi đề nghị tìm một động cơ chân chính cho sự du lịch trái hẳn với những động cơ kể trên. Du lịch theo tôi là để hòa vào trong đám người lạ, không ai biết mình cả, là để quên hết thảy đi. Ở trong châu thành của mình thì ai cũng bị bó buộc vì những luật lệ, thế tục, tập quán, bổn phận. Một ông giám đốc ngân hàng chẳng hạn, dù là ở nhà đi nữa, vẫn không được người ta coi như một người thường, mà chính ông ấy cũng không thể quên được rằng mình là giám đốc ngân hàng; mà theo tôi, ông ta có muốn đi du lịch thì chỉ là để được tiếp xúc với những người coi ông ta là một người thường như mọi người khác, không vậy thì đi du lịch để làm gì kia! Trong những cuộc lữ hành về thương nghiệp, đem theo những bức thư giới thiệu là việc hữu ích, nhưng đi như vậy không phải là đi du lịch. Đi du lịch mà mang theo những bức thư đó thì có hiểu thêm được gì về bản thân của mình, có biết rõ được Tạo hóa sinh ra mình để làm gì đâu. Mất cái thú được bạn thân tiếp đãi niềm nở tại một xứ lạ, được hướng dẫn trong cái giới cùng giai cấp với của mình, thì lại được một cái thú khác kích thích hơn nhiều, tức cái thú của một hướng đạo sinh lạc trong rừng mà phải tự xoay xở lấy. Đi du lịch như vậy rồi về nhà sẽ thấy mình bớt phải tùy thuộc người tài xế hoặc ông chủ hàng thịt quen của mình.
 
Một người du lãm luôn luôn là một người phóng lãng, có những cái vui, những cái cám dỗ, cái tinh thần mạo hiểm của người phóng lãng. Du lãm phải là phóng lãng, không có cái gì bó buộc, không có giờ nhất định, không thư từ, không thăm viếng ai cả, không có cả mục đích nữa. Một người biết du lãm là một người không biết mình đi đâu, và một người du lãm hoàn toàn quên cả mình ở đâu mà tới nữa, quên cả tên, họ mình nữa. Đồ Long trong thiên Minh Liêu tử đã diễn rõ ràng ý đó (coi tiết sau). Có thể rằng một người như vậy không kiếm được một bạn thân nào trong xứ lạ, nhưng “Không đặc biệt lưu ý tới ai tức là lưu ý tới toàn thể nhân loại”. Không có bạn thân đặc biệt tức là coi ai cũng như bạn thân. Vì yêu hết cả mọi người nên hòa mình vào với mọi người, nhận xét những chỗ khả ái và những phong tục của mọi dân tộc. Ngày nay, những du khách ngồi xe ca, nghỉ ở lữ quán, nói chuyện với bạn đồng hành về xứ sở của mình, không còn được hưởng cái lợi kể trên nữa vì họ không chịu nhận xét tâm hồn dân tộc những xứ mà họ tới thăm.

Có tinh thần phóng lãng, ta mới tiếp xúc mật thiết với thiên nhiên được. Người phóng lãng đòi đi tới những nơi thật vắng vẻ để hưởng sự tĩnh mịch hoàn toàn mà cảm thông với thiên nhiên. Họ không mất thì giờ dạo những cửa hàng lớn, lựa những bộ áo tắm xanh xanh đỏ đỏ.


 
Ngoài ra, còn một cách du lãm nữa là tới những nơi không có người, không có cảnh, chỉ có mây, cây cối với những con sóc, con chuột xạ, con ngân thử (Marmotte). Một bà bạn Mĩ kể chuyện rằng có lần bà cũng với vài bạn Trung Hoa leo một ngọn núi ở Hàng Châu để “chẳng coi cái gì cả”. Buổi sáng hôm đó sương mù, họ càng leo núi, sương càng dày đặc. Có thể nghe được giọt sương rơi nhẹ trên ngọn cỏ. Trừ sương mù ra chẳng có gì để coi hết. Bà ta thất vọng. Các bạn Trung Hoa khuyến khích: “Phải tiếp tục leo tới đỉnh, cảnh trên đó tuyệt đẹp”. Bà ta rán leo nữa, một lát sau thấy ở xa xa có một tảng đá xấu xí mây phủ. Bà ta hỏi: “Cái gì đó?”“Đó là bông sen trồng ngược”. Rầu rĩ trong lòng, ba ta muốn quay trở xuống - “Nhưng trên đỉnh còn có cảnh đẹp hơn”. Áo đã ướt đẫm vì sương, bà ta lại rán tiếp tục leo. Sau cùng họ tới đỉnh. Bốn bề chỉ là một biển sương mù mênh mông, xa xa mờ mờ một dãy núi. Bà ta gắt: “Ở đây có gì để coi đâu?”. Các bạn Trung Quốc đáp: “Vâng, chúng ta tới đây để chẳng coi cái gì cả”.
 
Coi cảnh vật với coi cái hư vô, thực khác nhau xa. Nhiều du khách tuy coi nhiều cảnh vật mà thực ra chẳng thấy gì, và nhiều du khách chẳng coi cái gì cả mà lại thấy được rất nhiều.
 
Tôi thường cười thầm mỗi khi nghe nói một văn nhân nào đó đi du lịch ở ngoại quốc để “tìm tài liệu viết một tác phẩm mới”; cơ hồ như ở trong tỉnh, trong xứ ông ta, nhân tình, phong tục không còn có thể cung cấp đề tài cho ông ta được vì đề tài nào cũng đã khai thác hết nhẵn rồi. Vậy thì điều kiện cốt yếu của sự du lãm là phải biết nhìn sự vật; mà đã biết nhìn sự vật, thì đi ra nước ngoài hoặc đi chơi ngay trong cánh đồng ở quanh nhà cũng vậy thôi, không khác nhau gì cả.
 
Điều đó, Kim Thánh Thán đã nhận thấy. Trong bài phê bình nổi danh tuồng Tây Sương kí, ông nói người du lãm cần phải có “một biệt tài trong lòng và một cặp biệt nhãn dưới hàng lông mày”. Tất cả vấn đề ở đó: có một tấm lòng để cảm và một cặp mắt để ngó. Thiếu hai cái đó thì đi chơi núi chỉ là tốn tiền bạc, thì giờ. Mà có hai cái đó thì chẳng cần leo núi, cứ ở nhà, hoặc ra ngoài đồng ngắm một đám mây, một con chó, một hàng rào, một cây đứng lẻ loi, cũng hưởng được nhiều cái thú. Dưới đây, tôi xin dẫn một đoạn của Kim bàn về nghệ thuật du lãm:
 
“Tôi đã đọc nhiều bộ du kí và thấy rằng ít người hiểu nghệ thuật du lãm. Đành rằng người biết du lãm không ngại đường xa ngàn dặm, vạn dặm, cũng cố đi đến nơi để coi hết những cái kì diệu của hóa công trong cảnh núi non, sông biển, hang động, đất lành (phúc địa). Nhưng trong lòng có chút biệt tài, dưới hàng lông mày có cặp biệt nhãn thì chẳng cần tới coi những cảnh núi non, sông biển, hang động, đất lành mà cũng biết được hết cái kì diệu của hóa công. Hôm trước người đó đi thăm một hang đá, gần kiệt sức của chân, của mắt và của lòng để coi cho hết; hôm sau người đó lại đi thăm một nơi đất lành, lại gần kiệt sức của chân, của mắt, của lòng để coi cho hết. Người đi theo không hiểu người đó, bảo: “Ngày nào cũng đi chơi, khoái quá! Mới coi xong một cái hang đá, nay lại coi thêm một chỗ đất lành!” Họ không hiểu gì cả. Người biết du lãm kia khi rời khỏi hang mà chưa tới chỗ đất lành, giữa hai nơi đó là một khoảng cách hai ba chục dặm hoặc chỉ tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai dặm, hoặc chỉ cách một dặm hay nửa dặm; nhưng có được một biệt tài trong lòng và một cặp biệt nhãn dưới hàng lông mày, thì người đó cũng thưởng ngoạn cái khoảng một dặm, nửa dặm đó như thưởng ngoạn cái hang đá, cái đất lành kia.
 
“Cái đại bản lãnh, đại thông minh, đại khí lực của Tạo hóa hốt nhiên dựng thành hang đá, đất lành kia làm cho ta kinh tâm, đã đành rồi. Nhưng mỗi khi tôi nhìn kĩ những vật nho nhỏ trên trái đất này như một con chim, một con cá, một đoá hoa, một cây nhỏ, thậm chí chỉ nhìn một cái lông chim, một cái vảy cá, một cánh hoa hoặc một cọng cỏ, tôi cũng nhận thấy trong những vật đó, Tạo hóa đã phí bao nhiêu đại bản lãnh, đại thông minh, đại khí lực rồi sau mới tạo thành được. Ngạn ngữ có câu: “Sư tử dùng toàn lực để chiến đấu với voi, mà cũng dùng toàn lực để bắt con thỏ”; đấng Tạo hóa kia thì cũng vậy: dùng toàn lực để tạo cái hang đá, chỗ đất lành; mà tạo những con vật nhỏ nhoi như con chim, con cá, đoá hoa, cây nhỏ, thậm chí đến một lông chim, một vảy cá, một cánh hoa, một cọng cỏ, cũng không khi nào không dùng toàn lực. Do đó mà xét thì những cái làm cho ta kinh tâm, không phải chỉ có cái hang đá, cái đất lành mà thôi.
 
“Vả lại, chúng ta có bao giờ nghĩ rằng cái hang đá, cái đất lành kia sáng tạo ra làm sao không? Trang Tử bảo: “Hiểu trăm bộ phận trong mình con ngựa, không phải là hiểu con ngựa. Cái mà ta gọi là con ngựa có trước trăm bộ phận của nó” 272 [1] . Lấy tỉ dụ khác; có cả trăm loài cây mọc chung quanh cái chằm lớn; có bao nhiêu đá, bao nhiêu suối ở trên cái núi lớn… Nhưng núi to do đá nhỏ mà thành, thác lớn do suối nhỏ mà thành. Nếu ta xét từng vật một thì đá không lớn bằng bàn tay, suối không lớn bằng dòng nhỏ. Lão Tử bảo: “Ba mươi cái găm xe tụ chung quanh một cái bầu xe, và khi những cái đó mất bản tính đi rồi 273 [2] thì xe mới lăn được. Nặn đất sét sẽ làm cái bình, khi đất sét mất cái tồn tại riêng của nó đi rồi thì cái bình mới được dùng. Đục lỗ trong tường để làm cửa và cửa sổ; khi cửa và cửa sổ mất cái tồn tại riêng của nó đi rồi thì nhà mới có thể ở được”.
 
“Các hang đá và đất lành thì cũng vậy; có chỗ dựng đứng lên thành ngọn núi, có chỗ sâu hõm xuống thành ngòi, có chỗ bằng phẳng thành bình nguyên, có chỗ dốc thành sườn, có chỗ kéo dài ra thành cầu, có chỗ tụ lại thành khe, thật kì kì diệu diệu, nhưng ta biết rằng cái kì đó sở dĩ kì, cái diệu đó sở dĩ diệu là đều tại các vật đã mất cái tồn tại riêng của chúng đi. Vì khi chúng đã mất cái tồn tại riêng đi thì không còn ngọn núi, sườn núi, thác ngòi, bình nguyên, cầu, khe nữa. Mà chính ở cái điểm chúng mất cái tồn tại riêng đi mà biệt tài trong lòng ta cùng cặp biệt nhãn dưới hàng lông mày của ta mới phát động được mạnh mẽ.
 
“Mà cái biệt tài trong lòng ta cùng cặp biệt nhãn dưới hàng lông mày của ta đã chỉ có thể phát động được mạnh mẽ ở chỗ mọi vật không còn tồn tại riêng nữa, như vậy thì ta còn cần gì phải tới hang đá và đất lành nữa? Trong khoảng đường từ cái hang đá tới chỗ đất lành, cách vài ba chục dặm, hoặc chỉ cách có một dặm, nửa dặm, chỗ nào mà mọi vật chẳng mất cái tồn tại riêng của nó? Thấy một chiếc cầu nhỏ, một gốc cây đứng lẻ loi, một dòng nước, một xóm làng, một hàng rào, một con chó thì cái biệt tài, biệt nhãn của ta cũng phát động mạnh mẽ được; vậy thì cái kì kì diệu diệu ở hang đá, đất lành, chưa chắc đã hơn được cái kì kì diệu diệu ở những vật nhỏ nhoi này ”.
 
2. MINH LIÊU TỬ ĐI CHƠI
Như trên chúng ta đã biết, tác giả truyện này là Đồ Long. Ông muốn tả một nhân vật phóng lãng mà ông đặt tên là Minh Liêu Tử (minh liêu là mù mịt, trống không). Minh Liêu Tử chán việc đời, trò đời, bỏ nhà đem theo một ít tiền ngao du sơn thủy, tới đâu cũng xin ăn, khi nào không xin được mới phải dùng tiền mua những vật thực cần thiết. Đi lang thang không nhất định tới chỗ nào, các danh sơn thắng cảnh đều đặt gót tới, có lần đàm đạo với đạo sĩ trên núi, có lần lại theo bọn vương tôn công tử về dinh họ ở cả tháng, ngâm thơ, bàn về triết lí, về lẽ sinh lão bệnh tử, về lẽ thịnh suy…
 
Sau ba năm phóng lãng như vậy, về ẩn trên núi Tây Minh, suốt đời không ra khỏi núi.
 
(Bản tiếng Pháp bỏ trọn cả tiết và chúng tôi chỉ lược thuật như trên).
 

Chú thích:


274[1] Sách Trang tử, thiên Tắc Dương. (Goldfish).
275[2] Dịch theo Lâm Ngữ Đường. Chữ Hán là: “đương kì vô”, và người ta thường hiểu là “ở chỗ trống của nó”; cái bầu xe có trống xe mới chạy được, cái chén có chỗ trống mới chứa được, cửa có trống thì mới là cửa. Nhưng ở trong đoạn văn này của Kim Thánh Thán, phải hiểu như Lâm Ngữ Đường thì mới có nghĩa.
 


Lâm Ngữ Đường

Một Quan Điểm Về Sống Đẹp

Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê

CHƯƠNG XII

HƯỞNG THỤ VĂN HOÁ




1. GIÁM THỨC
 
Mục đích của giáo dục và văn hóa chỉ là để phát triển khả năng giám thức và luyện tập nên những hành vi tốt. Con người có văn hóa hay có giáo dục không nhất thiết là phải có học thức rộng, nhưng phải biết yêu những cái đáng yêu, ghét những cái đáng ghét. Biết cái gì đáng yêu, cái gì đáng ghét là có giám thức (goût). Không gì bực mình bằng gặp một người đầu óc đầy những niên đại và tên nhân vật lịch sử, biết rõ những việc bên Nga, bên Tiệp Khắc, mà kiến giải hoặc thái độ thì hoàn toàn lầm lẫn. Tôi đã gặp những con người như vậy và tôi thấy về vấn đề gì họ cũng đưa ra sự kiện này, sự kiện khác mà kiến giải của họ thì thật là tệ hại. Học vấn của họ thật quảng bác nhưng họ thiếu giám thức, không biết phán đoán. Học thức quảng bác là học thức nhồi vào sọ cho thật nhiều sự kiện; còn sự giám thức, sự biện biệt phải trái là vấn đề phán đoán về cái thiện, cái mĩ. Khi phê bình một văn nhân, người Trung Hoa thường phân biệt học vấn, kiến thức với đức hạnh. Đối với các sử gia, sự phân biệt như vậy cũng xác đáng; một bộ sử có thể chứa đầy những tài liệu quí mà thiếu hẳn sự sâu sắc, sự phán đoán chân chính; khi luận về việc và người, tác giả có thể không có chút kiến giải trác việt, thâm thúy. Một tác giả như vậy ta gọi là thiếu nhãn thức. Tra cứu kĩ, thu thập được nhiều tài liệu và chi tiết là việc rất dễ. Trong thời đại lịch sử nào cũng có vô số sự kiện cho ta thu thập, nhưng biết biện biệt những sự kiện nào có ý nghĩa để lựa chọn là việc vô cùng khó khăn hơn và tùy ở kiến giải mỗi người.
 
Cho nên người có giáo dục, học vấn là người biết phân biệt thị phi, yêu cái đáng yêu, ghét cái đáng ghét. Biết phân biệt như vậy tức là có giám thức, mà có giám thức thì có nhã hứng. Muốn có giám thức phải có một khả năng suy tư sâu sắc, có tinh thần độc lập trong sự phán đoán, phải cương quyết không để cho một hình thức nào phỉnh gạt ta, một mê hoặc nào làm chóa mắt ta, mà những phỉnh gạt đó đầy dẫy chung quanh ta; nào là danh vọng, nào là lợi lộc; tới chính trị, lòng ái quốc, tôn giáo cũng dễ phỉnh gạt ta nữa; rồi lại thêm trong bọn thi sĩ, nghệ sĩ, tâm lí gia… có bao nhiêu kẻ dùng những thủ đoạn phỉnh gạt. Khi một nhà phân tâm học bảo ta rằng sự hoạt động của các cơ quan bài tiết trong tuổi thơ có ảnh hưởng lớn tới tính tình của ta, có thể làm cho ta lớn lên thành ra tham lam, tàn bạo hay là ôn hòa, biết bổn phận của mình; hoặc khi họ bảo rằng bệnh táo làm cho tính tình ta hóa ti tiểu, thì một người có giám thức, biết biện biệt, chỉ có một thái độ là mỉm cười 276 [1] . Khi một kẻ nào đó lầm thì đừng viện danh nhân này, tác phẩm nọ để lòe ta; viện gì đi nữa thì cũng vẫn là lầm.
 
Vậy giám thức liên quan mật thiết với đức can đảm hay với đức hùng tâm mà đức này khá hiếm. Tất cả những tư tưởng gia, văn sĩ lưu lại được cái gì, đều có đức đó. Một người có đức đó có thể không thích một thi nhân mặc dầu thi nhân này được mọi người ngưỡng mộ; và khi thích một thi nhân nào thì có thể giảng được tại sao, vì đã có sự phán đoán riêng của mình rồi. Cái đó ta gọi là nhãn thức về văn chương. Người đó cũng không chịu khen một họa phái mới nhất nếu bản tâm không thích. Cái đó ta gọi là nhãn thức về nghệ thuật. Người đó cũng không chịu nhắm mắt theo một triết học rất lưu hành mặc dầu triết học đó có những nhà danh tiếng làm hậu thuẫn. Không chịu để cho một tác giả nào thuyết phục nếu lòng không cảm động; nếu tác giả đó lí luận mà mình không cãi được thì là tác giả lí luận đúng; nhưng tùy mình không cãi được mà vẫn không chịu tín phục thì là mình có lí mà tác giả đó lầm lẫn. Như vậy là có nhãn thức về tri thức. Đành rằng muốn được hùng tâm như vậy, cần có một đức tự tín đôi khi hơi ngây thơ, nhưng nếu ta không dựa vào cái tâm của ta thì dựa vào cái gì bây giờ, vào cái tâm của người ư? Và khi ta đã chối bỏ cái quyền được phán đoán theo lòng mình thì tất nhiên ta sẽ nhận tất cả những mê hoặc, phỉnh gạt ở đời.
 
Khổng Tử hình như đã cảm thấy rằng học mà không suy nghĩ thì hại hơn là suy nghĩ mà không học, cho nên nói: “Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi” 277 [2] . Chắc ông đã thấy nhiều đệ tử vào cái hạng đó (hạng chối bỏ cái quyền phán đoán theo lòng mình) mới phát ra lời răn như vậy, một lời răn rất ích lợi trong các trường học ngày nay. Ai cũng biết rằng chính sách giáo dục và tổ chức học đường ngày nay chú trọng vào sự học cho nhiều chứ không chú trọng vào sự suy nghĩ, biện biệt; coi sự nhớ nhiều tự nó là một mục đích rồi, cơ hồ như hễ nhớ nhiều là có văn hóa cao. Nhưng tại sao trong trường học người ta lại không trọng sự suy nghĩ? Tại sao chế độ giáo dục lại đem sự vui vẻ truy cầu học vấn biến thành một sự nhồi sọ máy móc, có qui củ đơn điệu, bị động như vậy? Tại sao ta lại coi sự học trọng hơn sự suy nghĩ? Tại sao ta lại coi một cậu tú là có học vấn chỉ vì cậu đã theo học đủ một số giờ đã qui định nào đó về các môn tâm lí, trung cổ sử, luận lí và “tôn giáo”? Tại sao lại phân biệt trường này trường khác, đặt ra bằng cấp này bằng cấp nọ, và làm sao mà học sinh lại coi trọng bằng cấp hơn mục đích chân chính của giáo dục? Lí do rất dễ hiểu. Chỉ tại chúng ta giáo dục thanh niên từng loạt một như trong xưởng máy người ta sản xuất hóa phẩm từng loạt một, mà chính sách máy móc trong xưởng chỉ tạo được những cái vô sinh khí. Muốn bảo hộ danh dự của trường và nhất luật hóa các sản phẩm, người ta phải chứng thực sản phẩm bằng bằng cấp. Do đó mà cần phải đặt ra các kì thi để cho điểm rồi sắp hạng. Tổ chức đó hợp lí đến nỗi không ai thoát li được nó nữa. Nhưng kết quả thì tai hại không ai tưởng tượng được. Vì tự nhiên người ta hóa ra coi trọng sự nhớ nhiều hơn là sự phát triển khả năng giám thức, phán đoán. Tôi đã làm giáo sư và tôi đã thấy rằng lập một bảng kê những câu hỏi về niên đại lịch sử dễ dàng hơn là lập một bảng kê những câu hỏi về kiến giải, về trí thức phổ thông. Luôn luôn ta nên nhớ lời Khổng Tử: “Đa kiến nhi thức chi, tri chi thứ dã” (Thấy nhiều mà nhớ được, là thứ tri thức hạng thường) 278 [3] . Không có đề tài gì mà bắt buộc phải học, cũng không có sách gì – ngay cả đến kịch của Shakespeare – là bắt buộc phải đọc. Học đường hình như có quan niệm ngu xuẩn này là chúng ta có thể hạn chế một số tối thiểu đề tài về sử kí, địa lí nào đó rồi cho rằng một người có học thức phải thuộc những đề tài ấy. Tôi cũng đã được hưởng thụ một nền giáo dục hoàn hảo mặc dầu có ai hỏi tôi tên kinh đô Y Pha Nho thì tôi sẽ lúng túng lắm và có hồi tôi cứ đinh ninh rằng Havane là tên một đảo ở gần đảo Cuba. Cái hại của một chính sách giáo dục như trên là nó cho biết tất cả những điều mà một người có học vấn cần biết. Vì vậy mà một cậu tú ở trường ra không cần học thêm, đọc sách thêm nữa, vì cậu tin rằng cậu đã học cả những điều cậu cần phải học rồi.
 
Chúng ta nên có quan niệm này là kiến thức của mỗi người có thể có mỗi hình thức, không thể dùng một tiêu chuẩn nào mà trắc lượng được. Trang Tử nói rất đúng: “Đời ta có hạn mà tri thức thì vô hạn”. (Ngã sinh dã hữu nhai nhi tri dã vô nhai) 279 [4] . Xét cho cùng thì học hỏi chỉ là khám phá một thế giới mới, hoặc như Anatole France đã nói: “Một cuộc thám hiểm phiêu lưu của tâm linh”; nó sẽ là một cái thú chứ không phải là một cực hình, nếu ta giữ được cái tinh thần khám phá, một tinh thần vốn rộng rãi, tò mò, có tính cách phiêu lưu. Ta không nên nhồi sọ một cách có qui củ, đơn điệu và thụ động mà nên tìm trong sự học vấn một cái vui cá nhân, tích cực, mỗi ngày mỗi tăng. Khi đã bỏ chính sách cho điểm, thi cử, để phát bằng cấp rồi, (hoặc nếu không bỏ hẳn được thì cũng đừng coi trọng nữa) thì sự học hỏi sẽ hóa ra tích cực, vì ít nhất học sinh cũng bắt buộc phải tự hỏi mình học để làm gì đây. Thời nay người ta học vì nhân viên ghi học bạ, vì số lương khi ra trường, và nhiều học sinh giỏi nhất học vì cha mẹ, giáo sư, hoặc vì người vợ sau này, để khỏi ra tình bạc bẽo với những người tốn biết bao nhiêu tiền nuôi mình ăn học, với những giáo sư đại độ và tận tâm, còn gì bất đạo đức bằng những tư tưởng như vậy? Học hỏi phải là việc của cá nhân, và có như vậy học mới thành một thú vui, mới có tính cách tích cực .
 
Каталог: file
file -> Sạt-đe rằng: Nầy là lời phán của Đấng có bảy vì thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao
file -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
file -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
file -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
file -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
file -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 7790-5 : 2008 iso 2859-5 : 2005
file -> Qcvn 81: 2014/bgtvt
file -> UỶ ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
file -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014

tải về 1.38 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương