Để tạo được sự miễn dịch cho đàn gia súc, hàng năm Trạm và mạng lưới Thú y cơ sở đã triển khai tiêm phòng 2 vụ: Vụ 1 vào tháng 4 đến tháng 6, vụ 2 từ tháng 9 đến tháng 11 với các loại Vắc xin như sau:
-Vắc xin Dại chó: 2.500 liều.
- Vắc xin THT trâu, bò: 17.700 liều
- Vắc xin THT heo: 1000 liều (tiêm cho gia súc các xã đồng bào dân tộc)
-Vắc xin dịch tả heo: 1000 liều (tiêm cho gia súc các xã đồng bào dân tộc)
- Vắc xin PTH heo: 1000 liều (tiêm cho gia súc các xã đồng bào dân tộc)
- Vắc xin Lở mồm long móng trâu, bò: 41.275 liều
-Vắc xin LMLM heo: 1.500 liều (tiêm cho heo nái và heo đực giống)
Cụ thể từng vụ tiêm phòng như sau:
TT
|
Loại vắc xin
|
Tổng đàn (con)
|
Vụ 1/2009
|
Vụ 2/2009
|
Tiêm được (con)
|
Tỷ lệ % so tổng đàn
|
Tiêm được (con)
|
Tỷ lệ % so tổng đàn
|
1
|
Dại chó
|
15.000 (chó)
|
2.500
|
16.67
|
|
|
2
|
THT trâu bò
|
26.042 (trâu bò)
|
8.700
|
33.41
|
9.000
|
34.56
|
3
|
LMLM trâu bò
|
26.042 (trâu bò)
|
20.600
|
79.1
|
20.675
|
79.4
|
4
|
THT heo
|
35.380 (heo)
|
500
|
1.41
|
500
|
1.41
|
5
|
Dịch tả heo
|
35.380 (heo)
|
500
|
1.41
|
500
|
1.41
|
6
|
PTH heo
|
35.380 (heo)
|
500
|
1.41
|
500
|
1.41
|
7
|
LMLM heo
|
35.380 (heo)
|
1.500
|
4.24
|
1.500
|
4.24
|
8
|
Tam liên heo
|
35.380 (heo)
|
6.250
|
17.67
|
5.430
|
15.35
|
Kết quả cụ thể từng đơn vị:
STT
|
Tên đơn vị
|
Loại vắc xin
|
Dại chó
|
LMLM trâu bò
|
LMLM heo
|
THT trâu bò
|
THT heo
|
PTH heo
|
Dịch tả heo
|
1
|
Yang Réh
|
30
|
5.475
|
400
|
1.300
|
200
|
200
|
100
|
2
|
Ea Trul
|
130
|
2.975
|
50
|
2.050
|
150
|
200
|
200
|
3
|
Hòa Sơn
|
205
|
4.000
|
300
|
1.750
|
100
|
100
|
50
|
4
|
TT.Krông Kmar
|
260
|
1.025
|
200
|
500
|
100
|
100
|
50
|
5
|
Khuê Ngọc Điền
|
120
|
2.000
|
125
|
1.350
|
0
|
25
|
0
|
6
|
Hòa Tân
|
70
|
2.400
|
100
|
550
|
0
|
0
|
0
|
7
|
Cư Kty
|
310
|
4.250
|
300
|
1.950
|
50
|
50
|
50
|
8
|
Hòa Thành
|
270
|
2.300
|
400
|
600
|
0
|
0
|
0
|
9
|
Yang Kang
|
150
|
2.500
|
400
|
1.000
|
150
|
150
|
100
|
10
|
Hòa Lễ
|
200
|
1.825
|
225
|
900
|
0
|
0
|
0
|
11
|
Hòa Phong
|
479
|
5.000
|
75
|
2.750
|
200
|
125
|
100
|
12
|
Cư Pui
|
100
|
3.000
|
25
|
700
|
0
|
0
|
0
|
13
|
Cư Đrăm
|
65
|
2.600
|
200
|
1.100
|
50
|
50
|
350
|
14
|
Yang Mao
|
50
|
1.925
|
200
|
1.200
|
0
|
0
|
0
|
TỔNG CỘNG
|
2.439
|
41.275
|
3.000
|
17.700
|
1.000
|
1.000
|
1.000
|
Qua kết quả trên chúng ta nhận thấy sự nỗ lực của toàn thể mạng lưới Thú y trong công tác tiêm phòng cho đàn gia súc, góp phần tạo được sự miễn dịch cho đàn gia súc, khống chế không cho dịch bệnh lây lan trên diện rộng, tiến đến dập tắt dịch bệnh.
4. Công tác tiêu độc khử trùng:
Số hóa chất được cấp trong năm 2009 là : 900 lít.
Số hoá chất trên đã được triển khai trong 03 đợt sát trùng tiêu độc trên toàn huyện và ở thôn buôn có dịch. Bên cạnh đó còn cung cấp cho các chốt chặn để phun tiêu độc các xe qua lại.
Công tác vệ sinh sát trùng tiêu độc năm nay tương đối thuận lợi kinh phí cho một thôn buôn (gồm xăng nhớt, công phun, công Thú y được ngân sách chi trả cho từng thôn buôn là 180.000 đ) và một số đơn vị vẫn được nhận được sự quan tâm của UBND xã hỗ trợ ít nhiều nữa, song bên cạnh đó có những đơn vị vì nhiều lý do mà triển khai chậm hơn nhiều so với kế hoạch triển khai. Tiêm phòng vắc xin LMLM vụ 2/2009 kết thúc muộn hơn 1 tháng do nguồn vắc xin từ nhà sản xuất cung cấp trễ.
+ Kiểm tra, kiểm soát giết mổ gia súc (KSGMGS)
Công tác kiểm soát giết mổ gia súc là một công tác chuyên môn đòi hỏi mỗi cán bộ Thú y làm công tác KSGMGS phải thật kiên trì, chịu khó và nắm vững chuyên môn như nắm rõ về bệnh tích của từng bệnh trên gia súc, biết được bệnh nguy hiểm cần tiêu hủy … để từ đó phân biệt và xử lý đúng từng trường hợp cần xử lý. Bên cạnh đó, Trạm Thú y cũng thường xuyên đi kiểm tra đến tận các chợ, các lò giết mổ, điểm giết mổ gia súc để nhắc nhở các chủ kinh doanh giết mổ gia súc thực hiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Song một số lò, điểm giết mổ gia súc còn có chủ kinh doanh giết mổ gia súc chống đối cán bộ Thú y làm công tác kiểm tra kiểm soát giết mổ gia súc như không nộp đúng, đủ tiền lệ phí, coi thường cán bộ làm công tác KSGMGS, giết mổ gia súc không tuân thủ theo qui định giờ giấc trong nội quy lò giết mổ gia súc tập trung gây khó khăn không nhỏ cho cán bộ làm công tác KSGMGS.
Trong năm toàn huyện có 05 lò giết mổ gia súc tập trung, 07 điểm giết mổ gia súc tại nhà và đã kiểm tra, kiểm soát được số lượng sau:
TT
|
Loại
động vật
|
Kiểm soát được
|
Trường hợp xử lý
|
Nguyên nhân
|
Biện pháp xử lý
|
1
|
Heo
|
5137
|
02
|
Heo bệnh
|
luộc chín
|
2
|
Bò
|
195
|
|
|
|
+ Kiểm dịch động vật (KDĐV) và sản phẩm động vật
Công tác KDĐV luôn là vấn đề mà trạm quan tâm vì trên thực tế gia súc tiêu thụ trong tỉnh thì các chủ gom hàng không qua kiểm dịch mà tự mua, tự bán và đây cũng là nguồn lây lan dịch bệnh vào địa phương, hơn thế khi các chủ kinh doanh mua bán gia súc trên địa bàn huyện ở từng đơn vị xã, thị trấn chưa được quản lý chặt chẽ nên tình trạng mua bán vận chuyển gia súc mua vào bán ra trên địa bàn huyện còn nhiều bất cập. Song năm qua trạm cũng đã làm KDĐV xuất tỉnh được số gia súc, gia cầm như sau:
TT
|
Loại ĐV,
SPĐV
|
Đ.v tính
|
Xuất
|
Nhập
|
Vi phạm
|
Lý do và BP
xử lý
|
1
|
Heo
|
Con
|
1685
|
|
|
|
2
|
Bò dự án
|
Con
|
|
82
|
|
|
3
|
Vịt
|
Con
|
2500
|
|
|
|
+ Công tác khác
- Quản lý thuốc Thú y: Toàn huyện có 6 điểm dịch vụ thuốc thú y (vừa bán thuốc, thức ăn gia súc, làm dịch vụ chữa trị bệnh, phối tinh nhân tạo cho heo). Trạm đã kiểm tra địa điểm kinh doanh và giấy phép hành nghề, giấy phép kinh doanh thì hiện nay có 03 điểm đủ điều kiện, còn lại 03 điểm chưa có giấy phép hành nghề của Chi cục Thú y cấp, Trạm đã nhắc nhở và đề nghị Chi cục Thú y năm 2009 mở lớp học tập huấn để 3 chủ điểm kinh doanh đi học, nếu không 03 chủ điểm này sẽ bị đóng cửa và không được hành nghề buôn bán, dịch vụ Thú y nữa.
- Trạm cùng với Ban Thú y các xã đã mở được 6 lớp tập huấn cho nông dân ở các xã Yang Mao, Cư Đrăm, Hòa Phong, Cư Kty, Hòa Sơn, Ea Trul. Đồng thời, Trạm cùng phối hợp với Trạm Khuyến nông mở thêm 03 lớp tập huấn cho nông dân ở các xã Cư Đrăm, Hòa Tân, Hòa Phong về các biện pháp phòng chống dịch bệnh ở gia súc, gia cầm, mỗi lớp có khoảng 40 – 50 người tham dự.
- Trạm cùng ban Thú y các xã, thị trấn thường xuyên kiểm tra tình hình dịch bệnh trên địa bàn huyện để phát hiện, xử lý dịch bệnh và báo cáo cho UBND huyện, Chi cục Thú y để chỉ đạo kịp thời chống dịch bệnh.
(Nguồn: Trạm thú y huyện)
2.4. Cơ sở lý luận của đề tài
2.4.1. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của giun đũa lợn
Giun đũa lợn ký sinh ở ruột non lợn, màu trắng sữa, hình ống, hai đầu hơi nhọn. Đầu giun có ba môi bao bọc quanh miệng, một môi ở phía lưng và hai môi ở phía bụng. Trên rìa môi có một hàng răng cưa, cấu tạo hai môi này khác nhau giữa hai loài giun đũa, hàng răng cưa ở môi giun đũa người không rõ ràng bằng răng cưa của giun đũa lợn.
Giun đực dài 12- 25 cm, đường kính 3 mm. Giun cái dài 30- 35 cm, đường kính 5- 6 mm. Phân biệt giun đực và giun cái: giun đực nhỏ, đuôi cong về mặt bụng, đuôi giun cái thì thẳng. Giun đực có hai gai giao hợp dài bằng nhau, khoảng 1,2- 2 mm, không có túi giao hợp.
Trứng hình bầu dục hơi ngắn, kích thước 0,056- 0,087 x 0,046- 0,067 mm, vỏ rất dày có bốn lớp vỏ, lớp ngoài cùng là màng protit, nhấp nhô làn sóng, do tác dụng dịch mật nên màng có màu vàng cánh dán.
2.4.2. Chu kỳ phát triển của giun đũa lợn
Không cần ký chủ trung gian, lợn trực tiếp nuốt phải trứng giun đũa gây bệnh, rồi phát triển thành giun trưởng thành. Giun cái đẻ trung bình một con là 27.000.000 trứng, mỗi ngày đẻ 200.000 trứng (Cram, 1925). Trứng theo phân lợn ra ngoài gặp độ ẩm thích hợp và nhiệt độ khoảng 24oC, sau hai tuần thành phôi thai, qua một tuần nữa phôi thai lột xác thành trứng có sức gây bệnh. Trứng này lợn nuốt phải, vào ruột non thành giun trưởng thành. Theo một số tác giả, nếu tiêm những trứng này vào xoang bụng hoặc tiêm dưới da bụng đều nở thành ấu trùng, ngoài ra có thể nuôi cấy ở môi trường glucose và đạm vẫn có thể nở ra ấu trùng. Như vậy, dịch dạ dày không phải là một yếu tố cho trứng nở thành ấu trùng.
Ấu trùng nở ở ruột, chui vào mạch máu niêm mạc, theo máu về gan. Một số ít chui vào ống lâm ba màng treo ruột rồi vào gan. Sau khi nhiễm 4- 5 ngày thì hầu hết ấu trùng di hành tới phổi, sớm nhất là 18 giờ, muộn nhất sau 12 ngày vẫn có ấu trùng vào phổi. Khi tới phổi, ấu trùng lột xác thành ấu trùng III. Ấu trùng này từ mạch máu phổi chui vào phế bào, qua khí quản, và cùng với niêm dịch ấu trùng lên hầu, rồi xuống ruột non. Khi trở lại ruột non, lột xác lần nữa thành giun trưởng thành. Trong khi di hành, một số ấu trùng vào một vài khí quan khác như: lách, tuyến giáp trạng, não…v.v. Hoàn thành vòng đời cần 54- 62 ngày.
Giun đũa sống nhờ vào chất dinh dưỡng của ký chủ, đồng thời tiết dịch tiêu hóa phân giải tổ chức ở niêm mạc ruột, lấy tổ chức đó nuôi sống bản thân. Tuổi thọ của giun đũa không quá 7- 10 tháng, hết tuổi thọ giun đũa theo phân ra ngoài. Nhưng gặp điều kiện không thuận lợi (con vật bị bệnh truyền nhiễm, sốt cao…) thì tuổi thọ của giun đũa ngắn lại. Số lượng giun có thể vài con tới trên một nghìn con trên cơ thể một con lợn.
2.4.3. Đặc điểm dịch tễ học của bệnh giun đũa lợn
Giun đũa phân bố rộng khắp thế giới, nguyên nhân chính là vòng đời của giun đũa lợn rất đơn giản, truyền trực tiếp và sức đề kháng của trứng rất cao.
Đặc điểm của trứng giun đũa lợn có 4 lớp vỏ: lớp trong cùng bảo vệ phôi thai, giữ cho các chất hữu cơ không ảnh hưởng tới trứng, hai lớp giữa giữ cho chất lỏng của trứng không bị bốc hơi, lớp ngoài cùng là lớp protit có màu vàng cánh dán giữ cho tia tử ngoại không xâm nhập được vào bên trong. Trứng sống rất lâu 6- 12 tháng trong đống phân, trong điều kiện tự nhiên sống 1- 2 năm. Nhiệt độ thích hợp cho trứng phát triển khoảng 25oC. Khi nhiệt độ xuống thấp (12oC) trứng phát triển chậm.
Trứng ở sâu 3 cm, nhiệt độ 26- 33oC, hàm lượng nước 9,5-19% thì 89% trứng phát triển. Trứng ngừng phát triển khi nhiệt độ ở rất thấp: - 4,8oC đến – 13,4oC, hàm lượng nước 6,3-17%. Trứng có thể bị chết khi gặp một trong ba trường hợp sau:
- Độ ẩm quá thấp
- Độ ẩm quá thấp, nhiệt độ cao.
- Độ ẩm và nhiệt độ cao.
Khi nhiệt độ 45-50oC trứng chết trong nửa giờ, nước nóng 60oC diệt trứng trong 5 phút, nước 70oC chỉ cần 1-10 giây. Chính vì vậy việc ủ phân sẽ làm tăng nhiệt độ trong đống phân sẽ diệt hết trứng giun đũa. Masnicova lần đầu tiên dùng nhiệt khí (170oC) diệt trứng trong phân lợn và chuồng lợn. Khi phun nhiệt khí vào phân khô hoặc ướt, chỉ 10-30 giây trứng đã chết. Ngoài ra trứng có sức đề kháng mạnh với một số chất hóa học như: focmon 2% trứng vẫn còn sống và tiếp tục phát triển, ereolin 3%, dung dịch bão hòa sunfat đồng, axit sunfuric 10%, xút 2%, hypochlorit canxi 10% không diệt được trứng. Vào mùa hè nắng chiếu trực tiếp lên đất cát thì trứng bị chết nhanh. Oxi cần cho trứng phát triển ở môi trường yếm khí, trứng không phát triển được, nhưng vẫn duy trì sự sống, vì thế trứng vẫn sống được một thời gian ở nước bẩn, hoặc môi trường thiếu oxi.
+ Đường truyền bệnh: Trứng giun đũa vào cơ thể chủ yếu qua miệng. Lợn thích liếm, gặm dụng cụ, máng ăn, bãi chăn…nên trứng dễ theo vào đường tiêu hóa. Khi bón phân lợn tươi cho ruộng trồng thức ăn, trứng giun sống được vài tháng ở thức ăn xanh. Ruồi, chuột, cũng có thể phân tán trứng giun, gió cuốn được trứng giun theo bụi từ chuồng này sang chuồng khác. Lợn con nhiễm bệnh chủ yếu khi bú sữa mẹ, nuốt phải trứng ở đầu vú. Ngoài ra có tài liệu cho biết ấu trùng gây bệnh ở trứng giun đũa người khi có nhiệt độ 34oC, thì nở ra ấu trùng và có thể chui qua da người mà vào cơ thể.
+ Mối liên quan giữa giun đũa người và giun đũa lợn: về mặt sinh học, nhất là gây nhiễm chéo, trong nhiều năm gần đây đã tranh luận là hai loại đó khác hay là cùng một loài.
Nói chung gây nhiễm nhân tạo thấy giun đũa người có thể xâm nhiễm vào lợn và giun đũa lợn có thể xâm nhiễm vào người. Hiraishi (1928), Boer (1935), đã gây nhiễm giun đũa người cho lợn khi lợn ăn thức ăn thiếu vitamin A. Soulsby (1961) cũng gây nhiễm được cho lợn mới đẻ không được bú sữa đầu đối với giun đũa người.
Takate (1951) lấy trứng giun đũa lợn gây nhiễm cho 19 người lớn, có 7 người bị nhiễm. Theo Mozgovoi (1953) nghiên cứu thấy ký chủ nhiễm giun đũa người thì ngoài người ra còn có tới 10 loại động vật khác như lợn, chó…cũng bị nhiễm. Vì vậy tác giả thừa nhận giun đũa lợn và giun đũa người không cùng một loài. Xét về mặt dịch tễ, ở một khu vực lợn nhiễm giun đũa lợn với tỉ lệ rất cao nhưng người không nhiễm cao, hoặc người nhiễm với tỉ lệ rất cao nhưng lợn không nhiễm cao chứng tỏ chúng khác loài và không có liên quan trực tiếp.
2.4.4. Tỉ lệ và cường độ nhiễm của bệnh giun đũa lợn
Ở miền Bắc tỉ lệ nhiễm dao động 13-14% (Phạm Văn Khuê, Trịnh Văn Thịnh, 1982). Năm 1978, Phạm Văn Khuê, Phan Văn Lục điều tra 1055 lợn nuôi tại 6 tỉnh Nam Bộ cho biết tỉ lệ nhiễm giun đũa là 31,04%, trong đó heo ba tỉnh miền Đông nhiễm 40% cao hơn ở ba tỉnh đồng bằng sông Cửu Long là 23%. Năm 1995, Lương Văn Huấn mổ khám 891 lợn thuộc 4 lứa tuổi và khảo sát 5044 lợn lớn thuộc 12 tỉnh thành ở phía Nam cho thấy tỉ lệ nhiễm giun đũa là 53%. Bình Trị Thiên là 34%, Quảng Nam-Đà Nẵng là 61%, Bình Định 45%, Phú Yên, Khánh Hòa 75%, Đồng Nai 64%, Sông Bé 51%, Tây Ninh 45%, Thành phố Hồ Chí Minh 41%, Tiền Giang 73%, Kiên Giang 70%. Phạm Văn Chức, Châu Bá Lộc và cộng sự (1986) cho biết heo Hậu Giang nhiễm 28-50%. Bùi Lập, Nguyễn Đăng Khải, Vũ Sỹ Nhàn (1979) cho biết heo miền Trung nhiễm 36-58%.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |