LỜi nhà xuất bản nghiên cứu về SỰ phát triển con ngưỜI


THỊ TRẤN KHIẾM NHÃ VÀ BÀN CHỜ: BƯỚC VÀO THẾ GIỚI VIỆC LÀM



trang35/72
Chuyển đổi dữ liệu07.01.2018
Kích5 Mb.
#35951
1   ...   31   32   33   34   35   36   37   38   ...   72

THỊ TRẤN KHIẾM NHÃ VÀ BÀN CHỜ: BƯỚC VÀO THẾ GIỚI VIỆC LÀM

NGHIÊN CỨU VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Phần 2. ĐỘ TUỔI ĐẾN TRƯỜNG VÀ THỜI THANH NIÊN

Chương 8. NGHI THỨC CHUYỂN SANG ĐẦU TUỔI THANH NIÊN
Mục tiêu nghiên cứu

- Công việc bán thời gian có tác động gì đến sự phát triển của trẻ vị thành niên?

- Trẻ vị thành niên chọn một nghề cụ thể ra sao?

Thị trấn khiếm nhã và bàn chờ: bước vào thế giới việc làm

- Công việc bán thời gian

- Phát triển nghề nghiệp

Khi Aaron 15 tuổi tuyên bố rằng mình muốn sau khi đi học về sẽ làm thêm trong một siêu thị ở địa phương, mẹ cậu rất vui nghĩ rằng cậu sẽ học hỏi được nhiều kinh nghiệm. 5 tháng sau, bà lại hoài nghi. Aaron không còn quan tâm đến việc học nữa, và người ta luôn bàn về cách xài tiền của cậu.

"Bạn sẽ làm gì khi lớn?" Trẻ con thường rất vui khi người khác hỏi câu này. Tuy nhiên, bắt đầu vào tuổi vị thành niên, việc làm là điều có ý nghĩa quan trọng vì việc làm có một thành phần quan trọng trong nhận dạng của một người. Việc làm dù đó là thợ hồ, phóng viên hoặc nhân viên chăm sóc trẻ con đi nữa, đều giúp xác định chúng ta là ai.

Như Aaron, nhiều trẻ vị thành niên Mỹ đều có sự tiếp xúc đầu tiên với thế giới việc làm bán thời gian sau khi đi học về hoặc vào ngày cuối tuần, chúng ta bắt đầu tìm hiểu chủ đề này.



CÔNG VIỆC BÁN THỜI GIAN

Trẻ vị thành niên trong ảnh chụp (trang 340 bên trái trên) đang tham gia một nghi thức của trẻ vị thành niên Mỹ - công việc bán thời gian. Ngày nay, đa số học sinh phổ thông trung học đều làm việc bán thời gian. Trong số nhân viên tuổi vị thành niên làm việc bán thời gian, thì có 1 người làm việc trong nhà hàng thức ăn nhanh như McDonald hoặc Burger King, và 1 làm việc trong cửa hiệu bán lẻ với vai trò làm việc bán hàng hoặc thu ngân. Nữ thường làm nghề trông em, nhân viên phục vụ hoặc nhân viên nhà hàng, lương thường thấp hơn nam (Call, 1996; Mortimer, 1991).

Công việc bán thời gian là một khía cạnh mới trong tuổi vị thành niên. Trong thập niên 1970, chỉ có 25% học sinh trung học làm việc bán thời gian so với 75% trong thập niên 1980 và 1990. Sự phát triển này chỉ có ở Mỹ. Ở các nước công nghiệp khác ở Tây Âu và Châu Á, học sinh trung học làm việc bán thời gian chỉ là số ít. So với học sinh trung học ở những nước này học sinh Mỹ có ngày học ngắn hơn và bài tập ở nhà ít hơn nhiều, có nghĩa là họ có thời gian đi làm thêm (Reubens, Harrison, & Kupp,1981).

Người lớn thường ca ngợi những thói quen làm việc mới xuất hiện này, nghĩ rằng bằng cách tiếp xúc với nơi làm việc sớm, trẻ vị thành niên sẽ học được kỷ luật, tự tin và có được kỹ năng làm việc quan trọng (Snedeker, 1982). Đối với hầu hết trẻ vị thành niên, thực tế hoàn toàn khác hẳn. Thật ra công việc bán thời gian có thể có hại. Thường gặp một số vấn đề.

1. Ảnh hưởng kết quả học tập. Khi học sinh làm việc hơn 15 giờ mỗi tuần, thì ít dành thời gian làm bài tập ở nhà hơn và có nhiều khả năng bỏ học. Không có gì phải ngạc nhiên khi điểm thường thấp hơn bạn đồng tuổi làm việc ít hơn hoặc không làm gì cả (Steinberg, Fegley, & Dornbusch, 1993). Tại sao 15 giờ làm việc lại bất lợi cho việc học ở trường? Thời biểu làm việc 15 giờ có thể bao gồm 4 ca mỗi ca 3 tiếng sau khi đi học về và làm thêm một ca 3 tiếng nữa vào ngày cuối tuần. Điều này trông có vẻ còn rất nhiều thời gian để học nhưng chỉ đối với học sinh nào biết sử dụng thời gian của mình hiệu quả. Thật ra, nhiều học sinh trung học rõ ràng không nhìn thấy trước và kỷ luật cần thiết để đáp ứng yêu cầu kết hợp giữa công việc và trường học. Như cô gái trong ảnh chụp (bên phải trên), nhiều trẻ vị thành niên cảm thấy rất khó cân đối thời gian giữa công việc, học và ngủ.

2. Sức khỏe tâm thần và rối loạn hành vi. Trẻ vị thành niên làm việc nhiều giờ - hơn 15 hoặc 20 giờ mỗi tuần - có nhiều khả năng lo âu và trầm cảm hơn, thái độ tự trọng của đứa trẻ thường bị tổn hại. Nhiều trẻ vị thành niên nhận thấy công việc của mình nhàm chán, lặp đi lặp lại và căng thẳng. Điều kiện như thế này xói mòn thái độ tự trọng và nuôi dưỡng sự lo âu.

Công việc bán thời gian kéo dài cũng dẫn đến việc lạm dụng chất gây nghiện thường xuyên hơn như thuốc lá, rượu, cần sa và cocaine (Bachman & Schulenberg, 1993; Mortimer và người khác, 1996). Công việc kéo dài cũng đi kèm với rối loạn hành vi thường xuyên hơn bao gồm việc dùng bạo lực đối với người khác, gây rắc rối với cảnh sát và cãi lại bố mẹ (Bachman & Schulenberg, 1993).

Tại sao việc làm lại đi kèm với tất cả những rối loạn này vẫn chưa rõ. Có lẽ trẻ vị thành niên đi làm thường nhờ đến chất gây nghiện để giúp mình đối phó với lo âu và trầm cảm do công việc mang lại. Tranh cãi với bố mẹ thường xuyên hơn vì trẻ vị thành niên lo âu, trầm cảm dễ cãi hơn hoặc vì trẻ vị thành niên có tiền lương nghĩ rằng mình có thu nhập là phải có tự do. Bất chấp cơ chế chính xác liên quan, công việc bán thời gian kéo dài rõ ràng phương hại đến sức khỏe tâm thần của hầu hết trẻ vị thành niên.

3. Sự sung túc mê muội. Người lớn đôi lúc cho rằng làm việc là tốt đối với trẻ vị thành niên vì giúp cho trẻ vị thành niên hiểu được "giá trị của đồng tiền". Ở đây thực tế lại mâu thuẫn với câu châm ngôn. Mẫu điển hình trẻ vị thành niên là "kiếm tiền để xài". Trẻ vị thành niên làm việc thường xài hầu hết số tiền mình kiếm được cho bản thân - mua quần áo, bánh snack, hoặc mỹ phẩm và mục đích giải trí. Một vài trẻ vị thành niên làm việc để dành phần lớn thu nhập của mình cho mục tiêu sau này, như học đại học hoặc phụ giúp gia đình (Shanahan và người khác, 1996a). Vì bố mẹ thường gánh chịu nhiều chi phí cần thiết đi kèm với cuộc sống độc lập thật sự - tiền thuê nhà, tiền điện nước, thực phẩm, chẳng hạn - trẻ vị thành niên làm việc thường tùy ý chi xài có tỉ lệ phần trăm trên thu nhập cao hơn nhiều người lớn. Vì thế, đối với nhiều trẻ vị thành niên công việc bán thời gian tạo ra những khả năng không thực tế về cách chi xài, phân bố thu nhập của mình (Bachman, 1983).

Thông tin xuất hiện lặp đi lặp lại từ nghiên cứu về việc làm bán thời gian hầu như không phải mang tính động viên. Như Aaron trong phần minh họa, trẻ vị thành niên làm việc nhiều giờ trong công việc bán thời gian không có lợi. Trái lại, kết quả học tập kém hơn, khả năng rối loạn hành vi nhiều hơn, học cách xài tiền hơn là quản lý tiền bạc. Những ảnh hưởng này giống nhau ở trẻ vị thành niên thuộc các nhóm dân tộc khác nhau (Steinberg & Dornbusch, 1991) và cho cả con trai và con gái đều như nhau (Bachman & Schulenberg, 1993).

Điều này có nghĩa rằng trẻ vị thành niên đang học không nên đi làm bán thời gian? Không hẳn. Công việc bán thời gian có thể thành công tùy vào hoàn cảnh. Một yếu tố quan trọng là số giờ làm. Dĩ nhiên, số giờ làm việc khác nhau ở từng học sinh nhưng hầu hết học sinh có thể dễ dàng làm việc mỗi tuần 5 giờ không hề nguy hại và nhiều em có thể làm việc 10 giờ mỗi tuần. Yếu tố quan trọng khác là loại hình công việc (Barling, Rogers, & Kelloway, 1995). Khi trẻ vị thành niên có công việc giúp mình sử dụng kỹ năng (như kế toán, vi tính hoặc đánh máy) và để học thêm kỹ năng mới, thái độ tự trọng tăng lên và học hỏi nhiều từ kinh nghiệm. Tuy nhiên, yếu tố khác là trẻ vị thành niên xài tiền kiếm được như thế nào. Khi để dành tiền hoặc dùng để mua quần áo, đóng học phí thì mối quan hệ giữa trẻ vị thành niên và bố mẹ thường được cải thiện (Shanahan và người khác, 1996b).

Theo những tiêu chuẩn này, người nào có khả năng bị ảnh hưởng bất lợi khi làm việc bán thời gian? Trẻ vị thành niên mỗi tuần đóng gói gia vị 30 tiếng và dành hầu hết số tiền kiếm được để mua đĩa CD hoặc băng video. Người nào có lợi khi làm việc bán thời gian? Trẻ vị thành niên sửa xe và dành ngày thứ bảy để làm việc trong một garage và để dành một phần thu nhập kiếm được để đóng học phí.



VẤN ĐỀ CẦN SUY NGHĨHãy nhớ lại những năm học trung học của chính bạn và của những người bạn khác. Bạn có thể nhớ học sinh nào (kể cả bạn!) bị ảnh hưởng bất lợi từ công việc bán thời gian hay không? Bạn có nhớ người nào hưởng lợi từ công việc bán thời gian hay không? Sau cùng, công việc trong nghỉ hè thường không có sự xung đột giữa công việc và trường học. Do đó, phần lớn ảnh hưởng bất lợi trong công việc bán thời gian trong niên học không có ảnh hưởng đối với công việc làm trong hè. Thật ra, công việc như thế làm tăng thái độ tự trọng của trẻ vị thành niên nhất là khi biết để dành một phần thu nhập cho sau này (Marsh, 1991).

PHÁT TRIỂN NGHỀ NGHIỆP

Đối mặt với thử thách chọn nghề nhiều trẻ vị thành niên bị cuốn hút trước tiếp cận của cậu bé trong truyện tranh. Chọn nghề rất khó một phần vì phải xác định loại công việc có thể xin được việc sau này. Dự đoán tương lai rất nhiều rủi ro, nhưng Cục thống kê lao động Mỹ dự đoán rằng vào năm 2006, khoảng 75% công việc trong ngành công nghiệp dịch vụ, như giáo dục, chăm sóc sức khỏe và ngân hàng, 25% còn lại trong ngành sản xuất hàng hóa. Trong tương lai, công việc trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và sản xuất sẽ ít hơn (Franklin, 1997).

Hiểu loại công việc mà các chuyên gia dự đoán sẽ có nhiều, trẻ vị thành niên làm cách nào bắt đầu một quá trình chọn nghề kéo dài giúp trẻ hạnh phúc và có tương lai? Lý thuyết chọn nghề mô tả quá trình này. Theo thuyết do Donald Super (1976, 1980) đưa ra, nhận dạng là một tác động chính trong chọn nghề của trẻ vị thành niên. Bắt đầu 13 hoặc 14 tuổi, trẻ vị thành niên sử dụng nhận dạng đang nổi bật của mình như một nguồn quan điểm đầu tiên về nghề nghiệp, một quá trình gọi là sự kết tinh. Trong những năm này trẻ vị thành niên bắt đầu sử dụng quan điểm của mình về tài năng và quan tâm của chính mình để thu hẹp nghề tiềm năng có thể chọn. Một bé trai tuổi vị thành niên có tính hướng ngoại, hòa đồng có thể quyết định làm việc với người là một bộ phận trong nghề của mình. Quyết định ban đầu như thế chỉ mang tính tạm thời, nhiều trẻ vị thành niên thử nghiệm nhiều nghề giả thuyết khác nhau và cố tưởng tượng mỗi nghề có đặc điểm gì.

Giai đoạn kế tiếp thường bắt đầu lúc 18 tuổi, đây là sự mở rộng hoạt động đi kèm với sự kết tinh. Trong cụ thể hóa, trẻ vị thành niên hạn chế hơn nữa tiềm năng nghề nghiệp của mình bằng cách tìm hiểu nhiều hơn về đặc điểm của công việc cụ thể và bắt đầu học hỏi theo yêu cầu dành cho công việc cụ thể ấy. Bé trai tuổi vị thành niên tính hướng ngoại theo giả thuyết của chúng ta muốn làm việc chung với người khác có thể quyết định một nghề bán hàng vì phù hợp với khả năng và sự quan tâm của mình. Một số trẻ vị thành niên như trong ảnh chụp có thể bắt đầu thời gian tập sự để học nghề kinh doanh.

Cuối những năm vị thành niên và đầu tuổi 20 đánh dấu sự bắt đầu của giai đoạn thứ ba. Trong giai đoạn thực hiện, cá nhân tham gia lực lượng lao động và trực tiếp tìm hiểu công việc. Đây là thời điểm tìm hiểu trách nhiệm và năng suất, hòa hợp với đồng nghiệp, thay đổi cách sống để thích nghi với công việc. Giai đoạn này thường không ổn định. Cá nhân đôi khi thường xuyên thay đổi quan điểm khi điều chỉnh để thích nghi với thực tế cuộc sống ở nơi làm việc.

Trong phần Người thật việc thật, bạn sẽ thấy ba giai đoạn này trong quá trình phát triển nghề nghiệp của một người.



NGƯỜI THẬT, VIỆC THẬT: "CUỘC ĐỜI CỦA LYNNE", VỞ KỊCH BA HỒI

Hồi 1:Kết tinh - trong những năm trung học, Lynne tích cực tham gia nhiều tổ chức. Cô rất thích bận rộn và thường xuyên tiếp xúc với người khác. Lynne thường được phân công làm văn phòng, cũng được yêu cầu làm thủ quỹ. Cô không tham lam, cô cảm thấy hài lòng khi sắp xếp hồ sơ tài chánh cho có thứ tự. Vào cuối năm 12 Lynne quyết định học kinh doanh, phù hợp với điểm cao của cô trong môn tiếng Anh và môn toán.

Hồi 2: Cụ thể hóa - Lynne được nhận vào học Khoa kinh doanh ở một đại học lớn trong tiểu bang. Cô quyết định rằng kế toán hợp với kỹ năng và tính tình của mình, vì thế cô chọn chuyên ngành này. Trong dịp hè, cô làm thủ quỹ cho hãng J.C.Penney. Công việc này giúp cô đóng được học phí và có thêm kinh nghiệm trong lĩnh vực bán lẻ.

Hồi 3: Thực hiện - Một vài tháng sau khi tốt nghiệp, Lynne được đề nghị giữ chức kế toán trung cấp ở hãng Wal-Mart. Công việc của cô yêu cầu cô phải làm việc từ thứ ba đến thứ sáu, kiểm toán các cửa hàng Wal-Mart ở một số thành phố lân cận. Lynne hưởng lương hậu, đi xe công ty, có cảm giác độc lập. Tuy nhiên, mỗi sáng phải đi làm lúc 7:30 là một cú sốc đối với những ai quen thức dậy lúc 10 giờ. Lynne thường cảm thấy lúng túng khi tiếp xúc với các quản lý cửa hàng, phần lớn họ đều gấp đôi tuổi cô và rất đáng sợ. Cô đi đến kết luận rằng muốn trở thành một nhân viên kế toán thành công còn rất nhiều chuyện phải học ngoài chuyện cộng trừ nhân chia các con số cho chính xác ra.

"Cuộc đời của Lynne" minh họa một quá trình cho nhận liên tục giữa khái niệm cái tôi của cá nhân và sự phát triển nghề nghiệp của cá nhân ấy. Khái niệm cái tôi của một người khiến cho một số nghề nghiệp này hấp dẫn hơn một số nghề nghiệp khác, kinh nghiệm nghề nghiệp đầy đủ hơn và định hình khái niệm cái tôi của một người.

Một khía cạnh khác trong cuộc đời của Lynne làm sáng tỏ thuyết của Super. Sau 18 tháng làm việc nhóm kế toán của Lynne hợp nhất lại với nhau, điều này đòi hỏi Lynne phải sang tiểu bang khác làm việc, vì thế cô nghỉ việc. Sau 6 tháng tìm việc kế toán khác, Lynne bỏ cuộc rồi bắt đầu học để làm nhân viên bất động sản. Đạo đức? Điều kiện kinh tế và cơ hội cũng định hình sự phát triển nghề nghiệp. Thời điểm thay đổi có thể buộc cá nhân phải chọn con đường nghề nghiệp mới, thường không ngờ đến.

CHỦ ĐỀ NGHỀ NGHIỆP CHUNG TRONG THUYẾT CỦA HOLLAND

Chủ đề
Mô tả
Nghề nghiệp
Thực tế

Cá nhân thích lao động chân tay, và thích giải quyết vấn đề cụ thể.

Thợ máy, lái xe tải, công nhân xây dựng

Điều nghiên

Cá nhân định hướng công việc và thích suy nghĩ về quan hệ trừu tượng

Nhà khoa học, nhà văn kĩ thuật

Xã hội

Cá nhân có khả năng diễn đạt bằng lời và quan hệ giữa cá nhân với nhau, thích giải quyết những vấn đề sử dụng kĩ năng này



Giáo viên, luật sư, nhân viên xã hội

Qui ước


Cá nhân có khả năng diễn đạt bằng lời và về số lượng thích áp dụng vào các công việc có cấu trúc, được nhận định rõ, được người khác phân công

Nhân viên thu ngân, thư ký phụ trách lương, quản lý giao thông

Táo bạo

Cá nhân thích sử dụng kĩ năng diễn đạt bằng lời trong vị trí người có quyền lực, địa vị và khả năng



Điều hành kinh doanh, nhà sản xuất truyền hình, nhân viên bất động sản.

Nghệ thuật

Cá nhân thích tự thể hiện trong công việc không cấu trúc

Nhà thơ, nhạc sĩ, diễn viên



Thuyết Loại nhân cách

Thuyết của Super (1976, 1980) giúp giải thích khái niệm cái tôi và khát vọng nghề nghiệp phát triển trực tiếp ra sao, nhưng không giải thích tại sao cá nhân cụ thể thích thú với loại công việc này hơn là loại công việc khác. Giải thích sự phù hợp giữa con người và nghề nghiệp là mục đích của thuyết do John Holland (1985, 1987, 1996) đưa ra. Theo thuyết Loại nhân cách của Holland, người ta nhận thấy công việc được trọn vẹn khi các đặc điểm quan trọng của một công việc hoặc nghề nghiệp phù hợp với nhân cách của nhân viên ấy. Holland nhận dạng 6 nhân cách nguyên mẫu liên quan với thế giới công việc. Mỗi nhân cách phù hợp tốt nhất với một tập hợp nghề nghiệp cụ thể, như biểu thị ở cột bên phải bảng bên trên. Nên nhớ đây chỉ là những nguyên mẫu. Hầu hết mọi người không giống đúng như một loại nhân cách bất kỳ. Thay vào đó, nhân cách liên quan đến công việc là sự hỗn hợp của 6 nhân cách.

Mô hình này hữu dụng trong việc mô tả sở thích nghề nghiệp của trẻ vị thành niên châu Phi, châu Á, châu Âu, người Mỹ bản xứ và người Mỹ gốc Mexico, cũng như có ích đối với cả nam lẫn nữ (Day, Rounds, & Swaney, 1998). Nghiên cứu chứng minh rằng khi con người có công việc phù hợp với loại nhân cách của mình thì trong thời gian ngắn họ là nhân viên có năng suất nhiều hơn và về lâu dài họ có con đường nghề nghiệp ổn định hơn (Holland, 1996). Chẳng hạn, một trẻ vị thành niên táo bạo như trong ảnh chụp (trang 345) có nhiều khả năng thành công trong kinh doanh vì cậu thích vị trí quyền lực để cậu sử dụng kỹ năng diễn đạt bằng lời của mình.

Kết hợp thuyết Nghề nghiệp chung của Holland với thuyết phát triển nghề nghiệp của Super cho chúng ta một bức tranh hoàn chỉnh về sự phát triển nghề nghiệp. Một mặt, thuyết của Super giải thích sự tiến bộ phát triển trong đó cá nhân chuyển quan tâm chung thành một nghề nghiệp cụ thể, mặt khác, thuyết của Holland giải thích những gì tạo ra sự thích hợp giữa quan tâm cụ thể với nghề nghiệp cụ thể.

Dĩ nhiên, cố gắng làm cho quan tâm phù hợp với nghề nghiệp là việc rất khó. Thật may, một số đánh giá được sử dụng để mô tả nhân cách liên quan với công việc của một người và công việc thích hợp với người ấy nhất. Trong Thống kê điều rất quan tâm (SII®), chẳng hạn, người ta bày tỏ thái độ thích các nghề nghiệp khác nhau, môn học, hoạt động, loại người (như người rất già, người sống trong nguy hiểm). Những câu trả lời này so sánh với câu trả lời thu được từ một mẫu qui phạm gồm các cá nhân ở các nghề nghiệp khác nhau. Kết quả là một mô tả sơ lược, được thể hiện một phần ở hình bên phải.

Bạn có thể nhận thấy rằng mỗi loại của Holland - gọi là "Chủ đề nghề nghiệp chung" đối với SII® - được liệt kê. Dưới mỗi tiêu đề là các thanh màu đen và tô bóng thể hiện câu trả lời điển hình của nam và nữ. Dấu chấm biểu thị câu trả lời của một người sẽ nằm ở đâu so với người khác cùng phái với mình. Nhìn vào cột bên trái, bạn nhìn thấy người phụ nữ này ít quan tâm hơn người phụ nữ trung bình đối với Chủ đề thực tế và điều nghiên nhưng quan tâm hơn người phụ nữ trung bình về Chủ đề nghệ thuật. Trong cột bên phải, người phụ nữ này có quan tâm trung bình đối với Chủ đề xã hội và qui ước nhưng quan tâm thấp hơn trung bình đối với Chủ đề táo bạo. Trong số 6 Chủ đề nghề nghiệp chung, quan tâm của người này trông có vẻ phù hợp với nhân cách nghệ thuật trong thuyết của Holland.

Bằng cách nhìn vào Thang quan tâm cơ bản được liệt kê dưới Chủ đề nghề nghiệp nghệ thuật, chúng ta có được một khái niệm chính xác hơn về quan tâm của phụ nữ này. So với phụ nữ trung bình, phụ nữ này thể hiện nhiều sự quan tâm trong Nghệ thuật, Viết văn và Nghệ thuật nấu ăn. Quan tâm của cô trong Âm nhạc và Nghệ thuật ứng dụng chỉ ở mức trung bình. Rõ ràng công việc lý tưởng của cô là nhà văn viết cho một tạp chí nghệ thuật hoặc tạp chí nấu ăn!

Hãy nhìn Chủ đề nghề nghiệp còn lại để nhớ rằng sự phù hợp giữa quan tâm và nghề nghiệp vẫn chưa hoàn hảo. Mặc dù sự quan tâm Chủ đề thực tế và nghề nghiệp xã hội của phụ nữ này nói chung chỉ ở mức trung bình, nhưng cô còn rất quan tâm đến Nông nghiệp và Hoạt động tôn giáo.

Nếu bạn vẫn còn phân vân trong chọn nghề, chúng ta khuyến khích bạn nên đến trung tâm tư vấn của trường học và tham gia kiểm tra đánh giá như SII®. Kết quả sẽ giúp bạn tập trung vào các nghề phù hợp với quan tâm của bạn và giúp bạn chọn đúng trường để học nghề ấy.

Cho dù bạn đã tương đối chắc chắn về kế hoạch học nghề thì cũng nên tham gia kiểm tra đánh giá này. Như chúng ta đã biết trường hợp của Lynne (sẽ đề cập chi tiết hơn trong chương 11 và 14), sự phát triển nghề nghiệp không kết thúc bằng công việc đầu tiên con người liên tục hoàn thiện khao khát nghề nghiệp của mình trong suốt quãng đời, và những kết quả này rất có ích về sau này.



VẤN ĐỀ CẦN SUY NGHĨCác loại nhân cách khác nhau trong thuyết của Holland liên quan với các loại trí năng khác nhau do Howard Gardner đưa ra (mô tả trong Chương 6) ra sao? TỰ KIỂM TRA

1. Trẻ vị thành niên làm việc kéo dài trong công việc bán thời gian trong năm học thường có điểm thấp, rối loạn hành vi và …

2. Công việc bán thời gian trong năm học có lợi nếu trẻ vị thành niên hạn chế số lượng giờ làm việc và …

3. Trong giai đoạn chọn nghề …, trẻ vị thành niên học hỏi nhiều hơn về đặc điểm cụ thể của công việc và bắt đầu đào tạo.

4. Cá nhân có loại nhân cách … phù hợp nhất với nghề giáo viên hoặc luật sư.

5. Sử dụng 6 loại nhân cách trong thuyết của Holland, hãy nghĩ đến một người mà bạn biết rõ phù hợp với một trong những loại này. (Biểu đồ trang 344 hỗ trợ bạn). Bạn có nghĩ rằng nghề nghiệp của một người tượng trưng cho sự phù hợp với loại nhân cách của người ấy hay không?

Trả lời: (1) có cảm giác sung túc mê muội, (2) làm những công việc giúp sử dụng và phát triển kĩ năng, (3) cụ thể hóa, (4) xã hội.


  1. "TÔI YÊU EM RA SAO?" - MỐI QUAN HỆ LÃNG MẠN

NGHIÊN CỨU VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Phần 2. ĐỘ TUỔI ĐẾN TRƯỜNG VÀ THỜI THANH NIÊN

Chương 8. NGHI THỨC CHUYỂN SANG ĐẦU TUỔI THANH NIÊN
Mục tiêu nghiên cứu

- Chức năng của hẹn hò là gì?

- Điều gì xác định định hướng tình dục của trẻ vị thành niên?

- Trẻ vị thành niên hoạt động giới tính ở độ tuổi nào? Yếu tố nào tác động đến trẻ vị thành niên có hoạt động như thế?

- Tại sao trẻ vị thành niên hoạt động giới tính sử dụng thuốc ngừa thai không thường xuyên?

- Một số hành vi nào làm cho trẻ vị thành niên dễ bị nhiễm AIDS?

- Tình huống nào dễ có khả năng xảy ra hiếp dâm hẹn hò?

"Tôi yêu em ra sao?" – Mối quan hệ lãng mạn

- Hẹn hò


- Đánh thức quan tâm tình dục

Trong 6 tháng, Rebecca 15 tuổi hẹn hò với Michael 17 tuổi. Cô bé nghĩ mình thật sự biết yêu lần đầu tiên và thường tưởng tượng chuyện lấy Michael làm chồng. Cả hai đều có quan hệ tình dục vài ba lần nhưng không lần nào dùng ngừa thai. Đôi khi Rebecca cũng nghĩ rằng nếu mình có thai, mình sẽ tìm một căn hộ mới và bắt đầu ra riêng.

Ngọn lửa của mối quan hệ yêu đương lãng mạn từ lâu đã sưởi ấm nhiều trái tim trẻ vị thành niên Mỹ. Cũng như ở Rebecca và Michael, chuyện yêu đương dẫn đến quan hệ tình dục. Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu hẹn hò và quan hệ tình dục ở trẻ vị thành niên. Bạn sẽ hiểu nhiều hơn tại sao Rebecca có quan hệ tình dục thiếu an toàn với Michael.

HẸN HÒ

Trẻ vị thành niên Mỹ thường bắt đầu hẹn hò khi khoảng 15 tuổi (Miller và người khác, 1997). Kinh nghiệm hẹn hò đầu tiên thường diễn ra khi các nhóm cùng phái đi đến nơi biết rằng có một đám đông cả nam lẫn nữ đang chờ. Minh họa bao gồm việc đi đến một hội trường chung với bạn hoặc đi dự khiêu vũ trong trường. Hình thức hẹn hò có phần nào tiến bộ hơn bao gồm một số nam nữ cùng nhau đi chơi trong tư cách một nhóm. Sau cùng, hẹn hò bao gồm các cặp được xác định rõ. Vào năm cuối cấp phổ thông, hầu hết học sinh đều có ít nhất một bạn trai hoặc bạn gái ổn định.

Như bạn nghĩ, yếu tố văn hóa ảnh hưởng mạnh đến các mẫu hẹn hò. Chẳng hạn, bố mẹ Mỹ gốc Âu thường khuyến khích sự độc lập ở trẻ vị thành niên nhiều hơn bố mẹ Mỹ gốc Tây Ban Nha và Mỹ gốc Á truyền thống, nhấn mạnh ràng buộc gia đình và sự trung thành với bố mẹ. Hẹn hò là dấu hiệu độc lập, kết quả là thời gian ở với gia đình ít hơn, giải thích tại sao trẻ vị thành niên Mỹ gốc Tây Ban Nha và Mỹ gốc Á thường bắt đầu hẹn hò ở tuổi lớn hơn và hẹn hò ít thường xuyên hơn (Xiaohe & Whyte, 1990).

Ban đầu, chức năng chính của hẹn hò là chọn bạn, nhưng ngày nay hẹn hò có nhiều chức năng khác nhau đối với trẻ vị thành niên (Padgham & Blyth, 1991; Sanderson & Cantor, 1995). Hẹn hò:

- Là hình thức tiêu khiển, giải trí thú vị

- Dạy các tiêu chuẩn về hành vi giữa cá nhân với nhau của người lớn

- Là phương tiện xác lập thân thế ở bạn đồng tuổi

- Là lối thoát để thử nghiệm quan hệ giới tính

- Tạo ra tình bạn giống như kinh nghiệm giữa những người bạn thân

- Dẫn đến sự thân mật trong đó trẻ vị thành niên chia sẻ tâm tư thầm kín với bạn mình

Chức năng hẹn hò thay đổi trong trẻ vị thành niên. Khi trẻ vị thành niên trưởng thành, sự bầu bạn và thân mật trở nên quan trọng hơn trong khi giải trí và thân thế kém quan trọng hơn (Roscoe, Diana, & Brooks, 1987; Sanderson & Cantor, 1995).

Định hướng tình dục

Đối với hầu hết trẻ vị thành niên, hẹn hò và yêu đương bao gồm thành viên khác phái. Tuy nhiên, như một phần trong việc tìm cách xác lập nhận dạng, nhiều trẻ vị thành niên tự hỏi, ít nhất trong nghi thức đi qua, liệu mình có phải là quan hệ đồng giới hay không. Thật ra, khoảng 15% trẻ vị thành niên báo cáo có sự hấp dẫn cảm xúc và tình dục đối với thành viên cùng phái (D’Augelli, 1996). Đối với hầu hết trẻ vị thành niên, những kinh nghiệm này đơn thuần là một phần trong quá trình thử nghiệm vai trò rộng lớn hơn thường gặp ở trẻ vị thành niên. Tuy nhiên, trẻ vị thành niên tìm kiếm định nghĩa cái tôi dẫn đến kết quả khoảng 5% số trẻ vị thành niên tự nhận dạng mình là nam đồng tính hoặc nữ đồng tính trong định hướng tình dục. Sự nhận dạng này thường diễn ra ở giữa tuổi vị thành niên nhưng cho đến khi đầu tuổi thanh niên, thì hầu hết cá nhân nam đồng tính hoặc nữ đồng tính mới biểu lộ công khai định hướng tình dục của mình (D’Augelli, 1996).

Tại sao trẻ vị thành niên nam đồng tính hoặc nữ đồng tính phải chờ quá lâu, 3 - 5 năm mới tuyên bố định hướng tình dục? Nhiều người hợp lý khi cho rằng bạn đồng tuổi của trẻ chắc chắn không ủng hộ trẻ (Newman & Muzzonigro, 1993). Chẳng hạn, trong một khảo sát trên toàn quốc, chỉ 40% con trai từ 15 đến 19 tuổi đồng ý rằng mình có thể làm bạn với một nam đồng tính (Marsiglio, 1993).

Trẻ vị thành niên cho rằng mình không thể làm bạn với một bạn đồng tuổi nam đồng tính hoặc nữ đồng tính hầu hết thường nhỏ tuổi hơn tự nhận dạng mình là những người theo thuyết cơ bản trong tôn giáo, và bố mẹ có trình độ kém hơn.

Nguồn gốc định hướng tình dục vẫn chưa được hiểu thấu đáo. Tuy nhiên, các nhà khoa học bác bỏ một số quan điểm về nguồn gốc định hướng tình dục. Nghiên cứu (Bell, Weinberg, & Hammersmith, 1981; Golombok & Tasker, 1996; Patterson, 1992) chứng minh mỗi quan điểm sau đều sai:

- Con trai trở thành nam đồng tính khi được mẹ độc đoán và bố nhu nhược nuôi dưỡng.

- Con gái trở thành nữ đồng tính khi có bố là người mẫu vai trò chính.

- Con được bố mẹ là nam đồng tính và nữ đồng tính nuôi dưỡng thường đi đến việc chấp nhận định hướng tình dục của bố mẹ.

- Người lớn là nam đồng tính và nữ đồng tính khi còn nhỏ bị một người lớn cùng phái dụ dỗ.

Sau đó điều gì xác định định hướng tình dục của một người? Yếu tố chính xác có lẽ khác nhau ở từng người nhưng nhiều nhà khoa học ngày nay có chung quan điểm cho rằng Sinh học đóng một vai trò quan trọng. Một số chứng cứ cho thấy di truyền và nội tiết tố ảnh hưởng đến định hướng tình dục (Hamer và người khác, 1993; Meyer-Bahlberg và người khác, 1995). Một quan điểm thuyết phục khác (Bern, 1996) cho rằng gien và nội tiết tố không thúc đẩy định hướng tình dục nhưng dẫn đến tính tình ảnh hưởng sở thích của trẻ con đối với hành vi cùng và khác phái. Trẻ con không thích hành vi điển hình của giới tính sẽ tự xem mình là người khác biệt, sau cùng dẫn đến một nhận dạng giới tính khác nhau.

Mặc dù nguồn gốc định hướng tình dục vẫn chưa rõ ràng nhưng điều chắc chắn là cá nhân nam đồng tính và nữ đồng tính đối mặt với nhiều thử thách đặc biệt. Gia đình và các mối quan hệ bạn đồng tuổi của họ thường bị phá vỡ. Họ thường chỉ trích bằng lời và tấn công thể xác. Dựa vào những vấn đề này, không có gì ngạc nhiên khi thanh niên nam đồng tính và nữ đồng tính thường gặp các rối loạn sức khỏe tâm thần như lo âu và trầm cảm (D’Augelli, 1996; Hershberger & D’Augelli, 1995; Rotheram-Borus và người khác, 1995).

Trong những năm gần đây, thay đổi xã hội đã giúp thanh niên nam nữ đồng tính phản ứng hiệu quả hơn đối với những thử thách đặc biệt này. Vết nhơ "chính thức" đi kèm với tình trạng nam nữ đồng tính được gỡ bỏ vào năm 1973 khi Hiệp hội tâm lý Mỹ và Hiệp hội Tâm thần Mỹ tuyên bố rằng tình dục đồng giới không phải là rối loạn tâm lý. Những thay đổi có ích khác bao gồm nhiều mô hình vai trò nam nữ đồng tính hơn (và dễ nhìn thấy hơn) giống như cặp trong ảnh chụp, và có nhiều trung tâm dành cho thanh niên nam nữ đồng tính trong thành phố hơn. Những tài nguyên này giúp thanh niên nam nữ đồng tính dễ tìm hiểu định hướng tình dục của mình hơn và dễ giải quyết nhiều yêu cầu khác của thanh niên hơn.



Каталог: sachviet -> Y-Hoc-Tong-Hop


Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   31   32   33   34   35   36   37   38   ...   72




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương